Trong
một số bài viết trước đây[1],
chúng tôi đã đưa ý kiến về 2 hình thức chính tả ghi âm
/i/ khi âm này đi sau 6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/ trong vần mở
(không có âm cuối); ở đây hiện có hai quan điểm: tất cả
đều viết i và quan điểm phân biệt i/y (từ đây
quy ước cách gọi: nhất thể i và phân biệt i/y).
Chúng tôi không nhất trí quan điểm nhất thể i vì:
Nhất thể
i dẫn đến lợi bất cập hại. Vì mất đi sự phân
biệt nghĩa các yếu tố đồng âm: kì cọ/kỳ
vọng, ti trôn/ công ty,… và mất
sắc thái văn hoá: viết Tý khác viết Tí
trong
tên riêng,...
Về chính tả, viết
phân
biệt i/y không phải là khó khăn không thể vượt
qua, vì ngoài thói quen, có thể phân biệt bằng bằng tiêu
chí từ thuần Việt và Hán Việt.
Trong bài này, chúng
tôi xin nhấn mạnh và bàn tiếp một số điểm cho thấu đáo
hơn.
1. Việc nhất
thể i và sự lộn xộn i/y bắt đầu từ bao giờ?
1.1. Xem lại
các sách báo, chúng tôi thấy rải rác từ lâu, đã có hiện
tượng viết lẫn lộn i/y nhưng rất ít. Nhìn chung, sách
báo trước năm 1980 - tức là trước khi có quy định của
Bộ Giáo dục nhất loạt i thì việc viết phân
biệt i/y khá phân minh. Việc nhất thể i cũng như
hiện tượng viết lộn xộn i/y bắt đầu từ khi có
Một
số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo
dục ban hành ngày 30-11-1980 (gọi tắt là
Quy định 1980),
do Thứ trưởng Bộ Giáo dục Võ Thuần Nho và Phó Chủ nhiệm
UBKHXH Phạm Huy Thông ký. Văn bản này (không ghi số) quy định
như sau:
"Riêng trường
hợp các âm tiết có nguyên âm i ở cuối thì viết thống
nhất bằng i, trừ uy, như duy, tuy, quy,...;
thí dụ: kì dị, lí trí, mĩ vị.
Chú ý: i hoặc
y
đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo
thói quen cũ, thí dụ: ý nghĩa, y tế, ỉ eo, im, yêu"..
Ngày 5-3-1984, Bộ
Giáo dục lại có Quyết định số 240/QĐ Quy định về
chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt (Bộ trưởng
Nguyễn Thị Bình ký, gọi tắt là Quy định 1984). Quy
định này không đề cập cụ thể trường hợp i/y mà
viết chung như sau:
"Về những từ
tiếng Việt mà chuẩn chính tả hiện nay chưa rõ, có
thể nhận thấy những trường hợp chủ yếu sau đây, và
đối với mỗi trường hợp, nên dùng tiêu chí thích hợp.
Cụ thể là:
a) Dùng tiêu chí
thói quen phát âm của đa số người trong xã hội, mặc dù
thói quen này khác với từ nguyên (gốc Việt hay gốc Hán).
Thí dụ:
chỏng gọng
(tuy là chổng gọng theo từ nguyên); đại bàng
(tuy là đại bằng theo từ nguyên)
b) Dùng tiêu chí
từ nguyên khi thói quen phát âm chưa làm rõ một hình thức
ngữ âm ổn định. Thí dụ: trí mạng (tuy cũng có gặp
hình thức phát âm chí mạng)
c) Khi trong thực
tế đang tồn tại hai hình thức chính tả mà chưa xác định
được một chuẩn duy nhất, thì có thể tạm thời chấp nhận
cả hai hình thức ấy, cho đến khi nào thói quen sử dụng
nghiêng hẳn về một hình thức. Thí dụ: eo sèo và eo
xèo; sứ mạng và sứ mệnh.
Quyết định số
240/QĐ còn ghi rõ: "Những quy định trước đây trái với
quyết định này đều bãi bỏ". Có nghĩa là kể từ 5-3-1984,
Quy định 1980, trong đó có việc nhất thể i, đã không
còn giá trị. Không hiểu sao sau đó
Quy định 1980 vẫn
được in lại nhiều lần trong các giáo trình tiếng Việt
(?).
Quy định 1984
ra đời trên cơ sở Quyết nghị của Hội đồng chuẩn
hoá chính tả (GS. Phạm Huy Thông làm chủ tịch)
và Hội
đồng chuẩn hoá thuật ngữ (GS. Nguyễn Cảnh Toàn làm
chủ tịch). Hai hội đồng này thành lập từ 25-12-1982, qua
xem xét nhiều góp ý và qua nhiều phiên thảo luận, cuối cùng
đã ra Quyết nghị ngày 1-7-1983. Trong Hội đồng chuẩn
hoá chính tả có GS. Hoàng Phê, về sau chủ biên Từ điển
tiếng Việt, in lần đầu năm 1988, được tái bản nhiều
lần. Trong tham luận, Hoàng Phê đề nghị
nhất thể i trong
6 âm tiết mở (viết hi, ki, li, mi, si, ti) Nhưng như ta
thấy, điều này không có trong Quy định 1984 cũng như
trong Quyết nghị, chứng tỏ đó chỉ là ý kiến cá
nhân. Và khi làm Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê vẫn
chấp nhận cả cách viết hy, ky, ly, my, sy, ty, chỉ có
điều ông chọn hình tức i ngắn để giải nghĩa, còn
hình thức y dài thì chuyển chú. Chỗ này làm nhiều
người lầm tưởng hình thức
i ngắn là chuẩn duy nhất.
