Đôi
điều suy nghĩ về
vương
triều Nguyễn
Kiến
Hào
|
|
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ những giá trị kinh tế -
xã hội của miền Nam đều bị xóa bỏ và thay thế bởi những
khái niệm, chuẩn mực mới của miền Bắc XHCN. Riêng về
lịch sử, triều Nguyễn (1802 – 1945) chịu sự phê phán, lên
án hết sức nặng nề. Tất cả đường phố Sài Gòn có biển
tên vua quan triều Nguyễn đều bị xóa bỏ, thay bằng những
tên khác như Nguyễn Hoàng (bị thay bằng Trần Phú), Gia Long
(Lý Tự Trọng), Thành Thái (An Dương Vương), Minh Mạng (Ngô
Gia Tự), Hiền Vương (Võ thị Sáu), Lê Văn Duyệt (Cách Mạng
tháng 8), Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng), Nguyễn Huỳnh Đức (
Huỳnh Văn Bánh), Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), Phan Thanh
Giản (Điện Biên Phủ), Võ Tánh ( Hoàng văn Thụ) v.vv... Những
ngôi trường miền Nam nổi tiếng một thời, mang tên vua chúa
và các khai quốc công thần triều Nguyễn cũng chịu chung số
phận bị xóa tên như Gia Long, Petrus Ký, Lê Văn Duyệt, Trịnh
Hoài Đức, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản ...Đặc biệt địa
danh "Gia Định" để chỉ một vùng đất là thủ phủ miền
Nam đã tồn tại hơn 200 năm cũng bị xóa mất. Sách giáo khoa
và tham khảo trong nhà trường phổ thông dùng những từ ngữ
hết sức "cay nghiệt" khi nói về các vua chúa nhà Nguyễn :
"...Triều
Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng
một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược
của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập nên triều
Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông
dân ... Triều Nguyễn là vương triều tối phản động
...Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn
bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố,
trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh
tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả
phụ nữ và trẻ em... "Chính quyển nhà Nguyễn hoàn toàn
đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho
quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn
tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa
chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819)
đến
Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847),Tự Đức
(1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng
các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong
trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long,
phải dời vào Huế".(1)
Nhiều thế hệ
học sinh đã được học những bài học lịch sử với quan
điểm đánh giá cực đoan như vậy, nên không trách trong một
thời gian dài, rất nhiều những ngộ nhận oan sai, thậm chí
lòng căm thù đối với nhà Nguyễn tỏ ra "hết sức sâu sắc".
Thực ra, các vua chúa triều Nguyễn cũng có nhiều công lao
to lớn trong sự nghiệp mở nước và thống nhất đất nước,
chấm dứt nội chiến...mà vì nhiều lý do, người ta cố tình
bỏ quên hoặc lãng tránh nhắc đến các sự kiện đó, hoặc
buộc phải nhắc đến thì lại cố tình gán ghép cho những
động cơ sai trái, suy diễn theo hướng có tội. Đó là một
thái độ không công bằng, thiếu tôn trọng sự thật khách
quan, thiên lệch và bóp méo lịch sử. Bài viết này không
có tham vọng "tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời" (Kiều),
cũng không nhằm biện minh cho những sai lầm của nhà Nguyễn
trong quá khứ, chỉ mong cung cấp những sự kiện lịch sử
có thật để bạn đọc có một cái nhìn khách quan, đầy
đủ hơn từ đó có những nhận xét công tâm về nhà Nguyễn,
một vương triều vẫn đang có nhiều tranh cãi trong quá khứ
và cả hiện tại. |
Ghi chú :
1.
Lịch
sử Việt Nam, tập I,Ủy Ban Khoa học- xã hội Việt Nam,
NXB KHXH, Hà Nội, 1971. |
a/. Vùng
đất hứa của dân phiêu tán :
Năm 1558, Đoan Quận
công Nguyễn Hoàng xin vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa (2),
" Ô châu ác địa" không ngờ là mảnh đất dung thân, nơi
các Chúa Nguyễn đứng vững và mở đầu cuộc Nam tiến của
dân tộc Việt suốt hai thế kỷ, trải chín đời chúa. Văn
thần triều Lê – Trịnh là Lê Quý Đôn mặc dù đứng trên
lập trường đối nghịch cũng viết những nhận xét khách
quan về Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) trong Phủ Biên tạp lục
như sau : " Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh,
không ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính sự khoan hòa,
việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dụng pháp công bằng,
răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quan dân hai xứ
( Thuận Hóa- Quảng Nam) thân yên tín phục, cảm nhân mến
đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người
không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng ..." .(3)
Nửa cuối thế
kỷ 16, cuộc chiến tranh Lê – Mạc đã vắt cạn kiệt nguồn
lực của xứ Bắc Hà, đói kém, mất mùa liên tiếp khiến
dân cư hết sức khổ sở, tạo thành một làn sóng di dân
vô vùng đất phía Nam của chúa Nguyễn. Đại Việt Sử ký
toàn thư (4)
ghi chép lại tình cảnh khốn cùng của dân Đàng Ngoài qua
các năm như sau :
...(Năm 1570) Bấy
giờ nhân dân các huyện ở Thanh Hoa tan tác tháo chạy, ruộng
đồng bỏ không cày cấy, nhiều người bị chết đói......(Năm
1571) Năm ấy đất Thanh Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người
xiêu giạt......(Năm 1572) Năm ấy, các huyện ở Nghệ An, đồng
ruộng bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào, dân đói to,
lại bị bệng dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu
giạt, kẻ thì lần vào Nam, người thì giạt ra Bắc, trong
hạt rất tiêu điều...(Năm 1589) Ngày 15, mặt trăng phạm vào
sao Tuế. Đại hạn, Gạo kém. Nhiều người xiêu tán...(Năm
1592) Tháng 7 ngày mồng 6, lụt thình lình, nước sông chảy
tràn, gò đống bị ngập, đạo Thanh Hoa lúa má mất mùa. Ngày
15 lại bị lụt. Dân miền Tây Nam cũng bị đói kém...(Năm
1594) Bấy giờ nhân dân các huyện ở Hải Dương mất mùa
to, đói kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến một
phần ba...(Năm1595) Bấy giờ nhân dân mất mùa, đói to, lại
thêm ôn dịch, người chết xác gối lên nhau...(Năm1596) Bấy
giờ đại hạn, thóc lúa vụ chiêm đều không thu được,
đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa không kết trái. Trộm
cướp quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến bảy tám trăm
đứa, bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm, ngày đêm đốt
phá nhà cửa, cướp đoạt của cải gia súc, thủy bộ không
thông, đường sá bế tắc, dân đói nhiều, chết đến quá
nữa...
Có thể nói , hai
trấn Thuận Hóa và Quảng Nam sau khi được Nguyễn Hoàng an
định, đã trở thành vùng đất hứa cho hàng ngàn người
dân trải dài từ Thăng Long đến Thanh Nghệ, họ là nạn nhân
của những năm mất mùa đói kém và chiến tranh thảm khốc
giữa nhà Lê và nhà Mạc (5).
Đợt di dân tự nguyện này cũng giúp giải quyết áp lực
dân số trên một vùng đất nông nghiệp có giới hạn, mở
đầu cho các cuộc Nam tiến sau này, những cuộc di dân đã
làm tăng thêm sức mạnh dân tộc và giúp đất nước thoát
khỏi nguy cơ bị Hán hóa.
b.Mở cửa thị
trường trong nước, đẩy mạnh giao thương với các thương
nhân nước ngoài:
Chính sách trọng
thương của chúa Nguyễn đã khuyến khích các thương nhân
nước ngoài vào làm ăn buôn bán khiến các thương cảng Thanh
Hà, Hội An ở Đàng Trong trở nên sầm uất phát đạt lôi
kéo theo các nghề thủ công, tiểu thủ công như trồng dâu
nuôi tằm, dệt lụa, gốm sứ, nghề gỗ, đóng tàu ... phát
triển đến cực thịnh. Nguồn thu thuế, lợi tức từ việc
trao đổi mua bán hàng hóa chính là nguồn hỗ trợ chu cấp
quân lương cho chúa Nguyễn trong cuộc chiến với Đàng Ngoài.
Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Minh khiến hàng hóa
Nhật muốn vào Trung Quốc và ngược lại đều phải trung
chuyển qua các cảng Đàng Trong, vô tình khiến các thương
cảng Hội An Thanh Hà càng thêm sầm uất. Số tàu buôn Trung
Hoa đến thương cảng Hội An từ 1647 đến 1720 nhiều hơn
số tàu đến bất cứ nước nào khác trong vùng (Bắc Hà 63
tàu, Chân lạp 109 tàu, Xiêm 138 tàu, Indonesia 90 tàu và Hội
An là 203 tàu). (6)
Nhà sử học Tạ
Chí Đại Trường, một người quê gốc Bình Định và có
thiên kiến với triều Nguyễn cũng phải nhìn nhận : " ...nhìn
lại trong sự phát triển quyền lực của họ Nguyễn, căn
bản tổ chức tuy là theo khuôn mẫu của một chính quyền
phương Đông nhưng trong tình thế riêng biệt của vùng và
của thời thế, yếu tố thương mại đã có dáng quan trọng
đến mức chứa chấp cả sự hưng vong của dòng họ. Không
phải chỉ vì nhu cầu tự vệ với Trịnh mà Nguyễn bị buộc
phải củng cố phát triển. Trong một trăm năm ngưng chiến,
họ vẫn trên đà gia tăng cường thịnh để có những toan
tính dòm ngó đất Đàng Ngoài, và chuẩn bị xưng vương lập
nước ...".(7)
Nhà du hành hàng
hải người Anh John Barrow (1764-1848) là một người vận động
cho công cuộc giao thương giữa công ty Đông Ấn và xứ Nam
Hà (8)
đã có những nhận xét về kinh tế Đàng Trong như sau : "
...Theo ý tôi, sự liên kết thân thiết với Nam Hà sẽ mở
ra một con đường lớn cho việc thực hiện mục tiêu này.
