Bách
Gia Chư Tử
Thảo Đường
Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh
biên soạn
-
Phần
Bốn
*
Lược
khảo các tác phẩm của Bách Gia Chư Tử
|
-
2 -
Các
sách của phái Đạo gia
|
Sách của phái Đạo
gia, pho Lão Tử là nổi tiếng hơn hết. Tương truyền pho Lão
Tử, là lúc Lão Tử vào nước Tần, khi qua cửa ải viết
cho Quan Doãn 5 ngàn lời.
Lão Tử họ Lý, tên
Nhĩ, tự Đam, làm quan Thủ tàng thất sử cho nhà Châu, Khổng
Tử qua nhà Châu xem sách, thường hỏi Lễ với ông.
Lão Tử thường nêu
mẫu mực cho Khổng Tử và Khổng Tử cũng thường khen Lão
Tử. Sách Sử ký, phần Lão Tử truyện và Khổng Tử Thế
Gia đều có ghi việc ấy.
Theo các chứng cớ ấy
thì dường như Lão Tử và Khổng Tử đồng thời, mà tuổi
đời và đức của Lão Tử cao hơn Khổng Tử, như thế thì
quyển Lão Tử phải ra đời trước quyển Luận Ngữ rất
lâu...và mở đầu cho phong trào sáng tác tư nhân, và là người
khai tổ cho Chư Tử.
Nhưng Lão Tử chỉ là
một tên gọi chung, và quyển Lão Tử được mọi người thích
đọc chỉ là tác phẩm của một nhân vật truyền thuyết
mà không phải là của Lão Lai Tử, của Thái sử Chiêm nhà
Châu, hay là của Lý Nhĩ như phần trên đã nói.
Về quyển Lão Tử thì
không phải do Lão Tử viết mà do người thời Chiến Quốc
gom góp những lời truyền tụng của phái Đạo gia, rồi cũng
có trích ở các sách khác, góp lại mà thành.
Quyển sách ấy ra đời
sau pho Luận Ngữ rất xa, sau đây là phần lược khảo về
pho Lão Tử.
*
Trong Hán Chí, phần Chư
Tử lược, về phái Đạo gia, thì có quyển Lão Tử, có 4
quyển khác nhau :
1. Quyển Lão Tử Lân
thị kinh truyện, 4 thiên, với lời chú : " Ông họ Lý, tên
Nhĩ, Lân thị truyền học thuyết của ông ".
2. Quyển Lão Tử Phó
thị kinh thuyết, 37 thiên, với lời chú : " Thuật học thuyết
của Lão Tử, v.v... ".
3. Quyển Lão Tử Từ
thị kinh thuyết, 6 thiên, với lời chú : Tự Thiếu Quí, người
đất Lâm Hoài, truyền học thuyết Lão Tử.
4. Quyển " Thuyết Lão
Tử " của Lưu Hướng, 4 thiên.
Bốn quyển kể trên
đều là bổn chú của Lão Tử, với những câu : " Kinh truyền...
" hay " Kinh thuyết rằng ... " là vì trong thời kỳ đầu Tây
Hán, Hoàng Lão rất được sùng thượng, suy tôn quyển Lão
Tử là " Kinh "...cho nên gọi quyển Lão Tử là " Kinh "... để
truyền thuật học thuyết.
Sách của Lưu Hướng,
sở dĩ không viết " Lão Tử nói... " là vì Lưu Hướng gốc
là người phái Nho, mà lại nói về thuyết Lão Tử, thì có
khác với các họ Lân, Phó và Từ đã kể trên.
Ngày nay, còn được
quyển Lão Tử 81 chương, phân làm 2 thiên thượng, hạ. Thượng
thiên 37 chương, gọi là Đạo Kinh. Hạ thiên 44 chương gọi
là Đức Kinh. Hợp chung gọi là Đạo Đức kinh.
Đạo Tòng bản có quyển
Đạo Đức chú tập giải của Đổng Tư Tịnh đời Tống,
trong lời tựa có viết : Lưu Hướng định ra 2 thiên 81 chương,
như thế thì khi Lưu Hướng hiệu đính đã phân ra thượng,
hạ kinh, nhưng số chương trong các thiên lại không giống
với bổn ngày nay.
Lại có quyển Hỗn Ngươn
thánh kỷ của Tạ Thủ Hạo đời Tống dẫn lời quyển Thất
lược viết : " Lưu Hướng hiệu đính sách Lão Tử 2 thiên,
sách Thái sử 1 thiên, và riêng sách của ông 2 thiên, tất
cả 5 thiên, 143 chương, trừ những chỗ trùng 3 thiên gồm
62 chương, định ra làm 2 thiên và 81 chương : Thượng kinh
đệ nhứt 37 chương, Hạ kinh đệ nhị 44 chương ".
Như vậy Thượng, Hạ
kinh và chương số giống với bổn còn hiện nay.
*
Sách Lão Tử, Thượng
thiên, câu đầu viết : " Đạo khả đạo, phi thường đạo
" và câu đầu Hạ thiên là : " Thượng đức bất đức, thị
dĩ hữu đức ". Trong Đạo Đức kinh, dường như lấy chữ
đầu trong 2 câu đầu 2 thiên để làm tên, như thế là tiêu
đề không có nghĩa, vì chỉ dùng những chữ đầu trong các
thiên ghép lại chớ không nêu nội dung quyển sách.
Trong sách Sử ký, phần
Bổn truyện chép : Lão Tử viết sách gồm Thượng, Hạ thiên,
nói cái ý của Đạo, Đức " vì thế quyển sách mới gọi
là Đạo Đức kinh, đó là cái ý của toàn thể quyển sách
chớ không phải vì tên của 2 thiên đầu mà đặt ra.
Sách Tùy Chí có viết
: " Vương Bật chú Đạo Đức kinh 2 quyển. Triệu dĩ Đạo,
trong lời bạt của quyển sách Vương Bật có viết : "
Bật đề tên quyển sách là Đạo Đức kinh... " như thế thì
Vương Bật đã đề tên cho quyển sách.
Nhưng Vương Bật không
đề tên 2 thiên là Đạo kinh và Đức kinh. Trong phần Lão
Tử thích văn của quyển kinh điển thích văn Lục thị đã
ghi là căn cứ theo bổn của Vương Bật, và trong quyển sách
đã phân ra Đạo kinh và Đức kinh. Nhưng trong quyển sách,
quyển thượng lại có tên là Âm nghĩa, với chữ đầu Đạo
đức...rồi giải thích...
Nếu đã phân thiên,
thì phần Âm nghĩa ấy chỉ phải giải thích có chữ Đạo
thôi.
Do đó, tuy Vương Bật
đã đề toàn bộ quyển sách là Đạo Đức kinh, nhưng thật
ra chưa phân ra 2 thiên Đạo kinh và Đức kinh, tóm lại, sở
dĩ quyển sách có tên là Đạo Đức kinh là vì quyển sách
nói cái ý Đạo Đức.
Đạo Đức là ý chính
yếu của học phái Lão Tử, cho nên phái ấy cũng gọi là
Đạo Đức gia, mà quyển sách của Lão Tử lại may mắn có
2 thiên, nên có kẻ mới phân đề ra làm Đạo kinh và Đức
kinh, chớ không phải lúc ban đầu đã có phân đề rồi sau
mới hợp lại thành Đạo Đức kinh.
*
Các sách của Chư Tử,
lúc ban đầu, đa số đều không phải do chính tay người ấy
viết ra. Sách Lão Tử là do người thời Chiến Quốc gom góp
lại mà thành. Bằng chứng về lời nhận xét nầy có tất
cả 6 điểm.
1. Luận Ngữ là do hậu
học của Khổng Tử biên soạn, mỗi người đều có ghi riêng
lời nói của thầy, và đến cuối đời Xuân Thu gom lại mà
soạn.
Lúc đầu thời Chiến
Quốc, văn chương còn đơn giản chất phác, những chương
không liền nhau. Văn trong quyển Lão Tử cũng đơn sơ chất
phác, mỗi đoạn lại không liền nhau, giống như sách Luận
Ngữ, nhưng Luận Ngữ thì viết theo thể văn ký ngôn, cho nên
mỗi chương đều ghi tên người phát ngôn, còn sách Lão Tử
thì chỉ là những đoạn cách ngôn, không phải thể văn ký
ngôn, khác hẳn với Luận Ngữ. Đó là bằng chứng thứ nhứt.
