Bài số :  22

Thơ Funya no Yasuhide 文屋康秀

 

a) Nguyên văn:

吹くからに

秋の草木の

しをるれば

むべ山風を

嵐ひとうらむ

b) Phiên âm:

Fuku ka kara ni

Aki no kusaki no

Shiorureba

Mube yamakaze wo

Arashi to iu ramu (ran)

c) Diễn ý:

Gió vừa từ trên núi thổi xuống,

Cây cỏ mùa thu đã tiêu điều thê lương.

Thấy thế mới biết tại sao,

Ngọn gió ấy được gọi là cơn giông núi.

d) Dịch thơ:

Gió từ núi thổi xuống,
Làm cây cỏ võ vàng.
Nào khác chi giông bão,
Gieo rắc cảnh thê lương.

(ngũ ngôn) 

Gió núi, cây cỏ võ vàng,
Là cơn giông báo thu tàn, khác chi.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ:Kokin-shuu (Cổ Kim Tập), thơ thu, phần hạ, bài 249.

Tác giả: Funya no Yasuhide (Văn Ốc Khang Tú) có chân trong sáu ca tiên sống vào giữa thế kỷ thứ 9. Ông là cha của Funya no Asayasu (Văn Ốc, Triêu Khang), một nhà thơ waka khác, cũng có bài đăng trong Hyakunin Isshu (bài 37).

 

Funya no Yasuhide

 

Theo lời giải thích trong Kokin-shuu, bài này đã được làm ra trong một buổi bình thơ ở phủ đệ thân vương Koresada, một địa điểm tụ họp của thơ văn cung đình đương thời. Đây là một bài thơ đặt trọng tâm vào kỹ thuật chơi chữ.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Cơn giông núi báo hiệu mùa đông làm cho cây cỏ tiêu sơ.

Kỹ thuật của bài thơ này nằm trong lối ghép chữ Hán yamakaze (山風sơn phong) để so sánh với chữ arashi (嵐 lam = sơn + phong) mà chữ arashi (lam = giông núi) này còn có thể được sử dụng như một kake-kotoba (chữ đa nghĩa) vì nó đồng âm với 荒しarashi nghĩa là hoang loạn. Ở đây cần chú ý là chữ lam trong Hán ngữ lại có nghĩa là sương thu (ái = moya), một cách hiểu khác trữ tình hơn đối với nghĩa tiếng Nhật dùng trong bài này.

Từ khi những cơn giông núi nổi dậy, cảnh vật mùa thu nhất tề bước sang đông.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Sơn Phong Xuy Quá.
山 風 吹 過

 

Sơn phong phủ[1] xuy quá,
山 風 甫 吹 過

Thu thâm thảo mộc hoàng.
秋 深 草 木 黄

Tự kinh bạo phong vũ,
自 驚 暴 風 雨

Chi diệp câu điêu thương.
枝 葉 倶 凋 傷 

Một trận giông núi đủ báo mùa đông đến khác nào khi một chiếc lá ngô đồng rụng, thiên hạ đều biết thu về. Cũng như khi thấy cánh chim hồng bay gấp là hay mùa thu hầu tàn.

Ngô đồng nhất diệp lạc,
梧 桐 一 葉 落

Thiên hạ cộng tri thu.
天 下 共 知 秋 

Hàn hồng phi cấp giác thu tận.
寒 鴻 飛 急 覚 秋 尽

Và có phải tác giả muốn nói đến qui luật của cuộc đời “cảnh mùa đông cũng như tuổi già không ai tránh khỏi” từng được gợi ý trong một câu thơ chữ Hán:

Duy hữu lão đáo lão,
唯 有 老 到 老

Nhân sinh vô tị xứ.
人 生 無 避 処


[1] Phủ: vừa mới.

Anh dịch:

Now autumn’s gales, in various freak

On herb, on tree, destruction wreak,

And wildest roar

The guts that down from Mube[1] Pour.

 

(Dickins)

Since 'tis by its breath

Autumn's leaves of grass and trees

Riven are and waste,--

Men may to the mountain wind

Fitly given the name, "The Wild."

(Mac Cauley)


[1] Wilkins dịch như danh từ riêng nhưng đây là một phó từ với nghĩa “Thế thì”.