Đất nước này sẽ cung cấp nhiều mặt hàng có giá trị
thích hợp với thị trường Trung Quốc, và sẽ mở ra một
lối thoát rất lớn để tiêu thụ nhiều hàng hóa của chúng
ta, và vị trí của nó nằm trên con đường đi thẳng từ
Anh tới Trung Quốc là một điều không thể không suy nghĩ.
Chẳng hạn như những khu rừng Nam Hà sẽ cung cấp nhiều loại
gỗ hương liệu khác nhau như hồng đào, trầm hương, kỳ
nam ...tất cả đều được tán thưởng ở thị trường Trung
Quốc, được trả với giá cực kỳ cao. Quế chi xứ Nam Hà,
mặc dù hơi thô và hương vị cay nồng, nhưng người Trung
Hoa vẫn thích nó hơn thứ quế Tích Lan (Ceyland) ...Gạo là
nhu cầu không thể thiếu của thành phố Quảng Châu đông
đúc, còn đường và hạt tiêu cũng đều được hoan nghênh,
tất cả các mặt hàng này đều được sản suất dồi dào
trong các thung lũng phì nhiêu xứ Nam Hà. Ngoài những sản vật
này, còn có thể kể thêm cau, sa nhân, gừng và các loại gia
vị khác, cùng những tổ chim yến thu lượm được rất nhiều
trên những cụm lớn các đảo chạy song song với bờ biển
mà trên các hải đồ có tên là Paracels (Hoàng Sa)...". (9)
c/. Mở rộng
biên cương vạn dặm :
Nhà sử học Trần
Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược ( Chương VI:
Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam) đã viết : "
Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng
cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho
nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những
người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những đất
phì nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú
hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam
thật là to lớn lắm vậy". (10)
Đầu thế kỷ 17,
xứ Quảng Nam (gồm cả Quảng Ngãi và Quy Nhơn) là vùng đất
cực nam của Đại Việt giáp với Chiêm Thành. Năm Tân Hợi
(1611) chúa Nguyễn Hoàng đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra
phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Năm Quý Tỵ 1653,
vua nước Chiêm là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên,
chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc
sang đánh. Bà Thấm xin hàng. Chúa Nguyễn lấy đất đặt làm
phủ Diên Khánh ( Khánh Hòa bây giờ).
Năm Quý Dậu 1693,
vua Chiêm là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là
Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem
quân đi đánh, bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm
Thành làm Thuận phủ, qua năm 1697 lại đổi làm phủ Bình
Thuận, lấy đất Phan Rí, Phan Rang làm huyện Yên Phúc và huyện
Hòa Đa. Nước Chiêm Thành bị diệt.
Năm 1698 chúa Nguyễn
Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm Khâm sai Kinh
lược sứ, vào nam lập phủ Gia Định gồm hai huyện : huyện
Phước Long ( Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên và huyện Tân
Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn (11);
lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào
để lập ra thôn xã và tha thuế để khuyến khích khai khẩn
ruộng đất. Những người Tàu di dân ở đất Trấn Biên thì
lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phiên Trấn thì
lập làm xã Minh Hương. Những người Tàu này đều thuộc
sổ bộ dân nước ta. Phủ Gia Định khi ấy dân số ước
chừng bốn vạn hộ ( 20 vạn người).
Năm 1708, Mạc Cửu
cai quản đất Hà Tiên (kể cả Phú Quốc) xin thuộc về Đàng
Trong. Chúa Nguyễn chấp thuận, lập ra trấn Hà Tiên, để
Mạc Cửu làm Tổng binh giữ đất ấy.
Năm 1732, vua Sâtha
của Chân Lạp xin cắt hai vùng Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr
(Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn Phúc Trú (Thái) để tạ ơn dẹp
loạn. Chúa Nguyễn đặt dinh Long Hồ và lập châu Định Viễn.
Năm 1735, Mạc Cửu
qua đời, con là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cho nối
chức, tiếp tục mở rộng Hà Tiên đến Rạch Giá và Cà Mau.
Năm 1757, chúa Nguyễn đặt ra đạo Kiên Giang (Rạch Giá) và
đạo Long Xuyên (Cà Mau) đều thuộc về Trấn Hà Tiên.
Năm 1753, vua Chân
Lạp là Chey Chêtthâ V (tức Nặc Nguyên) bị chúa Nguyễn Phúc
Khoát sai Nguyễn Cư Trinh cử binh phạt tội vì thông sứ với
chúa Trịnh và ức hiếp người Côn Man (dân Chămpa lưu vong).
Năm 1755 vua Chân Lạp bị đánh thua, bỏ thành Nam Vang chạy
sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ giúp tâu với chúa Nguyễn
xin nộp hai vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Tân An và Gò
Công) để tạ tội. Chúa Nguyễn cho nhập hai vùng đất ấy
vào châu Định Viễn.
Năm 1759, Nặc Nguyên
mất, chú là Nặc Nhuận xin dâng hai vùng đất Trà Vinh và
Sóc Trăng để được công nhận là vua Chân Lạp. Đến đây
thì toàn bộ bờ biển hình chữ S của nước ta đã định
hình.
Năm 1760, Nặc Nhuận
bị rể là Nặc Hinh giết chết. Quan tổng suất triều Nguyễn
là Trương Phúc Du đem quân sang đánh. Nặc Hinh thua chạy và
bị giết. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn (Ang Tong) được lên
nối ngôi vua Chân Lạp, xin dâng đất Tầm Phong Long ( Sa Đéc)
để tạ ơn. Đến đây thì quá trình Nam tiến kể như hoàn
tất.
Nặc Tôn lại dâng
năm phủ là Kampot, Kompong Som, Chal Chun, Bantey Méas, và Raung
Veng để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho
nhập tất cả vào trấn Hà Tiên. Năm 1841, vua Thiệu Trị trả
năm phủ ấy lại cho Chân Lạp, ngày nay là hai tỉnh Kampot
và Tà Keo.
Nhà thơ Nguyễn
Duy đã viết những dòng ray rứt : " Nhà Nguyễn đã có công
lao rất lớn đối với nước Việt Nam, đó là một sự thật
hiển nhiên, vậy mà không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại
bị bóp méo đến biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn
chính thống, bị hạ thấp một cách oan ức về thang bậc
giá trị lịch sử và văn hóa, bị ruồng bỏ nhiều bài vị
tôn kính, bị xóa tên đường phố nhiều vua chúa kiệt xuất.
Tại sao ?"(12) |
Ghi chú :
2.
Khuynh
hướng chung lâu nay là quy kết cho Trịnh Kiểm tội hãm hại
Nguyễn Uông, chực chờ dịp ra tay "nhổ cỏ tận gốc" Nguyễn
Hoàng. Việc Nguyễn Hoàng xin lánh ra Thuận Hóa là để thoát
khỏi vòng kiềm tỏa của Trịnh Kiểm, trước tự cứu lấy
mình sau mưu đồ lập giang san riêng. Tuy nhiên cũng có ý kiến
(Trần Viết Ngạc, Nguyễn Hoàng 400 năm nhìn lại, Chim Việt
Cành Nam) cho rằng quan hệ giữa Trịnh Kiểm- Nguyễn Hoàng
không mâu thuẩn vì tranh quyền mà vẫn trong chừng mực tin
tưởng lẫn nhau. Bằng chứng là Nguyễn Hoàng hai lần ra Bắc
(1569) và (1592) để góp sức diệt Mạc.
3.
Phủ
Biên tạp lục, sách đã dẫn, trang 42.
4.
Đại
Việt sử ký toàn thư, sđd, trang 155
5.
CBVNLQ,sđd,
trang 144
6.
Xứ
Đàng Trong- Lịch sử kinh tế và xã hội thế kỷ XVII và XVIII,
sđd, trang 114.
7.
Lịch
sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 361
8.
Xứ
Nam Hà thoạt tiên dùng để chỉ vùng đất phía nam sông Gianh,
nhưng sau này khi các chúa Nguyễn khai hoang mở cõi thì Nam Hà
gồm cả phần đất Nam Bộ ngày nay.
9.
Một
chuyến du hành đến xứ Nam Hà, sđd, trang 107
10.
Việt
Nam sử lược, sđd, trang 327
11.
Phiên
Trấn bao gồm cả Củ Chi và Tây Ninh, còn Trấn Biên gồm cả
hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước bây giờ.
12.
Rơm
rạ ơi ta trở về đây- Sài Gòn tiếp thị, Xuân 2008 |
2.