2. Trong sách Luận Ngữ,
chưa bao giờ có đề cập đến Lão Tử, Khổng Tử đã từng
đến thọ giáo, hỏi về việc Lễ, với tinh thần khâm phục,
tại sao lúc bình thường lại không nhắc đến Lão Tử một
câu nào cả ?
Trong các sách Mặc Tử
và Mạnh Tử, cũng có những lời phê phán Lão Tử, trong sách
Lão Tử cũng có những luận điệu phản đối Nho, Mặc, như
thế là quyển Lão Tử đã viết sau các quyển Luận Ngữ,
Mặc Tử và Mạnh Tử.
Đó là bằng chứng thứ
2.
3. Sách Luận Ngữ không
phải do một người biên soạn, cho nên thỉnh thoảng có những
đoạn trùng nhau, trong quyển Lão Tử, những đoạn trùng lại
càng nhiều hơn, như thế là không phải do một mình Lão Tử
viết, không phải viết ra trong lúc ông đi ngang qua cửa ải.
Đó là bằng chứng thứ
3.
4. Toàn bộ sách Luận
Ngữ không có vần, trong Mạnh Tử tuy thỉnh thoảng có những
đoạn vần, nhưng rất ít, nhưng trong sách Lão Tử thì lại
rất nhiều, khác hẳn với sách Luận Ngữ, Mạnh Tử.
Thiên Hồng Phạm trong
kinh Thơ, các thiên Văn Ngôn, Hệ Từ trong kinh Dịch, những
câu vần cũng rất nhiều, loại văn xuôi nghị luận mà xen
có vần như trong sách Lão Tử không phải là loại văn của
thời xưa, đây là bằng chứng thứ 4 rất dễ nhận.
5. Chương thứ 38 sách
Lão Tử có viết : " Cho nên mất đạo mà sau đức, mất đức
mà sau nhơn, mất nhơn mà sau nghĩa, mất nghĩa mà sau lễ...và
lễ là cái bạc của trung tín, và cũng là mối đầu của
loạn " và " người biết trước là cái văn vẽ bên ngoài
của đạo và cũng là cái bắt đầu của điều ngu... ".
Lập luận nầy rất
đúng với sự diễn biến của đạo đức dưới thời Chiến
Quốc qua các học phái của Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử, nếu Lão Tử là người của thời Xuân Thu thì làm
sao có được lập luận như thế ?
Đó là bằng chứng thứ
5.
6. Những câu trong Lão
Tử, thấy rất nhiều trong sách Trang Tử, và cũng có những
câu của Pháp gia, Binh gia, Tung Hoàng gia, rõ ràng đây là một
pho sách gom góp.
Đó là bằng chứng thứ
6.
*
Căn cứ theo 6 bằng chứng
kể trên, chúng ta có thể quả quyết rằng pho Lão Tử không
phải do một người viết trong một thời gian nào đó, mà
do một số người trong thời Chiến Quốc gom góp những câu
hay truyền tụng trong phái Đạo gia [vì những câu có vần
trong pho sách là những câu như cách ngôn dễ nhớ, dễ đọc,
dễ truyền tụng trong dân chúng], rồi cũng có những câu hay
trích lục từ trong các sách khác, rồi gán cho Lão Tử.
Dưới thời Hán sơn,
vua chúa, hoàng hậu và đại thần rất say mê quyển Lão Tử
vì thế mới tôn là " Kinh " rồi học giả lại a dua theo biến
quyển sách thành tác phẩm của Chư Tử và được tôn lên
hàng đầu.
*
Bổn chú của Lão Tử,
bổn xưa nhứt, bây giờ còn là quyển Lão Tử chú của Hà
thượng Công. Sách Tùy chí có viết : " Lão Tử Đạo Đức
Kinh 2 quyển, dưới thời Hán văn Đế, Hà thượng Công chú
... ".
Sách Sử ký, phần Nhạc
nghị truyện có viết : " Nhạc thần chuyên tâm học Hoàng
Đế, Lão Tử, Bổn sư là Hà thượng trượng nhơn nhưng không
biết ông là người từ đâu đến...Hà thượng trượng nhơn
dạy An kỳ Sanh, An kỳ Sanh dạy Mao hấp Ông, Mao hấp Ông dạy
Nhạc hà Công, Nhạc hà Công dạy Nhạc thần Công, Nhạc thần,
Công dạy Cái Sanh, Cái Sanh dạy Cao mật Tây, Cao mật Tây làm
quốc sư cho Tào tướng ".
Tào tướng quốc là
Tào Tham, dường như từ Hà thượng trượng nhơn đến Tào
Tham, việc truyền thọ rất phân minh, bảy lần truyền mà
đến đời Hán sơ, như thế thì Hà thượng trượng nhơn là
người thời Chiến Quốc.
Kinh điển Thích văn
tự lục có viết : " Hà thượng Công viết sách Chương cú
4 quyển, vua Văn Đế triệu, không đến, Văn Đế liền đến
trách ông. Hà thượng Công liền nhảy lên không trung, Văn
Đế nghiêm chỉnh tạ lỗi, ông liền trao cho Văn Đế quyển
Lão Tử chương cú gồm 4 quyển.
Sách Thuyết văn đã
dẫn lời trong quyển Lão Tử tự quyết, và Lão Tử tự quyết
chép ở Đạo Tòng Bản, Đạo Đức chơn kinh tứ gia tập chú,
tương truyền quyển nầy do Cát Hồng hay Cát Huyền soạn,
cho nên chuyện thần thoại Hà thượng Công hợp với truyện
thần tiên của Cát Hồng...
Hà thượng trượng nhơn
dưới thời Chiến Quốc, tức là Hà thượng Công thời Hán
Văn Đế. Trong sách Tùy chí có nói đến quyển Lão Tử chú,
tức là bản Lão Tử còn đến ngày nay, và nếu như Hà thượng
Công đã trao cho Văn Đế bản Lão Tử chú ấy, thì tự nhiên
ông phải cất giữ kỹ trong cung cấm, tại sao lúc Lưu Hướng
hiệu đính các sách cho vua lại không có quyển sách ấy ?
Và luôn cả sách Thất lược, Hán Chí cũng không thấy ghi
vào ? Hơn nữa sự tích và hành động của Hà thượng Công
lại quá lờ mờ, không có gì rõ rệt, rõ ràng, đó chỉ là
lời thêu dệt của bọn phương sĩ mà thôi.
Vì thế mà Lưu Tri Cơ
sau nầy chỉ đề cập đến quyển Lão Tử với lời chú của
Vương Bật, chớ hề nhắc đến quyển chú của Hà thượng
Công.
Trong Thích Văn tự lục
mặc dù đã ghi chuyện Hà thượng Công, nhưng đến phần Lão
Tử thích văn cũng chỉ căn cứ đến quyển chú của Vương
Bật mà thôi.
*
Về chú bổn quyển Lão
Tử, chỉ có quyển của Vương Bật là đáng chú ý hơn hết.
Vương Bật là người nước Ngụy, rất giỏi về truyền ngôn,
lại tinh thông Dịch lý, cho nên có thể bài bác những lời
hoang đường của bọn phương sĩ tìm hiểu được chỗ tinh
vi, huyền diệu của pho Lão Tử.
Sách Lưu Đường chí
có ghi quyển Huyền ngôn tân kỷ đạo đức 2 quyển, đó chỉ
là tập chú Đạo Đức kinh của Vương Bật.
Sách Tân Đường chí
lại cho rằng đó là quyển sách do Vương Túc soạn chớ không
phải quyển chú của Vương Bật.
Dưới thời nhà Minh
có Tiêu Hoằng viết quyển Lão Tử dực, tập trung tất cả
tài liệu của Hàn Phi trong các thiên Giải Lão, Dụ Lão cho
đến các tập chú Lão Tử khác, cọng tất cả tài liệu của
64 người.
Quyển nầy tài liệu
tham khảo rộng rãi, đầy đủ, việc lựa chọn cũng chính
xác, tinh vi, phương pháp biên soạn phỏng theo Lý Đảnh Tộ
trong Châu Dịch tường giải, nên đây là một quyển đáng
chú ý.
Ngoài ra cũng còn quyển
Lão Tử thuyết lược của Trương Nhĩ Kỳ đời Thanh, Nhĩ
Kỳ là người chuyên môn về cổ học rất đáng tin cậy,
kế đó là quyển Lão Tử của Mã Di Sơ...tiếp theo lại còn
rất nhiều bản chú khác không sao kể cho hết được. |
Dưới thời nhà Hán,
nói đến Đạo gia là đề cập đến Hoàng Lão mà không nói
đến Lão Trang. Đối với quyển Lão Tử, sách Hán Chí cho
là " Kinh ", còn sách Trang Tử thì không được trích lục những
chú bổn, là vì lúc đó Trang Tử chưa được các học giả
tôn trọng.