1.2. Như vậy,
có thể thấy sự tồn tại hai cách viết hiện nay là do:
Việc nhất
thể i trong Quy định 1980 được thực thi ở sách
giáo khoa cải cách giáo dục, bắt đầu từ 1980 (lớp 1), hoàn
tất 1992 (lớp 12). Trong khoảng thời gian đang thay sách thì
có văn bản mới thay thế. Tuy nhiên NXB Giáo dục vẫn tiếp
tục cách viết nhất thể i. Phải chăng để khỏi "tiền
hậu bất nhất", những người làm sách đã vận dụng phần
"để ngỏ" trong Quy định 1984? Hoặc họ là những người
ủng hộ quan điểm nhất thể i. Vì như ta thấy, trong
đợt thay SGK mới đây (2002 - 2008), NXB Giáo dục và NXB Đại
học Sư phạm (Hà Nội) vẫn tiếp tục nhất thể i.
Cả một lớp người đông đảo đã được nhất thể i
thông
qua ghế nhà trường suốt 30 năm qua!
Mặt khác, các cơ
quan xuất bản và báo chí không thuộc Bộ Giáo dục không
chịu sự tác động pháp lý của các văn bản trên vẫn tự
lựa chọn chính tả theo quan niệm của mình, cho nên hầu hết
họ vẫn duy trì việc phân biệt i/y như trước
năm 1980. Tìm hiểu sách của 49/59 nhà xuất bản hiện nay chúng
tôi thấy 46 nhà xuất bản vẫn phân biệt i/y. Khảo
sát hơn 100 tờ báo và tạp chí (viết), cũng chỉ thấy mấy
tạp chí chuyên ngành ngôn ngữ là nhất thể i, gồm
Ngôn
ngữ (Viện Ngôn ngữ học), Ngôn ngữ và đời sống
(Hội Ngôn ngữ học Việt Nam), Từ điển học và bách khoathư
(Viện Từ điển và Bách khoa thư Việt Nam), còn lại đều
viết phân biệt i/y, kể cả một số báo và tạp chí
của ngành giáo dục như
Giáo dục và thời đại, Thế giới
mới, Thế giới trong ta. Một số tác giả có sách ở NXB
Giáo dục đã đề nghị phân biệti/y trong một số sách
nghiên cứu. Các tên riêng trong sách của NXB Giáo dục, trước
áp lực của xã hội, cũng dần đổi từ i ngắn sang
y dài.
2. Những hệ
luỵ của việc nhất thể i ngắn
Những tác giả
muốn nhất thể i để tránh "bất hợp lý" nhưng
thực ra lại lâm vào những hệ luỵ khác.
2.1. Việc
nhất
thể i chỉ giải quyết được mỗi một lý do về ngữ
âm học: 1 âm chỉ ghi bằng 1 chữ. Nhưng chữ viết,
dù là chữ ghi âm, đâu chỉ có mỗi việc là ghi lại phát
âm. Ngoài ghi âm, trong nhiều trường hợp, nó còn ghi lại
ý nghĩa hoặc thoả mãn một khía cạnh văn hoá, lịch sử.
Lấy thí dụ đơn giản, những cách viết Bắc Kạn, Kon Tum
(tên đất), Ba Cul, Hai Buôl (tên người) là "sai" chính tả,
nhưng nó có lý do tồn tại (không đơn giản rằng đó chỉ
là "chiều" theo sở thích của cá nhân). Ngay hình thức chính
tả
i/y cũng không thể nhất thể i trường hợp
/i/ một mình làm âm tiết: (khóc) i ỉ/ y tế, ầm ì/ sức
ỳ, ỉ eo/ ỷ lại, í ới/ ý nghĩa,…
2.2. Sự
không "ăn khớp" giữa âm và chữ của chữ QN là không nhỏ[2].
Theo lý thuyết thì điều này gây khó khăn cho chính tả, nhưng
thực tế cũng không khó khăn lắm, do khi viết có hiện
tượng "nhớ mặt chữ" chứ không phụ thuộc tất cả vào
phát âm. Cái sự "bất hợp lý" i/y là quá nhỏ so với
hàng loạt trường hợp "bất hợp lý" khác.
Giả sử tại thời
điểm này, nếu sáng tạo ra một thứ chữ quốc ngữ mới,
thì hoặc là dựa hẳn vào ngữ âm của một vùng (chọn làm
chuẩn) và những vùng khác phải chấp nhận vênh lệch, hoặc
là chấp nhận một chính tả "siêu phương ngữ" với những
vênh lệch khác nhau của tất cả các vùng (như tình trạng
hiện nay). Và như vậy, dù một thứ chữ mới tinh cũng vẫn
"bất hợp lý" như thường.
2.3. Có lập
luận cho rằng chữ viết bị cố định trong khi ngữ âm luôn
biến đổi, đến một lúc nào đó sẽ tạo ra "bất hợp lý",
do đó việc cải tiến chữ viết là cần thiết. Nhưng thử
xem, chỉ cần cải tiến vài lần như vậy, đến một lúc
nào đó, con cháu sẽ không đọc được chữ của ông cha nữa!