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC SAU GẦN 300 NĂM PHÂN LIỆT : |
Có lẽ
chưa từng có nước nào mà sự cát cứ, chống đối giữa
các thế lực phong kiến lại kéo dài như Đại Việt, suốt
từ nửa đầu thế kỷ XVI (1533) đến đầu thế kỷ XIX (1802),
bức tranh lịch sử với những sự kiện bi hùng xảy ra dồn
dập. Cuộc chiến Nam Bắc triều vừa chấm dứt thì cuộc
chiến Trịnh – Nguyễn lại tiếp tục đưa đất nước vào
cảnh chia cắt hàng trăm năm lần thứ hai. Xen vào đó là phong
trào Tây Sơn nổi lên cuối thế kỷ 18. Những cuộc chiến
làm suy yếu nội lực đất nước, gây chia rẽ giữa các vùng
miền và tạo cơ hội cho các cuộc ngoại xâm, cũng như để
lại hệ quả là những dấu ấn khác biệt về văn hóa, tính
cách, ngôn ngữ, tập quán trong quá trình phát triển đất
nước, con người Việt Nam giữa các địa phương.
a/. Chiến tranh
Nam –Bắc triều :
Năm 1527 Mạc Đăng
Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra triều Mạc mở đầu giai đoạn
chiến tranh Nam – Bắc triều suốt thế kỷ 16. Bắc triều
lấy Dương Kinh (Hải Dương) làm kinh đô thứ hai, dựa vào
quân bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam và Kinh Bắc để
chống lại quân Nam triều cát cứ vùng Thanh Nghệ. Chiến trường
khi thì ở trong Thanh Hóa, Nghệ An khi thì tại kinh đô Thăng
Long hoặc Sơn Nam, Hải Dương tùy tình hình tương quan lực
lượng hai bên nhưng nhìn chung cuối cùng chỉ nhân dân là
gánh chịu tất cả thiệt hại. Năm 1592, Trịnh Tùng thắng
trận quyết định lấy lại kinh đô Thăng Long và giết chết
Mạc Mậu Hợp. Tính ra họ Mạc làm chủ miền Bắc được
65 năm, sau đó tàn dư kéo lên Cao Bằng nối dài thêm được
một số năm nữa. Có tài liệu cho nhà Mạc kéo dài đến
cuối thế kỷ thứ 17, nhưng xét về thực chất thì sau khi
Mạc Kính Khoan thất bại trong cuộc chiến chiếm lại Thăng
Long năm 1623 thì nhà Mạc kể như cáo chung, vị thế người
đứng đầu chỉ là hữu danh vô thực, gần giống như một
tù trưởng địa phương mà thôi. Cuộc chiến Lê-Mạc đã
làm suy yếu nội lực của Đại Việt, một quốc gia cường
thịnh lúc bấy giờ trong vùng Đông Nam Á. Những thành tựu
kinh tế - xã hội đạt được thời Lê sơ dưới triều đại
các vị anh quân Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông
đều bị chiến tranh làm mai một, chất lượng cuộc sống
bị kéo lùi, nạn đói xảy ra khắp nơi ngay cả tại vùng
lưu vực sông Nhị Hà là vựa lúa lớn nhất Đại Việt thời
bấy giờ.
b/. Trịnh –
Nguyễn phân tranh :
Việt Nam sử
lược (chương III, trang 274, sđd) viết : " Năm Kỷ Hợi
1599, đời vua Thế tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu xếp xong việc
thông sứ với nhà Minh, và đã chịu nhường đất Cao Bằng
cho con cháu nhà Mạc rồi, trong nước đã yên dần, bèn tự
xưng làm Đô nguyên súy tổng quốc chính Thượng phụ Bình
An vương, rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế
một ngàn xã gọi là lộc thượng tiến, cấp cho vua 5000 lính
để làm quân túc vệ. Còn những việc đặt quan, thu thuế,
bắt lính, trị dân đều thuộc về quyền họ Trịnh cả.
Chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ thì mới cần
đến vua mà thôi. Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế tập
làm vương, tục gọi là chúa Trịnh ...". Năm 1627, Trịnh
Tráng đem quân vào nam đánh Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) lần
thứ nhất, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn. Trong
45 năm đối đầu, họ Trịnh chủ động vào đánh 6 lần,
họ Nguyễn chỉ đánh ra một lần nhưng đều bất phân thắng
bại. Sau trận chiến năm Nhâm Tý 1672, sông Gianh (Linh Giang)
được chọn làm ranh giới phân chia Nam Bắc. Kể từ đó,
đất nước bị chia cắt hơn một trăm năm nữa, miền Bắc
(Đàng Ngoài) sống dưới chế độ vua Lê-chúa Trịnh mà vua
Lê chỉ là bù nhìn (13);
miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng
cương vực Đại Việt đến tận mũi Cà Mau. Năm Giáp Ngọ
1774, nhân nhà Nguyễn có nội loạn (Tây Sơn khởi binh), họ
Trịnh cho tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh lấy đất Thuận Hóa
và Quảng Nam. Đây là lần đánh nhau cuối cùng giữa hai thế
lực Trịnh - Nguyễn. Sông Gianh chấm dứt vai trò lịch sử
kể từ đấy.
c/. Phong trào
Tây Sơn :
Năm 1765, Võ vương
Nguyễn Phúc Khoát từ trần, cường thần Trương Phúc Loan
chuyên quyền đẩy sự nghiệp hai trăm năm chúa Nguyễn vào
thế bại vong : kinh tế yếu kém, lòng dân ly tán, nội bộ
chia rẽ. Nhân cơ hội đó, một hào phú vốn là chức sắc
trong bộ máy thu thuế địa phương là Nguyễn Nhạc (Biện
Nhạc) (14)
tự xưng "Tây Sơn trại chủ" đã đứng lên tập hợp dân
nghèo dưới lá cờ "cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo"
chống lại chính quyền Đàng Trong. Chỉ trong ba năm , quân
khởi nghĩa chiếm trọn một dải đất từ Quảng Ngãi đến
Phú Yên, trở thành một lực lượng đối trọng với chính
quyền Lê-Trịnh ngoài Bắc và họ Nguyễn trong Nam. Bị đánh
dồn ép từ hai phía, Định vương Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú
Xuân vào Gia Định tính chước khôi phục. Năm 1775, tướng
Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc thỏa hiệp với Nguyễn Nhạc rút
quân về chiếm đóng Phú Xuân, nhường đất Quảng Nam cho
Tây Sơn cai quản. Tháng ba năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ
đem quân vào Nam bắt giết Định vương ở Long Xuyên và Tân
Chính vương ở Bến Tre (15).
Tháng năm năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ tiến chiếm Phú
Xuân, thừa thắng tiến thẳng ra Bắc, giương cờ "Phù Lê
diệt Trịnh" truy đuổi và bắt giết Trịnh Tông, giao lại
quyền cai quản xứ Bắc Hà cho dòng chính thống là vua Lê
Chiêu Thống (16).
d/. Đại Việt
trước nguy cơ tan rã :
Năm 1786, sau khi
chiến thắng quân Trịnh trở về, đất Tây Sơn được chia
ba : Nguyễn Nhạc tự xưng Trung Ương Hoàng đế đóng đô tại
Quy Nhơn, phân phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai
quản hai xứ Quảng Nam và Thuận Hóa, còn Nguyễn Lữ làm Đông
Định vương cai quản toàn bộ đất Gia Định kể cả Bình
Thuận. Mỗi nơi đều có hệ thống chính quyền riêng, độc
lập với hai nơi kia, thậm chí đối địch nhau mặc dù vẫn
mang tên gọi chung là Tây Sơn. Phong trào khởi nghĩa nông dân
với chiêu bài " cướp của người giàu chia cho dân nghèo"
đã đi đến điểm kết thúc với sự thành lập nhà nước
quân chủ phong kiến mới! Chính sự phong kiến hóa quá sớm
đó vô hình chung đã giúp cho chúa Nguyễn có cơ hội trung
hưng vì nhờ mảnh đất của vua Thái Đức làm trái độn,
tránh đối đầu trực tiếp với kẻ thù mà ông chỉ toàn
đánh thua. Nếu kể thêm xứ Bắc Hà (An Nam cũ) do vua Lê Chiêu
Thống cai trị thì lúc này bức dư đồ Đại Việt như mảnh
áo vá rách chia làm bốn mảnh : từ Lạng Sơn đến Thanh Hóa
thuộc vua Lê, từ Nghệ An đến Quảng Nam thuộc Bắc Bình
vương Nguyễn Huệ, từ Quảng Ngãi đến Phú Yên thuộc vua
Thái Đức Nguyễn Nhạc, từ Bình Thuận vào nam là của Đông
Định vương Nguyễn Lữ. Nhiều người thất vọng vì viễn
tượng tập đại thành thống nhất đất nước đã không
xảy ra, chẳng những thế ở cả ba miền Bắc Trung Nam sau
đó đều xảy ra chiến tranh dữ dội, cục diện xoay chiều
liên tục giữa các thế lực phong kiến.
Đầu năm 1787, Nguyễn
Huệ đem quân Tây Sơn Thuận Hóa vào bao vây đánh phá kinh
thành Quy Nhơn (17),
Nguyễn Lữ phái Đặng Văn Chân (Trân hoặc Trấn) đem quân
Tây Sơn Gia Định về cứu viện bị Nguyễn Huệ đánh tan
tại Phú Yên, bản thân Chân bị bắt sống (18).
Thành Quy Nhơn (Đồ Bàn cũ) bị vây, quân Tây Sơn Thuận Hóa
đắp núi đất trên đặt súng lớn bắn vào trong thành, Nguyễn
Nhạc phải lên mặt thành khóc lóc, kêu gọi : " Nồi da nấu
thịt lòng em sao nỡ thế", Nguyễn Huệ mới thu quân giảng
hòa. Bản Tân (Quảng Nam) trở thành địa giới giữa Tây Sơn
Thuận Hóa và Tây Sơn Quy Nhơn. Nguyên nhân là do bất đồng
giữa hai người trong việc phân chia số chiến lợi phẩm quý
giá thu được trong phủ chúa Trịnh (19),
việc tranh giành cai quản đất Quảng Nam và nhất là việc
Nhạc bạo ngược giết công thần Nguyễn Thung, thông dâm với
vợ Nguyễn Huệ khiến ông tức giận mà từ chối lịnh đi
chầu (Đại Nam Liệt truyện, quyển 30, trang 13b, 14a).
Từ nay mối rạn nứt giữa hai anh em Nhạc - Huệ không còn
cơ hội hàn gắn nữa mà kéo dài đến tận thế hệ sau giữa
hai anh em chú bác ruột là Nguyễn Bảo và Quang Toản, kết
cục Toản giết chết Bảo cuối năm Mậu Ngọ 1798. Ngay cả
khi vua Quang Trung mất (năm 1792), Quang Toản cũng không cho người
bác ruột ra viếng tang, khiến Nguyễn Nhạc đi đến đầu
địa giới phải quay trở lại Quy Nhơn.
Mùa đông năm Đinh
Mùi (1787), sau khi đã giảng hòa với vua anh, Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ sai Vũ văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh
mang tội chuyên quyền, lấy oán báo ơn, mưu đối địch. Chỉnh
bị giết chết, vua Lê bỏ kinh thành trốn tránh trong các hương
ấp, nay Hải Dương, mai Sơn Nam rồi lại trở về Kinh Bắc.