Học thuyết của Trang
Tử được trọng là bắt đầu từ thời Ngụy, Tấn và được
sắp chung với kinh Dịch và Lão Tử, gọi là " Tam huyền "
và cũng từ đó mới được gọi chung là Lão Trang.
Trang Tử được tôn
lên làm " Kinh " là bắt đầu từ thời Đường Huyền Tôn,
sách Tân Đường Chí có viết : " Đầu năm Thiên Bảo, hạ
chiếu gọi quyển Trang Tử là Nam Hoa chơn kinh ".
Trong quyển " Viên Thuần
Đường bút ký " của Diêu Phạm có viết : Tên Nam Hoa không
hiểu xuất phát từ đâu...
Sách Tùy Chí có nhắc
đến các quyển Nam Hoa Luận, Nam Hoa Luận Âm của Lương Khoáng...và
gọi Trang Tử là Nam Hoa chơn nhơn, quyển Trang Tử là Nam Hoa
chơn kinh, từ đời Đường Khai Nguyên năm thứ 25, như thế
thì tên Nam Hoa, trước đời nhà Đường đã có rồi.
Đường Huyền Tôn tôn
sùng Trang Tử với một lý do không đâu, và sách Trang Tử
liền thành một quyển sách quan trọng trong phái Đạo gia,
giá trị còn hơn quyển Lão Tử.
Sau đây, xin lược khảo
về quyển Trang Tử :
Trong Hán Chí, phần Chư
Tử lược, phái Đạo gia, có quyển Trang Tử 52 thiên, nhưng
quyển Trang Tử ngày nay có 33 thiên, so với Hán Chí thì ít
hơn 19 thiên, như thế thì quyển sách còn ngày nay là bổn
đã bị mất mát.
33 thiên trong sách Trang
Tử kể ra như sau :
Nội thiên gồm 7 thiên
: Tiêu diêu Du, Tề vật Luận, Dưỡng sanh Chủ, Nhơn gian Thế,
Đức sung Phù, Đại tôn Sư, Ứng đế Vương.
Ngoại thiên gồm 15 thiên
: Biền Mẫu, Mã Đề, Khư Kịp, Tại Hựu, Thiên địa, Thiên
đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tánh, Thu thủy, Chí lạc,
Đạt sanh, Sơn Mộc, Điền tử Phương, Tư Bắc Du.
Tạp thiên gồm 11 thiên
: Canh tang Sở, Từ vô Quỉ, Đạo Chích, Thuyết kiếm, Ngư
phù, Liệt ngự khấu, Thiên hạ.
Trong Nội thiên, các
thiên đều có tiêu đề có nghĩa, còn trong Ngoại thiên và
Tạp thiên, thì dường như hầu hết các tiêu đề đều không
có ý nghĩa.
Về 19 thiên bị mất,
thì không rõ mất vào lúc nào, theo sách Kinh điển thích văn
tự lục có ghi, thì dưới thời Tấn, có 5 nhà chú thích quyển
Trang Tử, nhưng số thiên của mỗi quyển lại nhiều ít khác
nhau.
Sau đây là mấy quyển
ấy :
1. Bản chú của Tư Mã
Bưu 21 quyển, 52 thiên, Nội thiên gồm 7 thiên, Ngoại thiên
28 thiên, Tạp thiên 14 thiên, Giải Thuyết 3 thiên, nhưng sách
đã bị mất.
2. Bản chú của Mạnh
Thị 18 quyển, 52 thiên, không biết có chia làm Nội, Ngoại,
Tạp thiên hay không, sách Thích văn không có ghi. Bản nầy
cũng bị mất.
3. Bản chú của Thôi
Soạn, 10 quyển, 27 thiên, Nội thiên 7 thiên và Ngoại thiên
20 thiên.
Quyển nầy đã mất.
4. Bản chú của Quách
Tượng : 33 quyển, 33 thiên, Nội thiên 7 thiên, Ngoại thiên
15 thiên, Tạp thiên 11 thiên, Âm : 1.
Bản nầy hiện nay còn
nhưng sửa lại làm 10 quyển.
Trên đây là bản chú
của 5 người, 2 bản của Tư Mã và Mạnh Thị thì số thiên
đồng với Hán Chí. Ba bản của Thôi, Hướng, Quách thì số
thiên lại ít hơn.
Xét ra, cũng đồng một
thời nhà Tấn tại sao lại có bản bị mất đi đến một
phần ba số thiên ? Hai bản chú của Thôi và Hướng đã bị
mất, nhưng tìm hiểu kỹ bản của họ Quách hiện nay còn,
so sánh với bản khác, thì dưới thời nhà Tấn, các nhà chú
thích có cắt xén và gom lại nên mới còn ít thiên.
Sách Thích văn tự lục
có viết : Trang Tử tài rộng, dạy đời lời nói thâm thúy,
thú vị, nói ngay mà như ngược, cho nên khó có ai thông được...người
đời sau thêm bớt làm cho mất lần lần cái chân chính của
ông, cho nên Quách Tử Huyền có nói : " Có những người đa
sự thêm bớt, làm cho có những thiên bị mất bản sắc cũ
đến 3 phần 10 ".
Sách Hán thơ Nghệ văn
chí, ghi quyển Trang Tử 52 thiên, tức là bản chú của Tư
Mã Bưu và Mạnh Thị. Lời chú của ông hoang đường, hoặc
giống như Sơn Hải Kinh, hoặc giống như sách bói, mộng...
Chỉ có bản chú của
Tử Huyền và Quách Tượng chiếm đến 3 phần 10 quyển sách,
chỗ nào nghi ngờ là do kẻ đời sau thêm vào, không đúng
với ý của Trang Tử, là Quách Tượng cắt bỏ để giữ cho
đúng ý, y như sách Triệu Kỳ đã chú sách Mạnh Tử, cắt
bỏ 4 thiên ngoại thơ, thành ra bị mất luôn.
Sách Bắc Tề thơ, phần
Đỗ Bật truyện, có viết : Bật đã từng chú thích thiên
Huệ Thi sách Trang Tử. Có lẽ bổn Trang Tử ngày nay nửa phần
sau từ chỗ " Huệ Thi đa phương " trở về sau, trước kia
là 1 thiên riêng, mà những nhà chú thích gom lại thành 1 thiên
vì thế mới có thuyết là quyển Trang Tử ngày nay ít thiên
hơn là do lý do ấy.
Những đoạn bị mất
trong sách Trang Tử, có chỗ còn thấy trong sách Liệt Tử và
Hoài Nam Tử, tuy chưa tìm hiểu được những đoạn ấy thuộc
về thiên nào, nhưng biết chắc đó là những đoạn bị các
nhà chú thích bỏ bớt.
Nội thiên sách Trang
Tử, các bản chú thích đều giống nhau là 7 thiên, như thế
là các đoạn cắt bỏ thuộc về Ngoại thiên và Tạp thiên.
Nhưng trong phần Nội
thiên cũng có những chỗ bị cắt xén hay thay đổi vị trí,
quyển Trang Tử ngày nay còn chẳng những số thiên đã ít
mà các câu có nhiều đoạn cũng khác với bản cũ.
Vì thế, chúng ta có
thể suy đoán, trong số 52 thiên của sách Trang Tử trước
kia, nội dung rất bao la, tạp nhạp, và sách ấy không phải
do chính Trang Tử viết, mà chỉ do những người hậu học
Trang Tử biên soạn, gom góp và việc biên soạn cũng không
phải trong một thời gian nhứt định, một lần mà xong, có
nhiều người, nhiều lần đã viết thêm vô.
Bản Trang Tử 33 thiên
còn lại ngày nay tự nhiên là đã mất mát rất nhiều, và
đại bộ phận đã được các nhà chú thích Thôi Soạn, Hưóng
Tú, Quách Tượng thêm bớt sửa chữa nhiều lần.
Năm bản chú thích của
đời Tấn đã kể trên, bây giờ chỉ còn có một bổn của
Quách Tượng, như thế thì " chân diện mục " trước kia của
pho Trang Tử như thế nào, chúng ta không có cách gì để biết
được cả.
*
Bản chú thích sách Trang
Tử còn cho đến ngày nay, bản của Quách Tượng là xưa hơn
hết. Bản Quách Tượng tương truyền là đã cóp theo bản
Trang Tử của Hướng Tú.
Vụ án đạo văn nầy
bắt dầu từ thiên Văn học trong pho Thế thuyết tân ngữ.