Kinh nghiệm của người Anh, người Pháp cho thấy không cần
và không nên sửa đổi chữ viết. Thực ra, họ đã từng
có xu hướng muốn cải cách chữ viết[3].
Nhưng họ đã mau chóng nhận ra sai lầm và đến nay "hoạ
chăng chỉ những người không được bình thường may ra mới
còn nghĩ đến chuyện cải cách chính tả Anh hay Pháp, mặc
dù so với chữ QN, hai chính tả này còn xa cách phát âm gấp
bội"[4].
Chúng tôi nghĩ bất
cứ ai chỉ cần nghe giảng 30 phút cũng thấy ngay tất cả
mọi "bất hợp lý" của chữ QN, chứ không chỉ i/y.
Nhưng chữ QN với hình thức chính tả như hiện nay đã ổn
định khoảng gần một trăm năm mà không gặp khó khăn gì
đáng kể. Tóm lại, sự nhất thể i không đem lại sự
sang giàu gì hơn cho chữ QN.
2.4. Sẽ vẫn
có người bảo sáp nhập i/y thì ít nhất cũng đỡ rắc
rối về một trường hợp chính tả. Điều này cũng không
chính xác. Hiện nay vẫn tồn tại nhiều "bất hợp lý" hơn
thế mà không gây khó khăn đáng kể, ví dụ:
- Trường hợp một
âm ghi bằng 2, 3 cách như g/gh, ng/ngh, c/k/q.
Cả 3 trường hợp này tuy đều có quy tắc (đứng trước
i,
e, ê thì viết gh, ngh, k), nhưng thực tế đại
đa số người viết không biết đến quy tắc mà vẫn viết
đúng.
-Loại chính tả
d/gi
không có cả quy tắc ngữ âm nhưng cũng không khó khăn lắm.
Ngoại trừ vài trường hợp ít dùng, đại đa số người
Việt viết đúng một cách rất tự nhiên do
phân biệt nghĩa
và
nhớ mặt chữ.Trường hợp i/y rất giống
d/gi
nhưng còn dễ hơn vì chúng có số lượng ít hơn và gần như
hoàn toàn thuộc về hai lớp từ đối lập (Hán Việt và thuần
Việt), có thể khái quát thành quy tắc (xem phần 3).
2.5. Một vài
nhà xuất bản chủ trương nhất thể i nhưng lại "chiếu
cố" tên riêng cho phép viết y dài, sinh ra tiền hậu
bất nhất trong một số trường hợp. Ví dụ, viết mĩ
lệ, mĩ thuật, thẩm mĩ, còn tên riêng thì viết Mỹ
Lệ, (Trương) Mỹ Hoa, Chương Mỹ, Phú Mỹ, trong khi các
chữ "mỹ" này đều có nghĩa là "đẹp".
2.6. Đối
với những từ ngữ và tên riêng nước ngoài chứa y,
nếu biến thành i sẽ mâu thuẫn với chủ trương phiên
chuyển (phiên âm kết hợp chuyển tự) là hình thức đang
được số đông đề nghị hiện nay[5].
Ngược lại, nếu giữ y, sẽ giữ được hình thức
sát nguyên ngữ hơn: hydrogenium ® hy-đrô; Myanmar ® My-an-ma.
Nói tóm lại, việc
nhất
thể i cũng giống như đề xuất nhất thể nhiều
trường hợp khác (d/gi; c/k/q,…) chỉ là lý tưởng "hoàn
thiện" chữ QN, sao cho hệ thống chữ cái khớp một cách "chằn
chặn" với hệ thống âm vị[6],
nghĩa là chỉ đ0ể thoả mãn cái lý thuyết về loại
hình chữ ghi âm của chữ QN, chứ không giải quyết được
gì cả. Chưa kể, nó còn phá hoại một hệ thống đã ổn
định, đã hợp lý. Điều này cũng phi lý như một số người
chủ trương ngược lại: đặt ra một chuẩn chính âm theo
sát hệ thống chữ viết hiện hành, mà nếu thực hiện
được nó sẽ phá hỏng cả tiếng Việt[7].
Còn bảo để giải quyết vấn đề lỗi chính tả thì đó
chỉ là việc làm vô ích. Tình trạng viết sai chính tả do
những nguyên nhân khác[8],
không phải do những "bất hợp lý" của chữ viết hay do chưa
có chuẩn chính âm.
3. Tiếp tục
"cái lý y dài"
3.1 Việc phân
biệt i/y cho đến nay vẫn được duy trì ở nhiều
khu vực, hẳn là có lý do của nó. Như trên đã nói, 46 nhà
xuất bản và hầu hết báo chí vẫn viết phân biệt i/y,
chỉ có 3 nhà xuất bản nhất thể i là Giáo dục, Đại
học Sư phạm và Từ điển Bách khoa.