Tây Sơn áp đặt chế độ quân chính lên các trấn xứ Bắc
Hà, hoàng thân Lê Duy Cận được cử làm Giám quốc bù nhìn
chỉ biết ngày ngày đến tướng phủ Tây Sơn chờ mệnh lệnh (20).
Tháng ba năm Mậu Thân 1788, Bắc Bình vương lại thân ra Bắc
diệt Nhậm (21).
Những rối loạn thay bậc đổi ngôi liên tục diễn ra trong
một thời gian ngắn khiến tình hình Bắc Hà thực sự rối
ren, các võ tướng cũ của chúa Trịnh và các hào mục địa
phương nổi lên quy tụ từ vài trăm đến vài ngàn thổ binh
tự quản lấy, phép nước không còn ai tôn trọng. Trong lúc
ấy tình hình miền Nam cũng không hơn gì.
e/. Nguyễn vương
Ánh lấy lại Gia Định :
Năm 1786, Nguyễn
Lữ được phong làm Đông Định vương, cai quản một vùng
đất trù phú rộng lớn từ Bình Thuận trở vào. Tuy nhiên,
lực lượng quân Tây Sơn đóng trên đất Gia Định giống
như một đạo quân chiếm đóng hơn là quân phò chính diệt
tà. Quan hệ giữa quân với dân vẫn giữ khoảng cách nếu
không muốn nói là thù địch. Hệ thống chính quyền quân
quản do các võ quan đứng đầu chỉ quen ra những mệnh lệnh
tịch thu, sung công, cấm đoán, bắt bớ chứ không biết ra
những chính sách an dân. Người Thanh Hà (Trấn Biên) và Minh
Hương ở Phiên Trấn vẫn còn nhớ vụ cướp bóc, đốt phá
Nông Nại Đại Phố năm 1777, vụ tàn sát người Hoa để trả
thù quân Hòa Nghĩa sau cái chết của Phạm Ngạn năm 1782 ,
hoặc vụ quân Tây Sơn tàn sát giáo dân Ba Giồng do đã chứa
chấp chúa Nguyễn năm 1783 (22),
gần nhất là vụ ép dời chợ Bến Nghé về Cầu Sơn cho dễ
thu thuế của Nguyễn Lữ (tháng 5 năm 1787). Những vụ "nhập
khấu" này làm xấu đi hình ảnh của quân Tây Sơn trong con
mắt của dân Gia Định, nên thực khó mà nhận được sự
hậu thuẫn của người dân. Theo Nguyễn Hữu Hiếu : " ...Mỗi
lần đại quân Tây Sơn đánh vào chỉ tiêu diệt được lực
lượng quân sự của Nguyễn Ánh, tàn phá phần nào cơ sở
vật chất (thu gom lúa gạo, đốt phá, tháo dở các công trình
lớn ở cù lao Phố, Chợ Lớn, Mỹ Tho...lấy vật tư chở
về Quy Nhơn), chớ chánh quyền Nguyễn Lữ chưa hề có động
thái gì nhằm làm thay đổi cơ cấu xã hội Gia Định, cơ
sở
tồn tại và phục hưng của Nguyễn Ánh...nên hễ túng thế
thì Nguyễn Ánh bỏ chạy, nhưng tạm yên thì ông ta lại quay
về Gia Định như về nhà mình vậy ...". (23)
Tóm lại, quân Tây
Sơn chỉ biết "bình" chứ không biết "định", dù thời gian
chiến đóng có ngắn và gián đoạn nhưng không phải là không
có cơ hội tổ chức quản lý lãnh thổ. Phàm lòng dân không
theo thì dù lực lượng quân sự có mạnh đến đâu cũng giống
như cây tầm gửi, rể không bén đất thì làm sao tính kế
lâu dài cho được. Nên cứ mỗi lần quân Tây Sơn chủ lực
rút về Quy Nhơn, Nguyễn vương mộ binh khôi phục thì dân
chúng miền Nam vẫn còn nhớ ơn chúa cũ bèn "xứ xứ tịnh
khởi".
Tháng 7 năm Đinh
Mùi (1787), Nguyễn vương từ Xiêm La trở về, thu phục một
số hàng tướng Tây Sơn như Nguyễn văn Trương, Nguyễn Đăng
Vân và tập hợp được một số quân tướng cũ, lực lượng
lại mạnh lên. Từ Long Xuyên, chúa Nguyễn tiến lên đóng
ở Ba Giồng (Tiền Giang ngày nay), lại được Võ Tánh đem
quân ở Gò Công về giúp, quân Nguyễn dùng hỏa công phá tan
lũy Ngũ Kiều của Tây Sơn, thừa thắng tiến lên chiếm lại
đất Đồng Nai, vây chặt thành Gia Định. Tháng bảy năm Mậu
Thân 1788, Nguyễn vương đánh thắng một trận lớn ở rạch
Thị Nghè (Bến Nghé), lại bịt kín đường thoát ra biển
khiến Phạm văn Tham (Sâm) phải rút về Hàm Luông rồi về
Ba Thắc. Tháng tám năm đó, chúa Nguyễn nhập thành Gia Định,
chiêu an trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho các
tướng sĩ. Qua năm sau 1789, Phạm văn Tham đầu hàng vì tuyệt
lương mà không thấy viện binh. Tây Sơn mất toàn bộ đất
Gia Định. Quân Nguyễn từ đây chuyển dần từ thế thủ
sang thế công còn quân Tây Sơn thì ngược lại.
g/. Nhà Tây Sơn
tự gây ra họa diệt vong :
Là người dân Việt,
hầu như không ai là không biết đến chiến thắng Đống Đa
oanh liệt, một chiến thắng chống ngoại xâm giúp giữ vững
chủ quyền lãnh thổ, ngăn ngừa âm mưu đưa đất nước vào
vòng Bắc thuộc một lần nữa của những kẻ đặt quyền
lợi cá nhân, sự tồn tại của giòng tộc cao hơn sự thiêng
liêng của độc lập dân tộc. Chiến thắng của hoàng đế
Quang Trung đã đem lại chính danh cho vương triều mới, đẩy
triều đại Lê Trịnh mục ruỗng lùi vào quá khứ và thu phục
được lòng dân xứ Bắc. Tiếc thay, cái chết đột ngột
của người anh hùng áo vải đuổi Nguyễn, diệt Lê , tuyệt
Trịnh, đánh tan hai đạo binh xâm lược ở hai đầu đất
nước xảy ra quá sớm đã khiến cho vương triều Tây Sơn
sớm lụi tàn vì không có người kế thừa xứng đáng.
Thiếu người cầm
chịch, các quan đại thần ghen ghét tìm cách vu cáo hãm hại
lẫn nhau khiến sức mạnh Tây Sơn bị suy yếu đi. Thái sư
Bùi Đắc Tuyên giẫm lên vết xe đổ của Trương Phúc Loan
năm nào: tự chuyên lộng quyền, truy bức công thần, hiếp
chế ấu chúa, tham lam tư lợi. Năm 1795, Vũ Văn Dũng nghe theo
lời xúi giục của Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ đem quân từ
Bắc Hà về bắt giết Bùi Đắc Tuyên và con là Bùi Đắc
Trụ. Sau đó lại cho bắt Đại tư mã Ngô văn Sở về Phú
Xuân, dìm nước chết đi. Nghe tin, Trần Quang Diệu đem quân
từ Diên Khánh về toan bắt Dũng hỏi tội. Nhờ Quang Toản
và các tướng hết sức can ngăn, cả hai mới chịu giải hòa.
Năm 1798 Quang Toản nghe theo lời xúi giục của bọn cận thần
giết chết Thiếu phó Nguyễn văn Huấn và Đại tư lệ Lê
Trung, con Trung là Lê Chất bèn về hàng chúa Nguyễn. Từ đấy
quá trình suy sụp của Tây Sơn diễn ra nhanh chóng vô phương
cứu vãn. Lịch sử đất nước rẽ sang một chương khác.
h/. Vua Gia Long
thống nhất đất nước :
Tháng năm năm Kỷ
Mùi (1799), Nguyễn vương đem quân ra vây thành Quy Nhơn. Trấn
thủ Lê Văn Thanh chống giữ không nổi phải mở cửa thành
đầu hàng. Quy Nhơn bị đổi tên thành Bình Định. Tháng giêng
năm Tân Dậu (1801) quân Nguyễn đánh thắng một trận thủy
chiến lớn ở cửa Thị Nại, tiêu diệt gần hết tàu thuyền
chủ lực của Tây Sơn, từ đó làm chủ mặt bể. Ba tháng
sau, quân Nguyễn lại thắng trận thủy chiến ở cửa Thuận
An, tiến lên vây đánh thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn Quang Toản
bỏ chạy, chúa Nguyễn thu phục lại được đô thành sau 27
năm bị chiếm đóng. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm
Tân Dậu (1801).
Tháng giêng năm
Nhâm Tuất (1802), vua Tây Sơn đem quân 4 trấn Bắc Hà và quân
Thanh Nghệ vào đánh lũy Trấn Ninh, lại sai tướng đem 100
chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ (Quảng Bình ngày nay).
Bị thủy quân của chúa Nguyễn đánh bại, quân Tây Sơn phải
rút lên bộ rồi bỏ Trấn Ninh chạy về Nghệ An. Đây cũng
là cố gắng tận lực cuối cùng của vua tôi Quang Toản trước
lúc triều Tây Sơn cáo chung. Tháng năm năm Nhâm Tuất, Nguyễn
vương lên ngôi tôn tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long
nguyên niên. Tháng sáu, quân Nguyễn triều Bắc tiến, thế
như chẻ tre, nội trong một tháng đánh lấy Thanh Nghệ rồi
tràn ra Thăng Long, tướng Tây Sơn là Nguyễn văn Thọ mở cửa
thành ra hàng, vua Gia Long nhập thành chiêu an, đổi tên Thăng
Long thành Bắc thành. Tháng bảy cùng năm, vua Gia Long trở về
kinh đô Phú Xuân, mở đầu giai đoạn thống nhất đất nước
từ Nam tới Bắc, thu giang sơn về một mối.