Trong thiên Văn học của
pho sách trên có chép Hướng Tú chú thích pho Trang Tử chỉ
đến 2 thiên Thu Thủy và Chí Lạc, nhưng chưa xong là qua đời.
Phía dưới lại viết
tiếp : " Con của Hướng Tú còn nhỏ nhưng lại giữ được
1 bổn chú của cha. Quách Tượng là người kém hạnh thấy
bản chú của Hướng Tú chưa lưu hành, liền lấy làm của
mình, còn những thiên khác Hướng Tú chưa chú thích thì Quách
Tượng chỉ định văn và chấm câu mà thôi.
Sau đó quyển chú của
Hướng Tú được lưu hành, cho nên ngày nay có 2 bản của
Hướng Tú và Quách Tượng, tuy là 2 bản, nhưng lại giống
nhau.
Sách Tấn thơ trích Quách
Tượng truyện, và Tiền Tăng trong quyển " Đọc thơ mẫn cầu
ký " có viết : " Tôi đọc sách Thích văn của họ Lục, có
dẫn lời chú của Hướng Tú nhiều chỗ, như thế là Hướng
Tú có một quyển chú Trang Tử lưu hành, thời đại cách nhau
quá xa, lời nói truyền nhau có khi bị sai lạc, những lời
trong sách Tấn thơ đã nói, cũng chưa chắc là đúng... ".
Đó là những lời biện
bạch, minh oan cho Quách Tượng.
Trong phần Thơ mục đề
yếu của sách Tứ Khố Toàn Thơ có viết : " Về bản chú
của Hướng Tú, Trần Chấn Tôn cho biết đến đời nhà Tống
đã bị mất, nhưng còn thấy rải rác những đoạn trong sách
Thích Văn của họ Lục. Đem những đoạn ấy so sánh, như
câu " Hữu bồng chi tâm " trong thiên Tiêu diêu Du...thì thấy
2 bản đều khác nhau, như câu : " Thánh nhơn bất tử, đại
đạo bất chỉ " trong thiên Khư Kịp, hai bên cũng không giống...ngoài
ra cũng còn nhiều đoạn không giống nhau.
Trương Trạm trong bản
Liệt Tử chú, có những đoạn giống Trang Tử, và cũng có
dẫn lời của Hướng Tú và Quách tượng v.v...
Theo sách Thế Thuyết
Tân Ngữ thì Hướng Tú chú 2 thiên Thu Thủy và Chí Lạc mà
chưa xong rồi chết, nếu Quách Tượng có " cóp " theo thì cũng
chỉ một đoạn ngắn ấy thôi, chớ không phải toàn bộ quyển
sách.
Tiêu Hoằng cũng có pho
Trang Tử dực, cũng gom góp những lời chú của người trước,
từ Quách Tượng trở đi, tổng cộng có lối 22 người, có
thể nói đây là pho tập chú rộng rãi và đầy đủ. Rồi
phần sau lại thêm phần Trang Tử khuyết ngộ gom góp những
chỗ sai biệt từ pho Nam Hoa kinh giải của Lục Cảnh Ngươn
đời Tống đến các tài liệu trong Sử ký, sách Trang Tử
luận của Nguyễn Tịch, Vương An Thạch, sách Trang Tử từ
đường ký của Tô Thức v.v... tóm lại, hầu hết sách của
các học giả về Trang Tử, ông đều có đọc và trích lục
đầy đủ.
Về những pho Trang Tử
chú bổn, dưới đời Thanh có pho Trang Tử tập giải của
Quách Khánh Phiên, chú thích rõ ràng, bản Trang Tử tập giải
của Vương Tiên Khiêm rất giản dị dễ đọc, bản Trang Tử
nghĩa chứng của Mã Di Sơ vừa rộng mà lại vừa dễ tóm
lược, bản của Mã Di Sơ gồm được những sở trường của
Quách Khánh Phiên và Vương Tiên Khiêm, rất đáng cho đọc
giả chú ý. |
3.
Sách Quản Tử và Thái Công. |
Sách Đạo gia bây giờ
còn lại rất nhiều, nhưng sách nên đọc ngoài Lão Tử, Trang
Tử, thì chỉ có Quản Tử. Còn như sách Thái Công không phải
là loại sách dưới thời Châu Tần, đọc cũng không có ích
lợi gì bao nhiêu.
Các nhà học giả, đề
cập đến phái Đạo gia, thường thường chỉ nhắc đến
Lão Tử, Trang Tử và Quản Tử, Lão Trang, đoạn trước đã
lược qua, bây giờ xin tìm hiểu đến sách Quản Tử.
*
Sách Hán Chí, phần Đạo
gia có Quản Tử 86 thiên, với lời chú : Tên Di Ngô, làm tướng
cho Hoàn Công, 9 lần hợp chư hầu, không dùng đến binh xa,
có Liệt truyện trong Sử ký.
Bản Quản Tử hiện
nay, phía trước có phần Tự Lục của Lưu Hướng viết :
Khi hiệu đính sách Quản Tử, có 389 thiên, sách Đại trung,
đại phu Bốc Khuê 27 thiên, sách của Phú Tham 41 thiên, sách
của Tạ Trung Hiệu Úy Lập 11 thiên, sách của Thái sử 96
thiên, tất cả sách trong ngoài là 564 thiên.
Sau khi hiệu đính, bớt
những phần trùng 484 thiên, định còn lại 86 thiên, như thế
là bản hiệu đính của Lưu Hướng có 86 thiên.
Trong sách Sử ký, chép
Quản Án liệt truyện có viết : " Quản Tử đã bị mất 10
thiên, 10 thiên đó là Mưu thất, Chánh ngôn, Phong thiện, Ngôn
chiếu, Tu thân, Vấn bá, Mục dân giải, Vấn thừa mã, Khinh
trọng (bính), Khinh trọng (canh).
Nghiêm Khả Quân trong
quyển Thiết kiều mạn cảo cũng có viết : Dưới thời Lương,
Tùy đã mất 10 thiên. Dưới thời nhà Tống lại mất thêm
Vương Ngôn, cho nên bản Quản Tử ngày nay, 11 thiên ấy có
tên mà không có bài.
Trong sách Tứ khố toàn
thơ có ghi : Quản Tử 24 quyển, 86 thiên, trong phần Pháp gia
tức là bổn Quản Tử còn hiện nay.
24 quyển với các thiên
chép ra sau :
Quyển 1 : các thiên
: Mục dân, Hình thế, Quyền tu, Lập chánh, Thừa mã.
Quyển 2 : Thất
pháp, Bản pháp.
Quyển 3 : Ấu quan,Ấu
quan đồ, Ngũ phụ.
Quyển 4 : Trụ
hợp, Xu ngôn.
Quyển 5 : Bát quang,
Pháp cấm, Trọng lịnh.
Quyển 6 : Pháp
pháp, Binh pháp.
Quyển 7 : Đại
khuôn.
Quyển 8 : Trung
khuôn, Tiểu khuôn, Vương ngôn.
Quyển 9 : Bá linh,
Bá ngôn, Vấn, Mưu thất.
Quyển 10 : Giới,
Địa đồ, Tham hoạn, Chế phân, Quân thần [thượng].
Quyển 11 : Quân
thần [hạ], Tiểu xưng, Tứ xưng, Chánh ngôn.
Quyển 12 : Xí mị.
Quyển 13 : Tâm
thuật [thượng], Tâm thuật [hạ], Bạch tâm.
Quyển 14 : Thủy
địa, Tứ thời, Ngũ hành.
Quyển 15 : Thế,
Chánh, Cửu biến, Nhiệm tánh, Minh pháp, Chánh thế, Trị quốc.
Quyển 16 : Nội
nghiệp, Phong thiện, Tiểu vấn.
Quyển 17 : Thất
thần, Thất chủ, Cấm tàng.
Quyển 18 : Nhơn
quốc, Cửu thủ, Hoàn công Vấn, Đạt địa.
Quyển 19 : Địa
viên, Đệ tử chức, Ngôn chiếu, Tu thân, Vấn bá, Mục dân
giải.
Quyển 20 : Hình
thế giải.
Quyển 21 : Lập
chánh cửu bại giải, Bản pháp giải, Minh pháp giải, Mục
thừa mã, Thừa mã số, Vấn thừa mã.
Quyển 22 : Sự
ngữ, Hải vương, Quốc súc, Sơn quốc quỷ, Sơn quyền số,
Sơn chí số.