3.2. Khảo
sát sách của NXB Giáo dục xuất bản trước 1980 và của các
nhà xuất bản viết phân biệt i/y hiện nay, chúng
tôi thấy về cơ bản là viết đúng (chỉ trường hợp
kĩ/
kỹ là có nhầm lẫn). Như vậy, không thể lấy lý do "khó
viết" mà nhập i/y làm một. Trước khi có
Quy định
1980, việc phân biệt i/y đã khá ổn định. Sự "nhiễu"
i/y
chỉ bắt đầu từ khi có Quy định 1980. Phát biểu tại
Hội nghị về tình hình chính tả trong văn bản tiếng Việt
ngày 28-7-2010, GSTS. Trần Trí Dõi cũng nhận xét như vậy: "Cách
viết i và
y thống nhất thành
i không có
trong Quyết định 240/QĐ ngày 5-3-1984 của Bộ Giáo dục. Người
ta chỉ thấy đó là cách dùng riêng trong sách giáo khoa của
NXB Giáo dục sau khi "cải cách giáo dục và sách giáo khoa".
Vì thế, nó đã không được cộng đồng sử dụng ngôn ngữ
đồng thuận chấp nhận".
3.3. Trong chừng
mực nhất định, chúng tôi cũng đã tìm hiểu dư luận
xã hội. Các ý kiến phản hồi chúng tôi nhận được
gần như không có ai coi nhất thể i là hay, nhất là
trong các trường hợp ti trôn/ công ty, bé tí/ tuổi tý,
kì cọ/ quốc kỳ, (cười) hi hi/ hy sinh, tức là khi cần
phân biệt sắc thái khẩu ngữ với trang trọng, giữa tính
gợi tả với tính trừu tượng.
Về mặt mỹ thuật,
dư luận chung đều cho rằng viết y "đẹp" hơn. Theo
chúng tôi, hình thức y "đẹp mắt" hơn i vì trước
hết do chính sắc thái nghĩa của từ ngữ khi viết
y (từ
Hán Việt) mang lại. Nhưng cũng có một phần lý do "hình thể".
Y
có
nét lượn, tạo sự uyển chuyển. Hơn nữa, khi đi với các
chữ cái h, k, l, m, s, t (chữ thường) nó tạo ra
sự hài hoà, cân đối do có cả nét đi lên và nét đi xuống
(phía dưới dòng kẻ). Hãy so sánh: công ti/ công ty, hi vọng/
hy vọng, hí viện/ hý viện, quốc kì/ quốc kỳ, thư kí/ thư
ký, nguyên lí/ nguyên lý, biệt li/ biệt ly, thẩm mĩ/ thẩm
mỹ, hoạ sĩ/ hoạ sỹ,v.v.. Chính vì thế, trong tên riêng,
gần như gần 100% người ta chọn y dài. Hầu hết các
báo và tạp chí, các tên cơ quan, tổ chức, tên cửa hàng,
cửa hiệu, các biển quảng cáo đều chọn
y dài (tất
nhiên là chỉ đối với từ Hán Việt).
Khi tôi viết những
dòng này, cả nước đang hướng về đại lễ một nghìn năm
Thăng Long Hà Nội. Hàng ngàn biểu ngữ treo hai bên đường
phố đều viết KỶ NIỆM, dòng chữ trang trọng nhất đặt
vườn hoa Lý Thái Tổ cho khai mạc đại lễ viết:
ĐẠI LỄ KỶ NIỆM
1000 NĂM THĂNG LONG HÀ NỘI
Trong trường hợp
này không thể viết KỈ (i ngắn), dù KỈ là hình thức
"chuẩn" ghi trong nhiều từ điển hiện nay.
Đây là minh chứng
cho cảm thức của số đông. Trong ngôn ngữ, cảm thức của
số đông ít khi vô lý. Học giả Cao Xuân Hạo viết:
"Bản
thân nó (cảm thức ngôn ngữ của số đông - ĐTT) có
thể không phải là một sự kiện ngôn ngữ chính danh, nhưng
nó là cái phản ánh chân xác của một sự kiện khách quan
của ngôn ngữ. Công việc của nhà ngữ học chính là phát
hiện và trình bày ra một cách hiển ngôn những sự kiện
khách quan được phản ánh trong cảm thức bất tự giác của
người bản ngữ. Và xưa nay các nhà ngữ học, (...) mỗi khi
thủ pháp của họ đưa tới một kết quả trái với cảm
thức ấy, họ thường phải từ bỏ quan điểm ban đầu để
tìm cách đi đến một kết quả phù hợp với cảm thức ấy
hơn"[9].
Chúng tôi nghĩ chỉ
riêng thực tế trên cũng đủ để các nhà ngữ học xem lại
quan điểm nhất thể i.
3.4. Tuy nhiên
bây giờ đặt vấn đề viết phân biệt i/y vẫn khiến
nhiều người băn khoăn. Quả thực, ở thời điểm hiện nay,
viết phân biệt i/y gần như là "cái mới" (sự thực
chỉ là trở lại), vì qua ba thập niên, thói quen
nhất thể
i
đã hình thành ở không ít người. Cho nên băn khoăn nhiều
nhất vẫn là tính khả thi. Thực ra chỗ này mới nghĩ thì
tưởng khó nhưng xem xét kĩ thì thấy vấn đề đơn giản
hơn nhiều. Hai thực tế sau đây rất đáng lưu ý:
3.4.1. Chữ
QN tuy là chữ ghi âm nhưng khác rất xa các chữ Ấn Âu. Trong
các ngôn ngữ Ấn Âu, gần như phải phát âm đầy đủ từng
âm vị, thì tiếng Việt phát âm thành từng âm tiết (tiếng),
dù âm tiết đó gồm bao nhiêu âm vị thì cũng chỉ phát âm
một
lần, tiếng có nhiều âm vị cũng có độ dài như tiếng
chỉ có một âm vị. Mỗi âm tiết là một khối
"tròn
vành rõ chữ", không nối sang nhau (kiểu như Thank you
cuả tiếng Anh). Cho nên trong khi các chữ viết Ấn Âu phải
ghi từng âm vị thì chữ QN ghi lại âm tiết (tiếng).