Nhận xét về sự
kiện này, nhà nghiên cứu lịch sử Đỗ Bang đã viết trong
tham luận "Triều Nguyễn-sau 200 năm nhìn lại" (24),
xin trích dẫn một đoạn : "...Một số ý kiến cho rằng
triều Nguyễn là phản động vì đã đánh bại triều Tây
Sơn, một triều đại có những cống hiến to lớn trong lịch
sử chống ngoại xâm của dân tộc, lật đổ được chế
độ phong kiến cát cứ Đàng Trong-Đàng Ngoài cũng không đúng.
Vì những yếu tố tích cực, tiến bộ của phong trào Tây
Sơn mà nhân dân ta đã giành được dưới thời Nguyễn Huệ
đã không còn phát huy sau ngày vua Quang Trung mất (1792). Triều
đại Tây Sơn dưới thời vua Cảnh Thịnh đã thoái hóa, biến
chất, suy đồi dẫn đến mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn
xã hội vô cùng gay gắt, là nguyên nhân dẫn đến thất bại
trước áp lực quân sự của Nguyễn Ánh. Vương triều Tây
Sơn đã làm mất lòng dân, không được nhân dân đồng tình
ủng hộ nên quân Nguyễn thắng Tây Sơn là việc thường tình
và dễ hiểu...".
Như vậy kể từ
năm 1527 đến năm 1802 là 275 năm chia cắt, đất nước mới
trở lại thống nhất. Năm 1527, lãnh thổ phía nam Đại Việt
chỉ đến núi Đá Bia (Phú Yên). Nếu tính từ đời chúa Nguyễn
Hoàng (1558) đến đời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1765),
trải 8 đời chúa trong 207 năm đã mở rộng cương vực Đại
Việt lớn gấp đôi; trong lúc đó ở phía Bắc, năm 1540, Mạc
Đăng Dung đã cắt đất 4 động châu Vạn Ninh (Quảng Ninh
ngày nay) dâng cho triều Minh để cầu phong. Công lao to lớn
của các chúa Nguyễn trong sự nghiệp mở rộng đất nước,
cũng như công lao thống nhất, quy giang sơn về một mối của
vua Gia Long cho dân Việt yên nghiệp làm ăn, đem lại một cuộc
sống thái bình cho lê dân sĩ thứ sau gần ba trăm năm loạn
lạc là một sự thật không thể chối cãi. |
Ghi chú :
13.
Truyền thuyết dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện Trịnh Kiểm
vấn kế Nguyễn Bỉnh Khiêm về việc có nên soán ngôi nhà
Lê hay không ? Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không trả lời thẳng
mà chỉ ngoảng mặt bảo đầy tớ rằng: năm nay mất mùa,
thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo
mạ. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa
và đốt hương để ông ra chơi chùa, lại bảo tiểu rằng
: Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản. Nghe sứ giả về thuật
lại, Trịnh Kiểm hiểu ý nên tìm người trong hoàng tộc họ
Lê để tôn lên làm vua, chấp nhận thân phận "dưới một
người trên vạn người". Sự thực tấm gương họ Mạc còn
sờ sờ ra đó khiến Trịnh Kiểm phải chờn lòng, hơn nữa
lòng dân vẫn còn luyến nhớ công đức Thái Tổ, Thánh Tông
không dễ quên nên dù gì thì tôn phù chính thống vẫn hay
hơn là thay cũ đổi mới. Trong Nam thì Nguyễn Hoàng dần trở
thành một lực đối trọng họ Trịnh, ngoài Bắc thì dư đảng
họ Mạc vẫn còn nhiều ở hai trấn Kinh Bắc, Hải Dương,
lại thêm Minh triều vẫn có ý bênh họ Mạc, chưa công nhận
triều Lê trung hưng. Nên Trịnh Kiểm đã khôn ngoan tạm chấp
nhận "lùi một bước, trời cao biển rộng" chứ chưa chắc
là vì nghe theo lời khuyên của Trạng Trình.
14.
Nhiều
người vẫn bảo lưu ý kiến cho rằng lãnh tụ phong trào Tây
Sơn thuộc giai cấp nông dân. Thực ra xuất thân của Nguyễn
Nhạc là lái buôn, nối nghiệp ông nội là Hồ Phi Tiễn và
cha là Hồ Phi Phúc. Ba đời đi buôn, gia tư khá giả nên trong
nhà lúc nào cũng có nhiều môn khách và gia sư. Trước khởi
nghĩa (1771), Nguyễn Nhạc là một hào mục địa phương. Theo
giáo sư Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử lược, Nguyễn
Nhạc phạm tội tiêu lạm công quỹ, một tội bị hình luật
triều Nguyễn xử phạt rất nặng nên cũng giống như Lưu
Bang nhà Hán, Biện Nhạc không còn đường lùi đành đánh
cược với số phận. Nhưng cũng có ý kiến nói Nguyễn Nhạc
không nộp thuế không phải vì thua bạc mà vì muốn tỏ thái
độ chống đối chính quyền. ( Tạ Chí Đại Trường, sách
đã dẫn, trang 47)
15.
Cả
hai vị chúa Nguyễn là Định vương và Tân Chính vương đều
bị Nguyễn Huệ bắt sống đem về chùa Kim Chương (Gia Định)
hành quyết năm 1777. Định vương mất ngày 18 tháng 9 năm Đinh
Dậu (18.10.1777), Tân Chính Dương mất ngày 17 tháng 8 cùng năm
(18.9.1777). Chùa Kim Chương hiện nay không còn, vị trí chùa
trước kia ở vào khoảng giữa đường Nguyễn Trãi thuộc
quận 1 Sài Gòn, khu đất thuộc Tổng Nha Cảnh Sát cũ, thời
Pháp gọi là Gò Ô Ma.
16.
Lối
hành quân thần tốc và chiến thuật tốc chiến tốc thắng
của vua Quang Trung khiến kẻ địch hầu như tê liệt, không
có cơ hội để phản công. Kỷ luật quân Tây Sơn rất nghiêm,
nên dù đối phương đã mất hết ý chí chiến đấu nhưng
sức tiến công vẫn không giảm. Đời sau có người phê phán
là quân Tây Sơn "hiếu sát", điều đó tuy đúng nhưng phàm
đã ra trận đối địch thì luôn luôn mục tiêu chiến thắng
được đưa lên hàng đầu, đó là lẽ đương nhiên. Điển
hình là các trận đánh : thủy chiến Cần Giờ 1783, đại
chiến Phú Xuân 1786 và nhất là trận Đầm Mực – Ngọc Hồi
1789.
17.
Cuộc
chiến giữa hai anh em Tây Sơn xảy ra từ tháng 2.1787 đến
tháng 7.1787. Trong lúc này, vua Lê và Nguyễn Hữu Chỉnh cử
mưu sĩ Trần Công Xán vào Nam yết kiến Nguyễn Huệ đòi lại
đất Nghệ An. Sợ lộ việc anh em bất hòa, Nguyễn Huệ cho
đục thuyền, dìm nước giết chết Trần Công Xán và từ
đó đã có ý diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.
18.
Nhân
vật Đặng Văn Chân này sẽ xuất hiện trong lịch sử một
lần nữa vào năm 1788, khi ấy là bộ tướng của Ngô Văn
Sở, lãnh đạo thủy binh triệt thoái từ Thăng Long về Tam
Điệp ( Ninh Bình) chờ cứu viện.
19.
Toàn
bộ vàng bạc và các vật dụng quý giá thu được trong trận
đánh chiếm Phú Xuân năm 1774, Hoàng Ngũ Phúc đều cho tải
về Bắc giao nộp Trịnh Sâm. Mười hai năm sau (1786), vật
hoàn cố hương nhưng lần này là trong tay Tây Sơn. Mười lăm
năm sau nữa (1801), họ Nguyễn lấy lại Phú Xuân thì vật
mới về tay chủ. Câu chuyện sủng phi Thị Huệ làm mình làm
mẩy với Trịnh Sâm, quăng hạt ngọc dạ quang trên đầu khăn
của chúa Trịnh xuống đất là có nguồn gốc từ số chiến
lợi phẩm này.
20.
Mùa
Đông năm Đinh Mùi (1787), Thăng Long mất vào tay quân Tây Sơn,
Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết chết, vua Lê bỏ kinh đô bôn
tẩu. Xứ Bắc Hà chính thức do Tây Sơn cai quản. Khi ấy tại
miền Nam, chúa Nguyễn đã về đóng quân tại Long Xuyên kể
từ tháng 7 , binh thế ngày càng mạnh. Như vậy về danh nghĩa
thì từ tháng 11 năm Đinh Mùi (1787) đến tháng 8 năm Mậu Thân(1788)
cả nước Việt Nam đều thuộc về ba anh em Tây Sơn nhưng
trên thực tế chưa bao giờ Tây Sơn thực sự thống nhất
cai quản toàn bộ đất nước. Tháng 8 năm Mậu Thân 1788, khi
chúa Nguyễn nhập thành Gia Định, chế độ Tây Sơn tại miền
Nam chính thức cáo chung.
21.