Quyển 23 : Địa
số, Quì độ, Quốc chuẩn, Khinh trọng [giáp]
Quyển 24 : Khinh
trọng [ất], Khinh trọng [binh], Khinh trọng [đinh], Khinh trọng
[mậu], Khinh trọng [kỷ], Khinh trọng [canh].
Trở lên tất cả 86
thiên, trừ 11 thiên bị mất, chỉ còn 75 thiên.
*
Quản Trọng làm tướng
cho Hoàn Công, làm Bá chư hầu, công nghiệp thật to lớn, còn
hơn cả Án Anh, người nước Tề khen ông ngợi ông mãi mãi...cho
nên quyển sách của ông như quyển Án Tử là chỉ do người
đời sau gom góp lại mà thành, và quyển sách ra đời rất
xa thời Chiến Quốc trở về sau.
Quản Trọng mất trước
vua Hoàn Công, mà trong sách nhắc đến Hoàn Công, chỉ dùng
tên thụy, trong thiên Tiểu Vấn, nhắc chuyện Tần Mục Công
phong tướng Bá Lý Hề cũng cách sau Hoàn Công rất xa.
Thiên Tiểu xưng khen
Mao Tường, Tây Thi, là mỹ nhân trong thiên hạ cũng là người
cuối đời Xuân Thu. Thiên Khinh trọng [giáp] nhắc nước Lương,
nước Triệu ; thiên " tuất " thì nhắc đến Triệu Đại,
như thế pho sách chẳng những ra đời sau khi Tam gia phân chia
nước Tấn, mà cũng sau thời gian nước Ngụy dời qua Đại
Lương, và sau khi nước Triệu đến đời Đại Vương.
Lời chú nầy nông cạn,
nhiều chỗ sai lầm, xem không có lợi ích gì.
Dưới thời nhà Minh
có Quản Tử bổ chú của Lưu Tích khá hơn. Dưới thời nhà
Thanh có bản Quản Tử nghĩa chứng của Hồng Di Tuyên, bản
Quản Tử hiệu đính của Đái Vọng, tất cả đều là những
bản có giá trị.
*
Trong sách Tử Lược,
Cao Tợ Tôn có viết : " Sách của Chư Tử bắt đầu từ Bật
Hùng, trong sách " Chư Tử biện ", Tống Liêm cũng viết : "
Bật Tử là pho sách đầu của Chư Tử ".
Xét theo Hán chí, có
ghi chép những sách của Đạo gia, trước Quản Tử có Y Doãn,
Tân Giáp, Thái Công, Bật Nhiên, Cao Tống, như thế thì thuyết
của 2 người kề trên đã sai.
Hiện nay sách của Y
Doãn, Tân Giáp đã mất, còn sách của Thái Công, Bật Nhiên
cho đến bây giờ vẫn còn.
Thái Công và Bật Nhiên
là người đồng thời nhưng tuổi tác lại cách biệt nhau
nhiều.
Sau đây là phần lược
khảo về tác phẩm của 2 người.
Sách Thái Công
Sách Hán chí, phần Đạo
gia, có sách Thái Công 237 thiên, phần Mưu có 81 thiên, Ngôn
71 thiên, Binh 85 thiên, lời chú như sau : Lã Vọng làm chức
Thượng phu, cầm binh nhà Châu, người gốc có Đạo, hoặc
gần đây, có kẻ làm Thái Công Thuật để thêm vào quyển
sách...
Tiền Đại Chiêu có
viết : " Mưu, Ngôn, Binh là tóm ý trong 237 thiên sách và cũng
như là tổng danh của quyển sách ".
Trầm Khâm Hàn cũng có
viết : " Mưu, tức là " Mưu lược " của Thái Công, Ngôn, tức
là Kim quỉ của Thái Công, lời hay ghi lên bảng vàng, Binh
tức Thái Công binh pháp ".
Trong Chiến Quốc sách,
thiên Tần sách có viết : " Tô Tần, ban đêm dở sách, tìm
được mưu Âm phù của Thái Công ".
Sách Quần thơ tự yếu,
sau phần Lục thao, có chép mấy việc về mưu lược của Thái
Công, đó tức là " Mưu " trong 237 thiên của sách Thái Công.
Sách Sử ký, phần Tề
thế gia viết : " Văn Vương với Lữ Thượng bàn mưu, tu đức
để lật đổ nền chánh trị nhà Thương, dùng binh quyền
và những kế kỳ lạ...đời sau nói về việc binh và mưu
chước của nhà Châu, đều tôn Thái Công ".
Nhà Châu, từ đời Thái
Vương đã bắt đầu đánh nhà Thương, Thái Công giúp Văn
Vương, Võ Vương hoàn thành việc phạt Trụ thay thế công
nghiệp nhà Thương, những lời trần thuyết của ông gọi
là " Ngôn ", những sách lược kế hoạch đặt ra gọi là "
Mưu ", lúc đi phạt Trụ, hành quân gọi là " Binh ".
Công nghiệp của Thái
Công với nhà Châu thật là to lớn, và hậu thế còn nhắc
mãi. Kẻ sĩ thời Chiến Quốc, thích mượn danh người xưa
trong những học thuyết mới định cải tạo chế độ, vì
thế kẻ háo sự mới gom góp những tài liệu truyền thuyết,
những lời nói của Thái Công, rồi lại thêm vào những quyển
mưu của Tô Tần, Trương Nghi, những loại lập luận như Tôn
Ngô binh pháp để thêm vô cho thành 237 thiên sách như ngày
nay.
Thế nên sách Thái Công
là sách của hậu thế viết ra mượn danh ông, chớ đó không
phải là tác phẩm của thời Châu sơ, và nhứt là không phải
chính do Thái Công đã viết ra.
Sách Tùy Chí có Thái
Công Âm mưu 1 quyển, Thái Công Âm phù kiềm lục 1 quyển,
Thái Công Phục phù Âm dương 1 quyển.
Sách Cựu Đường chí
có Thái Công Âm mưu 3 quyển, Thái Công Âm mưu tam thập lục
dụng 1 quyển, đó là những sách thuộc về loại " Mưu ".
Sách Tùy chí có Thái
Công kim quỷ 2 quyển, còn Cựu Đường chí thì lại ghi 3 quyển,
đó là thuộc loại " Ngôn ".
Sách Tùy chí Thái Công
binh pháp 2 quyển, đó thuộc về loại " Binh ".
Như thế là từ đời
nhà Đường đến lúc Tống sơ, sách của Thái Công còn lưu
truyền.
Sách Thông khảo chỉ
chép có quyển Lục thao, trong Tứ khố toàn thơ cũng có quyển
sách nầy. Trong phần Binh gia, hiện nay còn quyển Lục thao,
tức là Văn thao, Võ thao, Hổ thao, Báo thao, Long thao và Khuyển
thao.
Theo bản sách ngày nay
thì Long thao được sắp trước Hổ Thao, dường như trong sách
Thái Công 237 thiên, phần Binh là 1 bộ phận gồm 85 thiên.
Sách Thông khảo có ghi
sách " Cải chánh Lục thao " gồm 4 quyển đó là bổn sách
san định dưới đời Tống Ngươn Phong. Bổn Lục thao hiện
nay còn, trong có phần Tị Chánh điện v.v...
Sách Lục thao, đọc
qua đã thấy rõ là giọng văn của thời Tần Hán, vì dưới
thời Thái Công, thuộc nhà Châu, chưa có giọng văn tiến bộ
như thế.
Sách Lục thao, thiên
Âm phù có viết : " Chủ và tướng có Âm phù, phàm có 8 đẳng
: Phù khắc địch dài 1 thước, phù phá quân dài 9 tấc, phù
thất lợi dài 3 tấc mà thôi v.v... " như thế là lầm lẫn
Âm phù với cờ phù tiết, bùa chú, thật đáng buồn cười.
Sách Châu thị thiệp
bút có viết : " Quyển sách bắt nguồn từ Ngô Khởi, góp
nhặt những lời của người xưa rồi thêm vào những lý luận
quân sự, chánh trị của thời nay, thật là nông cạn không
có chỗ nào dùng được cả... "
Tóm lại, sách Lục thao
nội dung nông cạn, lời lẽ quê mùa, rõ ràng là pho ngụy
thơ, chẳng những không phải của Thái Công viết, mà cũng
không phải của người có học thời Tần Hán viết ra mượn
tên người xưa để luận về việc binh, mà đó chỉ là một
pho sách tạp nhạp, đọc không có ích gì cả.
Sách Bật Tử
Sách Hán chí phần Đạo
gia, có Bật Tử 22 thiên, với lời chú : Ông tên Hùng, làm
sư phó cho nhà Châu, từ Văn Vương trở xuống, ai ai cũng học.