Điều này rất
hiển nhiên nhưng khi vận dụng hệ quả của nó vào chính
tả thì lại chỉ có một số ít tác giả nhận thấy. Đó
là hiện tượng tiếng Việt chỉ có một số lượng âm
tiết nhất định (theo một số thống kê, khoảng 6000).
Trong phát biểu mới đây (28-7-2010, đd), GS. Trần Trí Dõi
cũng khẳng định: "Theo nhận thức của chúng tôi, đúng
như GS Hoàng Phê đã chỉ ra "chính tả tiếng Việt đơn thuần
là chính tả âm tiết". Thành thử khi chúng ta kiểm soát được
số lượng âm tiết lưu hành trong thực tế tiếng Việt thì
việc quy định chính tả cũng là một điều có thể làm được
và hoàn toàn không khó khăn trong việc sử dụng".Số âm
tiết cần phân biệt về chính tả lại ít hơn nhiều so với
tổng số âm tiết nói trên (theo một số tác giả, đối với
người Bắc Bộ, cần khoảng 1950 âm tiết - chiếm 29% tổng
số âm tiết). Thực tế lại ít hơn thế nữa. Ví dụ, khi
viết ch/tr, d//gi, s/x, chỉ có một số trường hợp khó,
chứ những trường hợp như quả chanh/ đấu tranh, da thịt/
gia đình,… thì hầu như chẳng mấy ai phải băn khoăn.
Trường
hợp
i/y còn đơn giản hơn d/gi nhiều.
Tình hình đó khiến
ta yên tâm việc phải ghi nhớ: với một số lượng nhỏ những
chữ "có vấn đề" về chính tả thì hoàn toàn có thể ghi
nhớ được, dễ hơn nhiều so với việc phải sửa phát âm
hay phải nhất thể chữ viết (i/y, d/gi,…).
3.4.2. Mặt
khác, việc ghi nhớ cũng không hoàn toàn là máy móc, nếu chúng
ta biết đến hiện tượng gestalt (chúng tôi đã đề
cập trong bài trước), đó là cách tri nhận tổng thể, toàn
bộ của thần kinh thị giác giúp ta đọc chữ như tri giác
những hình ảnh khác trong thế giới khách quan. Trẻ em bắt
đầu học chữ có thể "đánh vần" (ghép từng âm vị) tương
tự như cách đọc chữ Ấn Âu, nhưng khi quen rồi thì đọc
thành từng tiếng - chữ, mỗi
chữ đúng một tiếng,
mỗi tiếng đúng một chữ. Do đặc thù này, nên
mặc dù là chữ ghi âm nhưng theo chúng tôi, chữ QN ít nhiều
có tính ghi ý hoặc chứa sẵn tiềm năng ghi ý.
Điều này giải thích tại sao phương ngữ Nam Bộ có ngữ
âm xa rời chữ viết khá lớn mà người Nam Bộ, chỉ trừ
người học vấn quá thấp, ít đọc (chưa quen mặt chữ),
còn thì việc viết đúng chính tả là chuyện không đến nỗi
quá khó khăn.
Có thể kiểm nghiệm
tính ghi ý của chữ QN khi đọc các chữ tắt tiếng Việt,
đó là đọc thẳng các chữ gốc hệt như khi viết đầy
đủ: HS, GV, BS, GSTS, HTX, XHCN, TTXVN, TCN = học sinh, giáo viên,
bác sỹ, giáo sư tiến sỹ, hợp tác xã, xã hội chủ nghĩa,
thông tấn xã Việt Nam, trước công nguyên (chứ không đọc
hát
ét, giê vê, bê ét, giê ét tê ét, hát tê ích-xì, ích-xì hát
xê en-nờ. tê tê ích-xì vê en-nờ). Trong khi tiếng Anh đọc
từng chữ cái hoặc ráp vần: BBC /bi:bi:si:/ = British Broadcasting
Corporation (Tập đoàn Truyền thanh Anh), NATO /neitou/ = North Atlantic
Treaty Organization (Minh ước Bắc Đại Tây Dương).
Hiện tượng trên
cho thấy việc đọc chữ QN giống như đọc các "hình ảnh"
(mỗi chữ - tiếng là một "hình ảnh") mà số "hình
ảnh" này là có hạn, cho nên "quen" đến nỗi nhìn cái là
nhận ra, bỏ qua khâu "đánh vần". Và do đó hoàn toàn có thể
nhớ "mặt chữ".