Nguyễn
Huệ không dám mang đại quân ra Bắc vì vẫn còn e dè, đề
phòng lực lượng Tây Sơn Quy Nhơn tiến đánh sau lưng. Ông
cũng không dám ở lâu trên đất Bắc, sau khi giết Nhậm bèn
cải tổ sắp xếp lại hệ thống quan chức cai trị các trấn
rồi gấp rút về Nam. Năm 1792 khi ông mất, Nguyễn Nhạc dẫn
đoàn tùy tùng ra viếng nhưng đến đầu địa giới thì bị
các tướng Tây Sơn Thuận Hóa cản lại phải trở về. Năm
Quý Sửu 1793, Quy Nhơn bị quân chúa Nguyễn vây đánh rát quá,
liệu thế chống không nổi, Nguyễn Nhạc xin Quang Toản đem
quân Thuận Hóa vào cứu viện. Giải vây xong, Quang Toản chiếm
luôn đất Quy Nhơn của vua bác khiến Nguyễn Nhạc tức giận,
lâm bệnh nặng và từ trần. Quang Toản giài tán triều đình
trung ương ở Quy Nhơn, chỉ cho duy trì "tiểu triều" Nguyễn
Bảo (con Nguyễn Nhạc), ăn lộc huyện Phù Ly. Năm Mậu Ngọ
1798, Nguyễn Bảo bất mãn, đem quân chiếm lại thành Quy Nhơn
và có ý đầu hàng chúa Nguyễn. Âm mưu bị lộ, Bảo bị
Quang Toản bức tử.
22.
Lê
Công Lý, Dấu ấn của chúa Nguyễn trên đất Ba Giồng,
kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, sđd,
trang 121.
23.
Nguyễn
Hữu Hiếu, Tiếp cận những yếu tố giúp Nguyễn Ánh thành
công trong việc xây dựng vương triều Nguyễn, kỷ yếu
Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, sđd, trang 82
24.
Đỗ
Bang, Triều Nguyễn – Sau 200 năm nhìn lại, kỷ yếu
Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn,sđd, trang 52 |
3.
THỬ TÌM NGUYÊN DO CỦA NHỮNG ĐỊNH KIẾN CAY NGHIỆT : |
a/.
Vì
sao Thăng Long trở thành phế đô :
Thăng Long ngàn năm
văn hiến, với vai trò vị trí là kinh đô của nước Đại
Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18, niềm tự hào của
sĩ phu và dân chúng Bắc Hà, sự thực đã chấm dứt vai trò
lịch sử từ năm 1788 dưới triều Tây Sơn chứ không phải
năm 1802 dưới thời Gia Long, vị vua mở đầu triều Nguyễn
như nhiều người lầm tưởng. Năm 1786, họ Trịnh thất bại
trong việc khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi
kinh thành, Lê Chiêu Thống ngầm cho người đốt phủ chúa
đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy trong mười
ngày liền, làm mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của
Thăng Long - Hà Nội. Điều này được sách Hoàng Lê nhất
thống chí chép như sau: " ...Sớm hôm sau, hoàng thượng mới
biết là Án Đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm
sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói
lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt.
.Thế
là hai trăm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành
bãi đất cháy đen. Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương
chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8
tháng chạp năm Bính Ngọ (1786)..."(25).
Như vậy đã rõ, chính Lê Chiêu Thống là kẻ đã ra lịnh
hủy hoại công trình kiến trúc có giá trị vào loại bậc
nhất của Thăng Long chứ không phải Nguyễn Hữu Chỉnh làm
chuyện này như nhiều sách đã viết (26).
Năm sau 1787, Vũ
Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Chiêu Thống
bỏ kinh đô bôn tẩu và Thái hậu chạy sang Quảng Tây cầu
viện nhà Thanh (27).
Xứ Bắc Hà trở thành một phần lãnh thổ của Tây Sơn và
kể từ đây Thăng Long không còn là kinh đô nữa. Năm 1788,
Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Quang Trung tại kinh đô Phú
Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt 29 vạn quân Thanh. Mười
ba năm sau (1802), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế cũng tại
kinh đô Phú Xuân trước khi Bắc tiến tiêu diệt bọn Quang
Toản, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Như
vậy chỉ trong một thời gian ngắn, kinh đô Phú Xuân hai lần
chứng kiến hai cuộc lên ngôi chính danh của hai vị hoàng
đế trước khi Bắc phạt , một để đánh đuổi quân xâm
lược ngoại bang, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc,
một chấm dứt cuộc nội chiến, thu giang san về một mối.
Trong cả hai lần , Thăng Long đều đóng vai trò chứng nhân
lịch sử một cách thụ động.
Có thể nói Thăng
Long trở thành phế đô là một tất yếu của lịch sử, do
sự tác động chính từ bên trong (sự mục ruỗng thối nát
của chế độ Lê-Trịnh) chứ không phải do một thế lực
bên ngoài nào, Tây Sơn chỉ đóng vai trò là người kết thúc
mà thôi. Nếu không phải là Tây Sơn thì cũng là một lực
lượng khác từ phía Nam hoặc từ phía Bắc tiến vào xóa
sổ nhà Lê mạt như lời của Vũ Văn Nhậm (28).
Ai ở trong cảnh nước mất nhà tan thì mới hiểu cho nổi
niềm của kẻ nhà tan nước mất, chúng ta hết sức thương
cảm cho tấm lòng trung trinh hoài Lê của Nguyễn Du và Bà Huyện
Thanh Quan nhưng xâu chuổi các sự kiện lại thì Thăng Long
sụp đổ là một biến cố rất logic (!) bởi vượng khí đã
lụi tàn. Lòng riêng ai đó có thể vì nuối tiếc mà sinh lòng
oán ghét cái mới nhưng nếu bình tâm xem xét thì Thăng Long
lúc ấy thua xa Phú Xuân và Gia Định về mọi mặt : kinh tế
suy thoái, trật tự suy đốn, đạo lý lụi tàn, dép mũ đảo
lộn. Điển hình là việc viên trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn
Cảnh Thước trấn lột cả vua Lê Chiêu Thống thế cô đang
trên đường bôn tẩu " ...Vua cho Thước tất cả. Thước
liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua cùng
đám người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại
cho người đuổi theo lột chiếc áo ngự bào vua đang mặc.
Vua ứa nước mắt cởi áo ngự bào trao cho chúng, rồi chạy
về núi Như Thiết"(29).
Thật khác với vua Gia Long, dù bao phen bị Tây Sơn truy đuổi
gay gắt thập tử nhứt sinh nhưng đều vượt qua được nhờ
sự chở che của người dân miền Nam. Hoặc trường hợp tên
tiểu lại làng Hạ Lôi Nguyễn Trang phản thầy bán chúa: "
Quán nghe tin có việc biến (chúa bị bắt-KH), thân hành đến
tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói : Làm lầm chúa
đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả. Tông đáp : người
ta ai có bụng nấy, khanh có can dự gì. Quán lui trở vào, bảo
Trang : Chúa là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy
anh.Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế . Trang đáp
: Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân
mình, tôi không để cho quan lớn làm cho lầm lỡ đâu. Tiếp
đó Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu
chúa về kinh đô"(30).
Về mặt võ bị,
hãy nghe những lời giễu cợt của tướng Tây Sơn Ngô Văn
Sở, "trưởng ban quân quản" Bắc thành nói với viên quan cựu
Lê lưu dụng là Ngô Thời Nhậm " ...nếu giặc Thanh có sang
thì phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc, nếu không
thì túi đao bao kiếm là phận sự của kẻ võ thần, can gì
phải quá lo ..."(31)
hoặc những lời khích tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh khi khuyên
Nguyễn Huệ thừa thắng tiến ra đánh lấy Bắc Hà "xứ ấy
không còn nhân tài" mặc dù hơi miệt thị nhưng cũng có phần
sự thật như sau này lịch sử đã chứng minh (32).
Qua đó, chúng ta thấy Thăng Long không tự bảo vệ được
mình, các đạo quân chiếm đóng lần lượt đến rồi đi
như quân Tây Sơn của Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ
(1786), quân Nghệ An của Nguyễn Hữu Chỉnh (1787), quân Tây
Sơn của Vũ Văn Nhậm (1787), quân Thanh xâm lược của Tôn
Sĩ Nghị (1788), quân Tây Sơn của vua Quang Trung (1789) rồi sau
này là quân Nguyễn của vua Gia Long (1802) thay nhau vào ra Thăng
Long như chốn không người, một phần bởi địa hình công
dễ thủ khó nhưng phần lớn do tướng bất tài, quân bê trễ,
triều đình không còn kỷ cương.
Xâu chuổi các biến
cố lịch sử có ảnh hưởng đến đại cục đất nước
qua ba thế kỷ thứ 16, 17 và 18, ta thấy luôn luôn xảy ra ở
phương Nam, là xuất phát điểm cho những mầm mống mới :
Lê trung hưng (1533), Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa(1558), Tây Sơn
khởi nghĩa (1771), chúa Nguyễn xưng vương (1780), Quang Trung
xưng đế (1788) và cuối cùng là vua Gia Long lên ngôi (1802).Thuở
sinh tiền, vua Quang Trung đã chọn Nghệ An làm kinh đô vì đó
là trung tâm của đất nước do ông cai quản (từ Quảng Nam
đến Lạng Sơn) chứ cũng không chọn Thăng Long. Tiếc thay,
vận số quá ngắn ngủi của người anh hùng Tây Sơn khiến
dự định không thành. Hãy nghe lời trối trăng của vua Quang
Trung cho bọn Trần Quang Diệu : "...khi ta chết rồi, nội
trong một tháng phải lo chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi.
Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh
Đô để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo
đến thì bọn ngươi chết không có đất chôn thây đấy .."(33).
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường lý giải việc tại sao
Quang Toản không thiên đô như di mệnh của vua Quang Trung như
sau :
" Tính chông chênh
của nhóm Tây Sơn Quang Trung thấy đầu tiên ở nơi vị trí
trú đóng. Nòng cốt của quân lực thì lấy ở đất Quy Nhơn
mà lại đứng chân trên kinh đô của giòng họ Nguyễn. Người
cầm đầu cũng thấy điều ấy nên lăm le trở về Nghệ An,
quê của tổ tông để tìm sự liên kết cố cựu. Tuy nhiên
thực tế đất ấy lại không còn là của họ nữa vì những
người dân đang phải chịu tai ách của chiến tranh hơn cả
lúc trước, như lời Nguyễn Thiếp trình bày, thì không có
lòng dạ nào nhận bà con với người áp bức họ được.