Nhà Châu phong làm tổ
nước Sở. Huân nghiệp của Bật Hùng không bằng Thái Công,
và đó là một danh thần thời Châu sơ, thì tất nhiên sách
của ông cũng do kẻ háo sự thời Chiến Quốc gom góp thêm
bớt mà ra, y như quyển sách Thái Công còn cho đến ngày nay,
và cũng không phải là quyển sách trong Hán chí đã ghi, nhứt
là nhận xét về lời văn và cách lập luận, thấy rõ ràng
không phải thuộc thời Châu Tần mà là thời Chiến Quốc
trở về sau, vì thế nên nhiều nhà học giả đã đồng ý
đó là pho sách ngụy tạo do người thời Lục triều viết
ra, còn pho sách trong Hán chí có ghi thì đã bị mất từ lâu. |
4.
Các sách Văn Tử, Quan Doãn Tử, Liệt Tử và Hạc Quan Tử
. |
Trong sách Hán chí, phần
Đạo gia, sau Lão Tử, lại có Văn Tử 9 thiên, với lời chú
: " là đệ tử của Lão Tử, đồng thời với Khổng Tử,
và tự xưng là Châu Bình Vương đã học với ông ".
Sách Tùy chí có ghi Văn
Tử gồm 12 quyển, với lời chú : " Trong sách Thất lược
ghi có 9 thiên, sách Thất lục đời Lương ghi 10 quyển nhưng
đã mất ".
Theo tài liệu trên như
thế thì sách Văn Tử đã mất rồi lại xuất hiện, nhưng
số thiên, hay số quyển lại nhiều hơn trước. Tại sao vậy
? Bản sách còn cho đến ngày nay gồm 12 quyển, trong số có
mấy thiên : Đạo nguyên, Thập thủ, Đạo đức, Thượng nhơn,
Thượng lễ bị mất mát nhiều, còn lại 7 thiên thì đầy
đủ.
Về tiểu sử của Văn
Tử, phần trên đã có khảo cứu qua, và quyển sách của ông
cũng do kẻ háo sự thời Chiến Quốc biên soạn rồi gán cho
ông.
Bản sách ngày nay còn
cũng không phải là bản của thời Chiến Quốc đã bị mất
mà chỉ là quyển ngụy tạo dưới thời Lục triều, cho nên
tạp nhạp không thể đọc được.
Liễu Tôn Ngươn trong
thiên Biện Văn Tử có viết : " Ý của ông là gốc ở Lão
Tử, nhưng tìm hiểu kỹ quyển sách thì đó là quyển sách
lộn xộn, rất ít chỗ có tinh ý, mà lấy ý sách khác ghép
vô thì nhiều, như sách của Mạnh Tử và nhiều nhà khác đều
thấy được trích đem vô, nhìn qua là thấy ngay, rồi cách
dùng ý, dùng văn cũng thấy không thuần nhứt, như thế rõ
ràng là có người đã thêm vào hay cũng có thể đó là quyển
sách góp của nhiều người... ".
Như thế bổn sách mà
Liễu Tôn Ngươn có đọc cũng đã tạp nhạp rồi.
Trong sách Chư Tử biện,
Tống Liêm đã viết : " Tôi thường đọc tìm hiểu sách Văn
Tử, thì thấy noi theo Lão Đam, đại khái như là giảng nghĩa
Đạo Đức kinh, nhưng lời nói của Lão Tử bao la, rộng rãi,
còn quyển Văn Tử thì lộn xộn, có Hoàng Lão, có Danh gia,
Pháp gia, Nho gia, Mặc gia...nên cho là lộn xộn rất đúng.
"
Trong pho Tử bộ chánh
ngụy, Hồ Ngươn thoại đã viết : " Liễu Tôn Ngươn cho rằng
pho sách tạp nhạp, như thế là đúng. "
Trong pho " Đáo Hán vi
ngôn " Chương Binh Lân đã viết : " Pho Văn Tử ngày nay, phân
nửa là viết theo Hoài Nam Tử, còn những chỗ dẫn lời Lão
Tử, đều là những thuyết quái dị, rõ ràng là một pho sách
góp nhưng lại mượn danh Văn Tử. ".
Giang Tuyền cho rằng
pho sách ấy của Văn Chủng viết và tôn sùng như pho Lão Tử,
đó là một sai lầm rất lớn.
Bản Văn Tử ngày nay
còn lại là bản chú của Từ Linh Phủ người đời Đường,
một đạo sĩ đời Nam Tống, Đỗ Đạo Kiên có chú bản Văn
Tử, tài liệu khá rộng, lời chú hay, tuy sách ngụy tạo,
nhưng lời chú lại có giá trị.
*
Sách Quan Doãn Tử
Sách Hán chí có ghi Quan
Doãn Tử 9 thiên với lời chú : " Tên là Hỉ làm quan giữ
cửa ải, Lão Tử đi ngang, Hỉ bỏ chức đi theo " đó là căn
cứ theo thuyết của Sử ký, trong phần Lão Tử truyện, nhưng
trong Sử ký không có nói Hỉ bỏ chức quan đi theo.
Xét theo nguyên văn của
Sử ký thì Hỉ không phải tên người, và việc Lão Tử qua
cửa ải không có bằng chứng gì xác thực đáng tin cả, như
thế thì Quan Doãn Hỉ cũng e rằng chỉ là một điều bịa
đặt. Như vậy thì quyển sách là ngụy tạo, khỏi cần biện
chứng, chúng ta cũng đã thấy rõ, nhưng trong thiên Đạt Sanh
của Trang Tử, và thiên Thẩm Kỷ của Lã Thị Xuân Thu đều
nói Liệt Tử có đến học hỏi với Quan Doãn Tử.
Trong thiên Thiên Hạ,
Trang Tử lại đề cập Quan Doãn chung với Lão Đam, như thế
thì đến đời Chiến Quốc, Quan Doãn Tử đã thành nhơn vật
truyền thuyết.
Sách của Quan Doãn không
thấy ghi trong Tùy chí, Đường chí và Quốc sử văn nghệ
chí đời Tống, như vậy là quyển sách đã bị mất từ lâu.
Dưới thời Nam Tống,
có Từ Xiển, tự Tử Lễ tìm được quyển sách ấy ở nhà
của Vĩnh Gia Tôn Định, phía trước có phần Tự lục của
Lưu Hướng, phía sau có lời tựa của Cát Hồng, quyển sách
cũng có 9 thiên, đó là bổn còn cho đến ngày nay.
Trong sách Biện Văn Tử,
Liễu Tôn Ngươn viết : " Quyển sách ấy, trước có lời tự
của Lưu Hướng, viết rằng : Cái công trao quyển sách cho
Tào Tham, Tào Tham chết, quyển sách mất, dưới thời Hiếu
Võ, có người phương sĩ đem đến dưng cho Hoài Nam An vương,
ông giữ kín, không đưa ra cho ai xem cả. Thân phụ của Lưu
Hướng là Đức, phụng sự cho Hoài Nam vương, được quyển
sách, nhưng văn lại không đúng, nên nghi đó là sách giả,
thỉnh thoảng đọc thử thì thấy góp nhặt theo thuyết nhà
Phật và chuyện thần tiên của bọn phương sĩ, mà mượn
lập luận của Nho gia, bên trong có những câu như : " Một
hơi thở mà đắc đạo... ", " Thanh giao, Bạch hổ... ", " Tụng
chú mộc ngẩu v.v... " đó là những câu không bao giờ có dưới
thời Lão Tử, như thế rõ ràng là sách giả rồi.
Tóm lại, phần Lão Tử
truyện trong sách Sử ký, chép chuyện Lão Tử qua cửa ải,
rồi viết sách cho Quan Doãn, đó là chuyện chép sau nầy, vào
thời Chiến Quốc, khi đã có quyển Lão Tử rồi, và chuyện
Quan Doãn Hỉ bỏ chức đi theo Lão Tử cũng là câu chuyện
phụ họa thêm, rồi câu chuyện Quan Doãn viết sách cũng là
chuyện phụ họa thêm cốt ý làm cho sách Lão Tử được thêm
nhiều người chú ý.
Sách Hán chí ghi pho Quan
Doãn Tử, chỉ là một pho sách giả của bọn phương sĩ thời
Tần Hán soạn, bọn ấy còn giả luôn cả lời tự lục của
Lưu Hướng.
Quyển Quan Doãn Tử không
thấy có ghi trong sách Tùy chí, vì pho sách nầy không có giá
trị gì, hay cũng có thể vì pho sách đã mất.