3.5. Với đặc
thù trên, ta có thể liệt kê một số lượng từ/ từ tố
- chữ viết dùng i hoặc y để ghi
nhớ theo quy tắc: từ thuần Việt viết i, từ
Hán Việt viết y. Với đại đa số chỉ cần ghi
nhớ, không cần biết đâu là thuần Việt, Hán Việt, nhưng
muốn muốn xác định cũng không khó lắm, dựa vào các đặc
trưng sau:
Đặc trưng
|
Thuần Việt
|
Hán Việt
|
Khả
năng kết hợp của từ tố |
Dùng
độc lập: hai con sông, ba quả núi, bốn nước,.. |
Không
dùng độc lập: không nói hai hà, ba sơn, bốn
quốc,… |
Tính
biểu cảm |
Có
nghĩa cụ thể, hình tượng: con gái, đàn bà, con đĩ,.. |
Có
nghĩa khái quát, trừu tượng: thiếu nữ, phụ nữ, kỹ
nữ,… |
Màu
sắc phong cách |
Sắc
thái thông tục, khẩu ngữ, bình dân: vợ, chồng, anh em,.. |
Sắc
thái chính quy, trang trọng, bác học: phu nhân, phu quân, huynh
đệ,… |
Riêng đối với
các từ chứa tiếng vần /i/ có phụ âm đầu /h, k, l, m, s,
t/ đang bàn, ngoài đặc điểm trên, còn có hiện tượng này
dễ nhận ra:
- Các từ thuần
Việt (viết i), hầu hết là từ đơn hoặc từ láy:
hí
hoáy, kì cạch, kì kèo, lì loà, lí nhí, sì sụp, ti hí, ti
toe,…
- Các từ Hán Việt
(viết y) hầu hết là từ ghép: hy vọng, hiếu hỷ,
hý khúc, kỳ dị, nguyên lý, tỷ lệ, tỵ địa, công ty,…
Tất nhiên vẫn
có một vài ngoại lệ, đó là chuyện bình thường trong ngôn
ngữ. Bản liệt kê dưới đây cung cấp danh sách từ và từ
tố thông dụng.
H-: hi, hì,
hí, hi hi, hì hì, hí hí (mô phỏng tiếng cười/ tiếng khóc),
(ngựa) hí, hì hục, hì hụi, hỉ hả, hỉ mũi, hí hoáy, hí
húi, hí hửng, hí hởn; hủ hỉ, hỉ hả (biến âm của hể
hả) ; hậu hĩ*; hị hị (tiếng khóc); hy sinh (hy,
sinh: những con vật để tế thần ® chỉ cái chết cao
cả hoặc bỏ hết quyền lợi để làm việc nghĩa); hy vọng
(hy: trông mong), hy hữu (hy: ít); hiếu hỷ, hoan
hỷ, song hỷ, nhị hỷ, hỷ xả,… (hỷ: vui); du hý,
hý kịch, hý khúc, hý trường, hý viện (hý: vui đùa),
(cây) hy thiêm, (khí) hy-đrô.
K-:ki bo, ki
cóp, ki-lô-gam, ki-ốt, kì cạch, kì cọ, kì kèo, kì cùng, kì
đà, kì giông, kí (ki-lô-gam), kí ninh (quinin); kĩ càng, cũ kĩ,
cụ kị ; quốc kỳ, kỳ đài, cầm kỳ thi tửu (kỳ:
cờ), học kỳ, kỳ thi, kỳ nghỉ, trường kỳ (kỳ:
khoảng thời gian nhất định để làm một việc hay xảy ra
một sự việc); kỳ ảo, kỳ lạ, ly kỳ, kỳ diệu, kỳ binh,
kỳ dị, kỳ ngộ, kỳ quan, kỳ quái, kỳ tài, kỳ vĩ (kỳ:
lạ), kỳ cựu, kỳ hào, kỳ mục (kỳ: già cả), kỳ
lân (con vật tưởng tượng), kỳ thị (kỳ: không đều),
kỳ vọng (kỳ: trông mong); kỷ cương, kỷ luật (kỷ:
phép tắc), kỷ yếu, kỷ lục, kỷ niệm (kỷ: ghi chép),
thế kỷ (kỷ: khoảng thời gian); ca kỹ, kỹ nữ (kỹ:
múa/ mãi dâm; phụ nữ làm nghề hát xướng thường bị lợi
dụng hành nghề mại dâm); kỹ năng, kỹ sư, kỹ thuật, kỹ
nghệ, kỹ xảo (kỹ: khéo); ký âm, ký chú, du ký, chữ
ký, ký giả, ký hiệu, ký hoạ, ký kết, ký sự, thư ký, ký
ức (ký: ghi chép), ký gửi, ký sinh, ký thác, ký túc
xá (ký: gửi); kỵ khí, đố kỵ (kỵ: ghét); kỵ
binh, kỵ mã, kỵ sỹ (kỵ: ngựa); kỵ nhật (kỵ:
cấm - ngày giỗ tức ngày chết của cha mẹ coi là ngày cấm).
L-: (cái) li,
li-e, chi li*, cu li, mi li (nói tắt của milimet/ miligam),
(ngủ) li bì, (nhỏ) li ti, li-ti (tên một nguyên tố), lâm li*,
va li, lì, phẳng lì, nhẵn lì, lì loà, lì lợm, lì xì, (nói)
lí nhí, lũ lĩ, (mà, chứ) lị, kiết lị; ly (một quẻ trong
bát quái), cách ly, ly cách, biệt ly, ly biệt, ly gián, ly hận,
ly hôn, ly khai, ly tán, ly tâm (ly: lìa ra); địa lý, vật
lý, nguyên lý, lý thuyết, lý do, lý giải, lý luận, lý sự,
lý thú, lý tính, lý trí, lý tưởng (lý: lẽ, nguyên
do), hương lý, hào lý, lý trưởng (lý: làng), hải lý,
đường thiên lý (lý: dặm), lý lịch (lý: thực
tiễn, làm việc); tỉnh lỵ, quận lỵ, lỵ sở (lỵ:
sở, nơi chốn).