Quang Toản sau đó vẫn ở Phú Xuân là minh chứng".(34)
Sau ngày thống nhất
đất nước, vua Gia Long cũng không chọn Thăng Long làm kinh
đô vì nơi ấy không còn là trung tâm Đại Việt nữa. Các
chúa Nguyễn đã mỡ cõi rất xa về phía Nam suốt hai thế
kỷ (1611-1760), đến tận Phú Quốc và Côn Đảo. Định đô
ở Phú Xuân là một quyết định sáng suốt, phù hợp với
tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Nhà Thanh sau đó đã phong
cho Gia Long làm vua nước Việt Nam, Thăng Long trở thành Bắc
thành, ngang với Gia Định thành. Huế tiếp tục là kinh đô
cho đến khi thực dân Pháp chia ba đất nước bằng hòa ước
Giáp Thân 1884 (Hòa ước Patenôtre). Tóm lại , "hào khí Thăng
Long" trải qua các đời Lý, Trần, Lê đến cuối thế kỷ
XVIII đã lụi tàn, cùng với việc ra đời của vương triều
Nguyễn, kinh thành Huế (Phú Xuân) trở thành trung tâm đất
nước về mọi mặt hành chính, kinh tế, văn hóa, quân sự
là một sự thay đổi hợp quy luật biến đổi thịnh suy của
vạn vật. Không có gì lạ! Hoàn toàn không phải vì "...
khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không
dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế...", như
lời nhận xét hàm hồ của một số người.
b/. Thành kiến
cục bộ địa phương và quan điểm chính trị của giới Sử
học Hà Nội dẫn đến những nhận xét bất công, áp đặt,
cực đoan đối với nhà Nguyễn :
" ...sự thắng
thế của Nguyễn Ánh trước Tây Sơn có thể coi là sự thắng
thế của những nhân tố bảo thủ lạc hậu đối với những
yếu tố tiến bộ..." (Nguyễn Ngọc Cơ, "Một giai đoạn
của lịch sử Việt Nam thời Nguyễn và những câu hỏi cần
giải đáp thỏa đáng", Lịch sử nhà Nguyễn, sđd, trang 14).
" ...cái thống
nhất của Gia Long nhờ cắt đất dâng cho thực dân mà có
được đã gây mầm chia cắt đất nước ..." (Văn Tạo,
"Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc", Lịch sử nhà Nguyễn,
sđd, trang 27)
" ...một số
người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở miền Nam thời
Mỹ-ngụy đã ra sức ca tụng Nguyễn Ánh có công thống nhất
đất nước từ Nam ra Bắc. Luận điểm này nhằm thực hiện
âm mưu của chính quyền Sài Gòn chủ trương "lấp sông Bến
Hải", " Bắc tiến". Ca tụng Gia Long, phê phán Tây Sơn là "Ngụy
triều", họ đã biện hộ cho việc chia cắt đất nước, tìm
mọi cách kéo dài "biên giới Hoa Kỳ" không chỉ đến vĩ tuyến
17 mà đến Mục Nam Quan, phục vụ âm mưu chiến lược của
Mỹ dùng Việt Nam làm bàn đạp tấn công Trung Quốc ‘cộng
sản", hòng xóa bỏ hệ thống chủ nghĩa thế giới ...".(Phan
Ngọc Liên, " Một số yêu cầu về phương pháp luận đối
với việc dạy học lịch sử thời nhà Nguyễn", Lịch sử
nhà Nguyễn, sđd, trang 59)
Thứ nhất, Nguyễn
Ngọc Cơ đã nhầm lẫn hoặc cố ý nhầm lẫn khi ông đánh
tráo khái niệm bảo thủ lạc hậu và tiến bộ giữa hai chủ
thể Tây Sơn và Gia Long. Những năm cuối thế kỷ 18, vương
triều Tây Sơn đã không còn ánh hào quang buổi đầu : lộng
thần Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, áp chế ấu chúa, vua Quang
Toản ích kỷ nhỏ nhen, đa nghi đố kỵ, giết người bừa
bãi, tàn sát công thần, mù quáng nghe lời nịnh thần dẫn
đến nội loạn, trong triều thì rối ren, ngoài biên cương
thì quân tướng hoang mang. Nguyễn Thiếp xin từ chức về trí
sĩ; Nguyễn Bảo, Lê Chất về hàng Nam triều, Trần Quang Diệu
và Võ Văn Dũng mang quân về kinh chực đánh nhau. Thật khác
xa với tính chất phong trào nông dân khi khởi xướng " cướp
của nhà giàu chia cho dân nghèo". Người dân hai miền Nam Bắc
trông mong gì ở "yếu tố tiến bộ" ấy ? Trong khi lực lượng
Nguyễn Vương mỗi ngày một lớn lên, thu phục được nhân
tâm cả nước, trong một tháng lấy trọn cả một vùng đất
vua Lê cũ. Một đạo quân nếu không có chính nghĩa sao làm
được như vậy ? Sau ngày thống nhất đất nước, Việt Nam
trở thành một quốc gia giàu mạnh, khống chế lân bang, trở
thành lực đối trọng với Xiêm La trong vùng Đông Nam Á. Đó
là một "nhân tố bảo thủ lạc hậu" ư ? Thực ra, từ thế
kỷ 19 trở về trước, khi một "lực lượng sản xuất" phá
vỡ "quan hệ sản xuất" thì lại tạo ra một "quan hệ sản
xuất" mới theo mô hình cũ. Các lãnh tụ nông dân khi giành
được chính quyền từ các vua chúa cũ thì lại ...lên làm
vua, thành lập một triều đại phong kiến mới, chứ không
hình thành nên một chủ nghĩa gì cả vì khi ấy ngài Các Mác
hãy còn ở truồng nằm nôi. Nhìn một cách khách quan, việc
nhà Tây Sơn Quan Toản suy yếu mọi mặt sụp đổ là có nguyên
nhân từ bên trong, và trong hoàn cảnh đó vua Gia Long chấm
dứt nội chiến, thống nhất đất nước, Đại Việt vững
mạnh lên thì không thể nói đó là một "nhân tố bảo thủ
lạc hậu" được.
Thứ hai, vua Gia
Long hoàn toàn không có cắt đất liền hay biển đảo nào
cho ngoại bang (sic!). Hiệp ước Versailles ( 28-11-1787) có các
điều khoản nhượng cảng Hội An ( Đà Nẳng) và Côn Đảo
cho Pháp để đổi lấy sự viện trợ về mặt quân sự của
Pháp. Việt Nam Sử lược [Cận kim thời đại, Nhà Nguyễn,
Chương I, Thế Tổ (1802-1819)] viết về sự kiện này như
sau: "Năm 1817, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp
vào cửa Đà Nẳng. Quan thuyền trưởng là Bá tước De Kergarion
nói rằng Pháp hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều
ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa
Đà Nẳng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời
rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi
hành thì nay bỏ, không nói đến nữa".
Thứ ba, việc chia
cắt đất nước năm 1954 là một vết đen trong lịch sử Việt
Nam, thể hiện mối tương quan và cân bằng quyền lực của
các xu thế chính trị trên thế giới mà đạo diễn là các
nước lớn, còn vận mệnh của các nước nhỏ chỉ là quân
tốt trên bàn cờ. Một điều rất rõ ràng, dễ hiểu mà lâu
nay mọi người quên khuấy mất là hãy xem lại trong các thư
tịch, về phía Việt Nam, ai là người đã ký kết vào các
văn kiện chia cắt tủi hổ ấy. Càng lạ hơn với luận điểm
miền Nam muốn "lấp sông Bến Hải", "Bắc tiến" bằng bạo
lực và "tấn công" Trung quốc cộng sản, xóa bỏ hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới. Vương triều Nguyễn có thể
không phải là một vương triều minh trị vua sáng tôi hiền,
chính thể miền Nam cũng chưa làm gì nhiều cho dân vì phải
lo đối phó với chiến tranh, nhưng đừng vì phải tuân thủ
quan điểm đường lối chính trị trong nghiên cứu, giảng
dạy hoặc vì mặc cảm thất thế của dân tràng an trong bối
cảnh lịch sử những năm cuối của thế kỷ 18 mà vẽ ra
những điều vô căn cứ, xa rời sự thực như vậy. Đạo
đức của người làm sử xưa nay đều không cho phép các quan
thái sử viết như vậy, nhất là các nhà mô phạm với thiên
chức truyền thụ kiến thức cho đời sau. Miền Nam là cái
nôi cho nhà Nguyễn trung hưng phục quốc, càng về phía nam
thì lòng dân ủng hộ càng nhiều, nhưng vẫn đề cao, ghi công
chống ngoại xâm cho vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Con
đường đẹp nhất Sài Gòn mang tên Nguyễn Huệ trong khi Gia
Long chỉ là một con đường nhánh khuất phía sau chợ Bến
Thành. Đồng tiền có giá trị cao nhất mang hình ảnh Trần
Hưng Đạo, kế đến là vua Quang Trung và cuối cùng là Lê
Văn Duyệt. Không có tiền giấy nào in hình vua Gia Long cả.
Một thái độ công bằng đối với lịch sử. Sự tri ân của
hậu thế đối với tiền nhân.
c/. Lấy "nay"
để phê phán "xưa", một lối biện chứng sai lầm từ trong
căn bản :
Tôi thiết tưởng
bất cứ ai trong số chúng ta, thuở cắp sách đến trường,
cũng đều quặn lòng khi đọc đến những trang đen tối trong
sử Việt cuối thế kỷ XIX : chế độ phong kiến lỗi thời
với những ông vua bảo thủ và quần thần mê muội khiến
đất nước suy yếu, dễ dàng rơi vào tay thực dân Pháp. Đó
là chiến thắng của khoa học kỹ thuật phương Tây trước
nền văn minh phương Đông đã bước vào giai đoạn suy tàn.