Pho sách hiện nay còn
chắc chắn là pho sách giả của bọn phương sĩ đời Ngũ
Đại soạn ra, như thế là pho sách đã bị giả đến 2 lần.
Sách Liệt Tử
Sách Hán chí phần Đạo
gia có ghi sách Liệt Tử 8 thiên với lời chú : " Ông tên Ngự
Khấu, trước thời Trang Tử. Trang Tử rất khen phục ông ".
Các sách Tùy chí và
Tân, Cựu Đường chí đều ghi số thiên của sách ấy y như
Hán chí.
Bản sách hiện nay còn
cũng 8 thiên, phía trước có tự lục của Lưu Hướng viết
: Trung và ngoại thơ gồm tất cả 22 thiên, trừ trùng 12 thiên
và định lại còn 8 thiên, tức là bản Liệt Tử còn đến
ngày nay, dường như là Lưu Hướng đã san định và Hán chí
ghi theo.
Tám thiên sách Liệt
Tử kể như sau :
" Thiên thoại, Hoàng
đế, Châu Mục vương, Trọng Ni, Thang vấn, Lục mạng, Dương
châu, Thuyết phù. "
Người thời nay, hễ
đề cập đến sách Đạo gia, nếu không nói Lão, Trang thì
cũng nói Lão Liệt. Liệt Tử và Lão Trang đều là những sách
nổi tiếng trong phái Đạo gia, nhưng đó là sách giả hay thiệt
thì không một ai dám quả quyết.
Liễu Tôn Ngươn, trong
sách Biện Liệt Tử có viết : " Sách của ông bị thêm bớt
rất nhiều, và sách viết rằng : Ngụy Mâu, Khổng Xuyên đều
ra đời sau Liệt Tử, lời nói nầy không đáng tin v.v... "
như vậy là Liễu Tôn Ngươn đã nghi ngờ quyển sách rồi.
Sách Tử lược của
Cao Tợ Tôn lại nghi rằng Liệt Tử chỉ là tên một nhân
vật truyền thuyết chớ không có thật trong phần khảo cứu
về nhân vật Liệt Tử đã có nói qua.
Họ Cao cũng có viết
tiếp : Sách Sử ký không có truyện Liệt Tử, mà nội dung
quyển sách lại thiển cận, hoang đường, cho nên nghi rằng
người đời sau làm giả.
Quyển Liệt Tử mà sách
Hán chí đã ghi tức là quyển họ Cao đã nói của người
đời sau làm giả, còn bổn Liệt Tử ngày nay còn lại không
phải bổn mà sách Hán chí đã ghi.
Diêu Tế Hằng, trong
quyển Cổ kim ngụy thơ khảo đã viết : Dưới thời Chiến
Quốc, cũng có thể là có quyển sách ấy, do nhóm hậu học
của Trang Tử viết và mượn danh người xưa đề tên, nhưng
quyển sách ngắn, rồi người đời sau lại viết thêm vô.
Trong sách viết : Thánh
nhơn phương Tây, đó là muốn nói Đức Phật, đó là người
thời Đông Hán, Minh đế thêm vào, không có gì nghi ngờ được
cả.
Tóm lại quyển Liệt
Tử được người đời sau làm giả dưới thời Chiến Quốc,
tính chất quyển ấy giống với pho Lão Tử mà sách Hán chí
đã ghi thì pho ấy đã mất.
Dưới thời Ngụy, Tấn,
những người thích huyền ngôn mới góp nhặt những lời Trang
Tử và trong các sách khác, thêm vô những tư tưởng và ngôn
luận của người đương thời để thành pho Liệt Tử mà
chúng ta còn cho đến ngày nay.
Lời văn quyển nầy
sinh động, trau chuốt, nên số đông văn nhân rất thích, vì
thế mà được đứng ngang hàng với quyển Trang Tử. Nếu
đứng trên phương diện học thuật mà xét đoán, thì quyển
nầy có giá trị ngang hàng với các quyển Bật Tử, Văn Tử
và Quan Doãn Tử hiện nay, nhưng lại thua các quyển Trang Tử,
Quản Tử và Lão Tử.
Sách Hạc Quan Tử
Sách Hán chí, phần Đạo
gia, có Hạc Quan Tử 1 thiên, với lời chú : người nước
Sở, ở thâm sơn, dùng lông chim Hạc làm mũ, như vậy cũng
là kẻ sĩ lánh đời, không ai biết ông danh tánh là gì chỉ
thấy ông đội mũ bằng lông chim, liền đặt luôn danh hiệu
ấy.
Các sách Tùy chí, Đường
chí đều ghi là sách ông có 3 quyển, sách Quận trai đọc
thơ chí của Triệu Công Võ có chép : Hàn Dũ đọc Hạc Quan
Tử 16 thiên, nhưng trong Xương Lê [Hàn Dũ] tiên sanh tập lại
ghi là 19 thiên, sách Hiệu Hạc Quan Tử của Lục Điền cũng
chép là 19 thiên.
Sách Tứ khố thơ mục
thì lại chép đến 26 thiên, như thế là rất nhiều hơn trước,
và đó cũng là một bằng chứng rõ ràng có người viết thêm
vào.
Bản Hạc Quan Tử hiện
nay còn là do Lục Điền hiệu đính, gồm 3 quyển, 19 thiên.
Sách Biện Hạc Quan Tử
của Liễu Tôn Ngươn có viết : Kẻ học giả cho rằng bài
Phục điểu phú của Giã Nghị là từ Hạc Quan Tử mà ra.
Tôi đọc quyển sách ấy thấy lời quê mùa, thô siển, tôi
nhận thấy có kẻ háo sự đã viết quyển sách giả rồi
mượn bài Phục điểu để đề cao quyển sách ấy.
Sách Sử ký, phần Bá
Di liệt truyện có dẫn lời Giã Nghị viết : " Kẻ tham chết
vì tiền bạc, kẻ liệt sĩ chết vì danh, còn kẻ hám danh
chết vì quyền... ". Quyển sách Hạc Quan Tử không được
nhắc đến, có lẽ lúc đó Sử công không thấy quyển sách
ấy sao ?
Thật ra, quyển Hạc
Quan Tử, văn chương tối tăm, ý văn lẩn quẩn, dở hơn sách
Liệt Tử nhiều, như thế nhứt định không phải là sách
dưới thời Châu Tần.
*
Trong phần trên, theo
sách Hán chí ghi những sách của phái Đạo gia hiện nay còn
là tất cả 9 quyển gồm có : Trang tử, do hậu học biên soạn,
Lão Tử và Quản Tử, do người thời Chiến Quốc gom góp biên
soạn, sách Thái Công, Bật Tử, do người thời Chiến Quốc
gom góp biên soạn và mượn danh 2 ông để đề tên lên quyển
sách. Sách Văn Tử, Quan Doãn Tử, Liệt Tử, Hạc Quan Tử thì
nguyên thơ đã có nhiều chỗ nghi ngờ là giả, rồi quyển
sách còn cho đến ngày nay thấy rõ ràng là đã bị ngụy tạo,
thế nên sách của phái Đạo gia, những quyển nên đọc chỉ
có : Trang Tử, Lão Tử, và Quản Tử mà thôi. |
5.
Những sách của phái Đạo gia đã bị mất. |
Sách Hán chí ghi sách
của Đạo gia có tất cả 37 bổn, cho đến ngày nay, chỉ còn
có 9 bổn ở phần trên, trong số ấy đặc biệt quyển Lão
Tử có đến 4 loại, còn lại 25 bổn sách khác thì đã bị
mất.
Các sách bị mất kể
như sau :
- Y Doãn
51 thiên, với lời chú
: " Làm tướng cho vua Thang ". Vương Ứng Lân viết : Sách Thuyết
Uyển, Lã Lãm đều có dẫn lời Y Doãn trả lời cho vua Thang,
và sách Châu thơ cũng có viết : Y Doãn chầu nhà Thương dâng
sách.
Mạnh Tử cũng có dẫn
lời Y Doãn, nhưng chữ Đạo của Y Doãn cũng chưa chắc là
đã giống nghĩa chữ Đạo của Lão Tử.
Sách Hán chí, đã đem
sách của Y Doãn, Thái Công từ phái Binh quyền mưu gia qua phái
Đạo gia, là vì dưới thời Chiến Quốc kẻ sĩ quyền mưu
đã viết sách và mượn danh Y Doãn, là vì Y Doãn làm tướng
cho vua Thang, công nghiệp được truyền tụng, nhưng niên đại
xưa, truyền thuyết có nhiều, kẻ háo sự viết sách mượn
danh ông, luôn luôn gom góp những lời truyền thuyết và nương
theo sách vở xưa để làm tài liệu, làm cho người đời sau
dễ bị lầm.