M- (nốt) mi,
(nhà) mi, mi-ca, mi-crô, mi mắt, cù mì, lúa mì, khoai mì, mì
sợi, mì chính*, mí (lại), rễ mí,tỉ mỉ, mụ mị*
; tu my, nga my (my: lông mày), nhu mỳ (mỳ: biến
âm của mỵ - "đẹp" (?); mỹ cảm, mỹ học, mỹ lệ,
mỹ mãn, mỹ miều*, mỹ nhân, mỹ nữ, mỹ phẩm,
mỹ quan, mỹ thuật, mỹ tục, mỹ từ, mỹ tửu (mỹ:
đẹp); mỵ dân, ma mỵ (mỵ: làm cho người ta mê), uỷ
mỵ, kiều mỵ, thuỳ mỵ, mỵ nương (mỵ: đẹp đẽ).
S-:cây si,
nốt si, si-lic, đen sì, hôi sì, hàn sì, sì sụp, mua sỉ (mua
buôn) ; ngu sy, sy tình, sy mê (sy: ngu, ngốc), quốc sỷ,
sỷ nhục (sỷ: hổ thẹn); quốc sỹ, sỹ diện, sỹ
khí, kẻ sỹ, sỹ phu, sỹ số, sỹ tử (sỹ: trí thức,
học trò); sỹ quan, tướng sỹ, sỹ tốt, tử sỹ (sỹ:
lính).
T-:ti (vú),
ti hí, (hoa) ti gôn, ti-tan, ti toe, đinh ti, ti trôn, (bé) ti ti,
(khóc) ti tỉ, ti tiện*, (uống) tì tì, tì vết, tì
tay, (liền) tù tì, tí toáy, tí tách, tí teo, tí ti, tỉ (số
đếm), tỉ mỉ, tỉ tê, bạc tỉ, tĩ (hậu môn loài chim),
tị nạnh ; ty (sở ngày trước), công ty (ty: quản
lý), trúc ty (ty: tơ); tự ty (ty: thấp hèn); tỳ
vị (tỳ: lá lách), tỳ bà (một loại đàn), nô tỳ,
tỳ thiếp (tỳ: đầy tớ), tỳ tướng (tỳ: nhỏ
hơn; tỳ tướng: phó tướng), tỳ vị (tỳ: lá lách);
tỷ giá, tỷ lệ, tỷ lệ thức, tỷ lệ xích, tỷ số, tỷ
thí, (phương pháp) tỷ dụ (tỷ: so sánh); tỷ dụ, tỷ
như (tỷ: ví dụ); ngọc tỷ (quả ấn); tý (tên 1 chi
trong 12 chi/ chỉ năm), tỵ nạn, tỵ địa (tỵ: lánh,
bỏ); tỵ (tên 1 chi trong 12 chi/ chỉ năm)
Ghi chú:
w Các từ gốc Ấn
Âu được viết i hay y tuỳ theo nguyên
ngữ.
w Các hình thức
Hán Việt không có là: hỳ, lỳ, lỷ, lỹ, mỷ, mý, sỳ, sý,
sỵ, tỹ. Các hình thức thuần Việt không có là: kỉ, lỉ,
mĩ, sí, sị. Các hình thức thuần Việt ít gặp là: kí (biến
âm của cấy - cốc vào đầu), kị (biến âm của
kì
trong kì cọ); lĩ (lũ lĩ), mỉ (tỉ mỉ).
w Một số từ ngoại
lệ (đánh dấu sao), gồm:
- Những từ Hán
Việt có ngữ âm như từ láy nên người Việt đã cảm thức
nó như từ láy (nhiều tác giả gọi các từ này là
từ
láy Hán Việt), chúng tôi coi là từ thuần Việt:
chi
li (chi: nhánh; li: tách ra); lâm li (lâm:
nước
nhỏ giọt; li: nước thấm vào); ti tiện (ti:
thấp
hèn; tiện: hèn). Tương tự còn có hậu hĩ,
mụ
mị (một yếu tố còn cảm nhận được nghĩa). Riêng mỹ
miều thì mỹ vẫn rõ nghĩa gốc nên xếp vào từ
Hán Việt.
- Những từ mượn
tiếng Hán hiện đại, chúng khác hẳn từ Hán Việt, nên coi
như từ gốc Ấn Âu: mì chính. Kí ninh tuy mượn âm Hán
Việt nhưng gốc Ấn Âu (quinin), nên tạm coi là mượn Ấn
Âu.
w Trường hợp kĩ
(kĩ càng) và sỹ (kẻ sỹ), nhiều sách, kể cả sách
viết trước 1980 (phân biệt i/y) viết ngược lại là
kỹ
và sĩ, đó là hai trường hợp viết không chuẩn.
Kết hợp sự ghi
nhớ và phần nào sự phân biệt thuần Việt/ Hán
Việt, ta thấy việc viết phân biệt i/y hoàn toàn
khả thi vì: số lượng từ thuần Việt ít, có đặc điểm
cấu trúc và ngữ âm dễ nhận ra, còn từ Hán Việt chỉ do
một số ít từ tố gốc tạo thành, tất cả khoảng
25 từ tố gốc (ở đây gộp cả các từ tố đồng âm khác
nghĩa, miễn nó là từ tố Hán Việt, viết y).
Thay lời kết
Viết đến đây
chúng tôi thấy cần phải nói lời xin lỗi, vì chỉ có hai
chữ i/y mà nói khá dài, làm mất thì giờ của độc
giả. Nhưng biết làm sao được, nếu không đặt trong hệ
thống tiếng Việt - chữ Việt, sẽ không thể nào "bào chữa"
cho những "bất hợp lý" của i/y, nhất là trong bối
cảnh đang có sự lộn xộn, nhiều người muốn nhập
i/y
làm một không chỉ vì sự "hợp lý" mà chỉ vì tránh sự
"rắc rối". Với giới chuyên môn, nếu chúng tôi có làm mếch
lòng các bậc trí giả thì cũng chỉ vì tình yêu tiếng Việt.
Chúng tôi cảm thấy nếu nhất thể i sẽ là đánh mất
một phần gia tài tiếng Việt của cha ông, cho nên chúng tôi
đành nhọc lòng và chịu mất lòng nữa để bảo vệ cho cách
viết phân biệt i ngắn và y dài.
_____________
[1]
Xem Ngôn ngữ và đời sống số 6/2005, Xuất bản Việt
Nam số 4/2010 và Tham luận tại Hội thảo Ngôn ngữ học
toàn quốc tháng 4/2010.
[2]
Một vài ví dụ: g/gh cùng ghi âm /g/, ng/ngh cùng
ghi âm /ng/, thậm chí 3 chữ cái c/k/q cùng ghi âm /k/.
Âm đệm /u/ vừa viết là u vừa viết là o (huy
hoàng), /a/ă/ đều viết a: sao/sau.
Nguyên âm đôi /iê/ viết iê/ia: chiến/chia, /ươ/
viết ươ/ưa (thương/thưa),v.v.. Tiếng Bắc không
phân biệt /tr/ch, s/x, d/gi/r/. Từ Thanh Hoá trở vào cho hết
miền Nam không phân biệt hỏi/ ngã. Từ phía nam Quảng
Bình trở vào bắt đầu không biệt âm cuối /c/t, n/ng/ và
từ Thừa Thiên - Huế trở vào thì hoàn toàn mất sự phân
biệt trên. Riêng Nam Bộ còn không phân biệt các phụ âm đầu
/v/d/, không phân biệt /g/h/k/ khi có âm đệm (huế ® guế;
quang ® goang), không phân biệt âm chính /i/iê/ (tim/tiêm),
đánh mất âm đệm /u/ khi đi với các nguyên âm /ê, i/, trừ
khi đi với /g/h/k/ (tuệ ® tệ; thuý ® thí), /ă ®a/ (cháu
® cháo, tay ® tai). Có những tiếng không một vùng nào
phát âm "đúng". Ví dụ sẵn, Bắc Bộ đọc xẵn;
Thanh Hoá - Quảng Bình: sẳn/sặn; Huế trở vào: sặng/sẳng/xẳng.
[3]
Ví dụ trong tiếng Anh, /e/ khi đứng cuối từ, ngoại trừ
"the", không được phát âm: bite /bait/, distance /'distəns/,
line
/lain/. Một âm ghi bằng nhiều chữ, và một chữ ghi cho nhiều
âm cũng là hiện tượng phổ biến.
[4]
Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, NXB
Trẻ, 2001.
[5]
Xem Về bản dự thảo Quy định cách viết cách đọc tên
riêng nước ngoài trong các văn bản quản lý nhà nước,
Ngôn
ngữ và đời sống số 6/2006.
[6]
Có người đã thử viết sau khi chữ QN được cải tiến "hợp
lý" như sau: Ôi! Cuốc gia tŭiệt vời, cuê hương iêu dấu,
sau những chặng đường khúc khŭỉu của lịch sử, sau những
loăi hoăi trong đêm hôm khŭia khoắt tưởng chừng tŭiệt vọng,
ngằi năi dân ta đã có được một thứ chữ ŭiên bác, không
tầi huầi cuê mùa như trước.
[7]
Có không ít người đề nghị dùng hệ thống chính tả hiện
tại để "phiên" thành hệ thống chính âm, và ta có một hệ
thống chính âm "hoàn hảo" 1 đối 1 với chính tả, nhưng
than ôi, đó là một thứ chính âm nhân tạo, siêu thực,
và
nếu đạt được sẽ là một đại hoạ cho tiếng Việt.
[8]
Lâu nay nhiều người vẫn coi luyện chính âm là điều kiện
tiên quyết cho chính tả, nhưng đã vấp phải một thực tế:
không một phương ngữ nào có đủ khả năng để chọn chuẩn
chính âm, mà dẫu có một vùng nào đó "chuẩn" thì cũng không
cưỡng ép vùng khác nói theo được. Theo Nguyễn Đức Dương,
dạy chính tả bằng con đường chính âm "là biện pháp
thần tình nhất để viết sai chính tả một cách chắc chắn"
(Linh hồn tiếng Việt, NXB Trẻ, 2003).
[9]
Cao Xuân Hạo, Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,
NXB Khoa học Xã hội, 2006.
(Mùa
thu 2010)
|