- Sách Tân Giáp
29 thiên, với lời chú
: " Làm tôi vua Trụ, 75 lần can rồi đi. Nhà Châu phong chức
cho ông... ".
Vương Ứng Lân viết
: " Sách Biệt lục của Lưu Hướng có viết : Tân Giáp có
đến nhà Châu, Thiệu Công bàn chuyện và khen...rồi tâu lại
với Văn Vương, Văn Vương thân tự đi rước ông, cho làm
công khanh và phong làm Trưởng tử. "
Sách Tả truyện viết
: " Tân Giáp làm Thái sử... ". Trầm Khâm Hàn có viết : " Hàn
Phi thì gọi là Tân Giáp Công... ". Như thế Tân Giáp là danh
thần thời Châu sơ cho nên sách Hán chí sắp quyển sách của
ông trong lớp Thái Công và Bật Tử...nhưng thật ra đó chỉ
là cuốn sách được viết dưới thời Chiến Quốc.
- Sách Quyên Tử
13 thiên, lời chú viết
: " Ông tên là Uyên, người nước Sở, đệ tử Lão Tử...
". Nhan Sư Cổ viết : Quyên là họ. Sách Sử ký viết : " Hoàn
Uyên, người nước Sở, học thuật Đạo đức của Hoàng
Lão, viết sách 2 thiên... ".
Có thuyết cho rằng Quyên
Uyên tức là phần Điền Kỉnh Trọng thế gia và Mạnh Tuân
liệt truyện trong sách Sử ký nói là Hoàn Uyên trong nhóm Tắc
Hạ.
- Khảo Thành Tử
18 thiên, Trầm Khâm Hàn
viết : Thiên Châu Mục vương sách Liệt Tử có viết : Lão
Thành Tử học thuật kỳ ảo với Doãn văn tiên sinh. Sách
Thích văn của Âu Kỉnh Thuận thì viết là Khảo Thành Tử...chữ
Lão và Khảo hình và âm giống nhau nên dùng chung.
- Trường Lư Tử
9 thiên, Tiền Đại Chiêu
viết : Người nước Sở...Sách Ngự lãm dẫn lời Lã Thị
Xuân Thu viết : " Trường Lư Tử có nói : Núi non, sông biển,
kim thạch, hỏa mộc, chất chứa mà hình thành ra đất... ".
- Cung Tôn Tử
2 thiên, Nhan Sư Cổ viết
: Cung Tôn là họ, không biết tên là gì.
Thời xưa có họ Công
Tôn, nhưng chưa hề nghe có học Cung Tôn.
- Châu Huấn
14 thiên, cũng là loại
sách của Nho gia như Châu chánh, Châu pháp, Châu chế, nhưng
các sách trên luận về chế độ chánh trị, còn sách nầy
ghi chép những lời cổ huấn.
- Hoàng Đế Tứ Kinh
4 thiên, sách Lã Lãm
thiên Khứ tư có viết : Thinh cấm trọng, sắc cấm trọng,
áo quần cấm trọng, hương cấm trọng, vị cấm trọng.
Giả Tử, thiên Tu chánh
thượng có chép : Hoàng đế nói : Đạo như nước chảy qua
khe đá, cứ chảy ra không ngừng, và vận hành không thôi...
Các sách Chư Tử dẫn
lời của Hoàng đế rất nhiều, nhưng có phải trích từ pho
Hoàng đế tứ kinh nầy hay không, thì không có tài liệu nào
để tìm hiểu được cả.
Người nhà Hán, hễ
nói đến Đạo gia là nói đến Hoàng Lão, Chư Tử cũng thường
dẫn lời Hoàng đế, có lẽ đó chỉ là ức thuyết vì không
một ai nhìn thấy pho sách của Hoàng đế cả.
Hoàng đế hiệu Hiên
Viên thị, hay đó chỉ là người phát minh ra xe rồi được
người tôn sùng chăng ? Giả sử như hồi xưa mà có Hoàng
đế thật, thì việc văn hoá phát minh, đâu phải do một người
mà nên.
Tương truyền thời xưa
các sự vật phát minh hết 9 phần 10 đều do Hoàng đế, điều
đó không có bằng chứng gì để cho chúng ta tin chăc được.
Các nhà Đạo gia như Trang Tử, Lão Tử thường mường tượng
đến các cảnh xã hội chí thiện, chí đức của thời Thượng
cổ, đó chỉ là lối mượn thời xưa để mong cải tạo thời
nay mà thôi. Mặc Tử mượn danh Hạ, Võ, Hứa Hành mượn danh
Thần Nông cũng cùng một trường hợp như thế, cho nên sách
Hán chí ghi những sách của Hoàng đế, đó chỉ là những
pho sách của phái Đạo gia thời Chiến Quốc mượn danh người
xưa để viết ra mà thôi.
- Hoàng Đế Minh
6 thiên, vua Hoàng đế
muốn răn người cho nên làm người vàng, 3 lần bịt miệng
gọi rằng người xưa cẩn thận lời nói là như thế...Trong
Hoàng đế minh 6 thiên, có Kim nhơn minh...
Đến thời Khổng Tử,
Kim nhơn nầy vẫn còn ở miếu nhà Châu, đó cũng là loại
" lời hay ghi lên bảng vàng... " chớ không phải nhứt định
là người vàng ở dưới thời Hoàng đế, mà chỉ ghi những
lời của Hoàng đế thôi.
Ngoài ra những thuyết
khác về Hoàng đế minh đều là những lời truyền văn, không
có gì làm bằng chứng cả.
- Hoàng Đế Quân Thần
10 thiên, bắt đầu có
từ thời Lục Quốc tương tợ như pho Lão Tử.
- Tạp Hoàng Đế
58 thiên, lời chú viết
: " Người hiền thời Lục Quốc soạn ". Quyển sách nầy dường
như là gom góp những lời truyền thuyết của Hoàng đế dưới
thời Lục Quốc mà viết ra, chưa chắc là do một người soạn
ra trong một thời gian nào ...
- Lực Mục
22 thiên, lời chú viết
: Viết dưới thời Lục Quốc nhưng mượn tên người xưa,
Lực Mục là tướng của Hoàng đế.
Trở lên mấy quyển
: Hoàng đế tứ kinh, Hoàng đế minh, Hoàng đế quân thần,
Tạp Hoàng đế, Lực Mục là do người đời sau viết mà mượn
danh Hoàng đế hay danh thần của ông, và sách Hán chí đã
sắp những sách kể trên phía sau Lão Tử là vì biết rõ đó
chỉ là những tác phẩm của những người thời Lục Quốc
- Tôn Tử
16 thiên, sách của thời
Lục Quốc. Đây không phải là quyển Tôn Tử binh pháp của
Tôn Võ Tử Tôn Tẩn.
- Tiệp Tử
2 thiên, người nước
Tề, dưới thời Lục Quốc. Trong sách Sử ký phần Mạnh Tuân
liệt truyện có nhắc Tiệp Vũ tức ông nầy.
- Tào Vũ
2 thiên, người nước
Sở, dưới thời Võ đế, đi du thuyết với Tề vương.
- Lang Trung Anh Tề
12 thiên, người dưới
thời Võ đế.
- Thần Quân Tử
2 thiên, người đất
Thục.
- Trịnh Trưởng Giả
1 thiên, người thời
Lục Quốc, trước Hàn Phi, Hàn Phi xưng tụng ông. Nhan Sư Cổ
viết : Người nước Trịnh, không biết tánh danh là gì.
Sách Phong tục thông
viết : Cuối đời Xuân Thu, nước Trịnh có người hiền,
viết sách một thiên, tên là Trịnh trưởng giả, vì tuổi
lớn, đức cao nên mới tôn là trưởng giả.
- Sở Tử
3 thiên.
- Đạo Gia Ngôn
2 thiên, ra đời gần
đây hơn hết nhưng không biết tác giả là ai. Sách nầy sắp
sau chót, y như phần Nho gia sau chót có pho Nho gia ngôn.
*
Trở lên tất cả 25
quyển, là số sách của phái Đạo gia đã bị mất, còn số
sách còn lại cho đến ngày nay là 9 quyển, cọng 34 quyển,
riêng quyển Lão Tử có đến 4 quyển khác nhau, nên tổng cọng
là 37 quyển. |
|