Làn sóng chiếm đất làm thuộc địa của các nước tư bản
phương Tây tràn vào châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng,
khiến hầu hết các nước đều chịu chung số phận : Indonesia
( thuộc địa của Bỉ và Hòa Lan), Ấn Độ, Mã Lai, Diến
Điện (Anh), Philippine (Tây Ban Nha), Macao (Bổ Đào Nha), Việt
Nam, Lào, Căm Bốt (Pháp)...chỉ trừ Thái Lan may mắn thoát
khỏi nhờ vị trí địa lý, làm trái độn giữa hai đế quốc.
Hầu như không một nước nào chống lại được sức mạnh
quân sự của phương Tây, do sự chênh lệch về hiệu năng
vũ khí quá lớn. Điển hình là Trung Hoa, một nước lớn làm
"mẫu mực" hàng ngàn năm cho các tiểu quốc trong vùng, bị
"bát quốc liên minh" đánh cho tơi tả. Trước khi phê phán
trách nhiệm để mất nước vào tay thực dân Pháp, chúng ta
hãy thử đặt mình vào vị thế của nhà Nguyễn lúc đó,
với những hạn chế khách quan về tương quan quân sự Đông
–Tây lúc đó. Những hạn chế tác động đến đại cục.
Dĩ nhiên không thể lấy đó để biện minh cho trách nhiệm
của nhà Nguyễn trước lịch sử. Nhưng cũng không thể vì
thành kiến mà đổ vấy hết tội cho triều Nguyễn, mà phải
xét thấu đáo đến những yếu tố khách quan, chủ quan lúc
đó. Đứng ở thế kỷ 21 nhìn về hơn trăm năm trước, dùng
thế giới quan hiện đại mà phê phán nặng lời tiền nhân
thì dễ, nhưng nếu tự đặt mình vào hoàn cảnh đó, hoặc
nhìn lại mình hôm nay, có thấy khá hơn chăng ? Thậm chí những
thành tựu trong cải cách kinh tế - xã hội và hành chánh đều
bị xuyên tạc, suy diễn theo hướng có tội, kiểu như "
Mỹ xây xa lộ Biên Hòa là để cho máy bay ...đáp" trước
đây, thử điểm lại một vài ý kiến :
-
"...cải cách hành
chính của vua Minh Mệnh càng thành công trong việc củng cố
vương triều Nguyễn bao nhiêu, lại là củng cố cái trì trệ,
bảo thủ, lạc hậu của phong kiến Nguyễn, phong kiến Tống
Nho sao chép Mãn Thanh đang suy tàn bấy nhiêu. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự bất lực, đầu hàng
của triều Nguyễn trước cuộc xâm lăng của đế quốc thực
dân.... (35).
Thực ra, cuộc cải cách hành chánh của vua Minh Mệnh đã củng
cố bộ máy nhà nước theo hướng trung ương tập quyền, tránh
được tình trạng phân phong cát cứ vốn là cố tật của
các chế độ phong kiến. Bãi bỏ Bắc thành và Gia Định thành,
lãnh thổ Đại Nam (gần trùng khớp với lãnh thổ Viêt Nam
ngày nay ) được chia làm 30 tỉnh (trừ phủ Thừa Thiên) ,
trực thuộc triều đình, dưới tỉnh là phủ, huyện và xã.
Đây là một cuộc cải cách với quy mô lớn, tăng cường
tính pháp trị của nhà nước phong kiến thống nhất, củng
cố chế độ giám sát toàn bộ nền hành chính quốc gia, là
một tiến bộ giúp xã hội ổn định sau nhiều thế kỷ loạn
lạc. Về đại thể mô hình này vẫn còn được áp dụng
cho đến ngày nay, dù trải qua nhiều cải biến như vai trò
của người đứng đầu đơn vị hành chánh xã (xã trưởng)
và thôn (lý trưởng) hoặc các Bộ trực thuộc trung ương
(Thượng thư, tham tri tức Bộ trưởng, thứ trưởng bây giờ)
.
-
"...Họ (lưu dân)
ra đi là để tỏ thái độ quyết chối bỏ chúa Nguyễn, nhưng
chạy trời không khỏi nắng, chúa Nguyễn đã đuổi theo họ,
lợi dụng họ như một con bài chính trị và xã hội trong
cuộc tranh giành ảnh hưởng ở phương nam. Nói khác hơn, giữa
chúa Nguyễn với lớp lưu dân Việt đến Thủy Chân Lạp trước
thế kỷ XVIII, tuy có cùng một địa chỉ tập kết nhưng mục
đích thì hoàn toàn khác nhau." (36).
Đây là một trường hợp xuyên tạc lịch sử trắng trợn,
điển hình cho lối tư duy chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
giáo điều, máy móc. Ít nhất trong thời kỳ của các chúa
Nguyễn, quan hệ giữa nhà nước và lưu dân không phải là
quan hệ giữa giai cấp bóc lột và lớp người bị bóc lột.
Thử xem lại một đoạn trong Gia Định thành thông chí
của Trịnh Hoài Đức, một Điền tuấn quan dưới thời chúa
Nguyễn: "...nghe theo ý muốn của dân, không bó buộc gì,
cốt cho mở đất vỡ hoang thành ruộng lập xã mà thôi, lại
có khi đất bùn lầy mà trưng làm ruộng nộp thuế, ruộng
ở núi và gò giồng mà trưng làm ruộng cỏ, như thế nhiều
lắm. Còn như sào mẫu khoảng thửa, thì tùy theo miệng nói
mà biên vào sổ, cũng không hạ thước đi khám và bổ chia
tốt xấu theo thực trạng về thuế lệ nhiều ít, cái hộc
đong lớn nhỏ, thì lại tùy theo lệ cũ, theo thế mà làm,
rất không đều nhau. Đến đây mới tham chước mà đặt tiêu
chuẩn công bằng, nhưng so sánh với các dinh trấn ở phía
bắc thì Gia Định pháp chế rộng mà thuế nhẹ...", " ...dân
ở vùng này đều có thể tự do đi khai khẩn đất ruộng
ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò,
ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ
cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp
chủ của khoảnh đất ấy, chính quyền cũng không đo đạc
lại xem diện tích là bao nhiêu, không cần biết đất ấy
tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản
mình chiếm rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít
và nộp thuế bằng thóc dùng hộc già hay hộc non đong cũng
được...".(Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Viện Sử học,Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1980). Hoặc theo Nguyễn
Phúc Nghiệp : "...Như vậy, đến cuối thế kỷ XVIII, nhờ
chính sách khẩn hoang và thiết lập bộ máy hành chính ở
cơ sở của chính quyền chúa Nguyễn, hệ thống thôn ấp ở
Tiền Giang đã được hình thành và đi vào ổn định. Điều
đó có tác dụng tích cực trong việc tiếp tục đẩy mạnh
tốc độ khai hoang và phát triển kinh tế-xã hội của Tiền
Giang nói riêng và Nam Bộ nói chung. Đồng thời, nó cũng chứng
tỏ rằng lưu dân đã được vào tổ chức chính thức, đã
được công nhận quyền lợi "chiếm đất" và phải có bổn
phận đóng thuế đinh thuế điền..." (37).
...nguyên nhân
quan trọng nhất - có thể nói là chủ yếu - làm cho các đề
nghị đổi mới thời đó thất bại là do thái độ bảo thủ,
phản động của vua quan triều đình, tuy có lúc do tình thế
thúc bách nên có chủ trương một vài đổi mới về các mặt
kinh tế, văn hóa, giáo dục...,nhưng về cơ bản thì trong tư
tưởng, cũng như trong cơ cấu chính trị vẫn không hể thay
đổi, nên không bảo đảm cho việc đổi mới được thực
hiện triệt để, trót lọt, thường là nữa chừng bị bỏ
dở..."(38)
Quả thật, đứng ở thế kỷ XXI nhìn về hai thế kỷ trước
để phê phán cải cách, đổi mới thời Nguyễn thất bại
vì lối tư duy "Đổi mới khoa học – kỹ thuật nhưng theo
định hướng... phong kiến" thì quá dễ, nhưng hình như
bài học này vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận ngày hôm
nay, với cục xương khó nuốt : " Đổi mới kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN"!
|
Ghi chú :
25.
Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, trang 187
26.
CBVNLQ, sđd, trang 181
27.
Khi ấy, tổ chức chính quyền và quân sự nhà Lê yếu ớt
đến nỗi quân Tây Sơn đi đến đâu là tan rã đến đó,
không thể tổ chức nổi một trận đánh cho ra hồn, còn bọn
quân tam phủ (kiêu binh), một thời làm mưa làm gió đất kinh
kỳ, chỉ nghe phong thanh chiêng trống thúc quân của Tây Sơn
là đã vứt giáo bỏ chạy.
28.
Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 285
29.
Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 271
30.
Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 105
31.
Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 335
32.
Hoàng Lê Nhất thống chí , sđd, trang 94
33.
Đại Nam Liệt truyện, sđd, trang 596
34.
Lịch sử nội chiến Việt Nam, sđd, trang 393
35.
Văn Tạo, Nhận thức mới về nhà Nguyễn trong lịch sử
dân tộc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương
triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, trang 663.
36.
Lý thị Mai, Đôi điều về một bối cảnh và một con người,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam, trang 125.
37.
Nguyễn Phúc Nghiệp, Sự hình thành thôn ấp ở Tiền Giang
dưới thời các vị chúa Nguyễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt
Nam, trang 148.
38.
Đinh Xuân Lâm, Trách nhiệm triều Nguyễn về sự thất bại
của xu hướng đổi mới ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam, trang 312. |
Ngày
nay một mặt thì "người ta" xuyên tạc, bóp méo sự thật,
đổi trắng thay đen khiến vương triều Nguyễn từ một vương
triều có công mở rộng và thống nhất đất nước thành
một "tập đoàn phong kiến phản động, tối phản động";
mặt khác thì lại cố công bôi son trét phấn cho Mạc Đăng
Dung, một kẻ quyền thần tiếm ngôi giết vua, hãm hại trung
thần; một kẻ cố kết bè cánh, bảo vệ địa vị bằng
mọi giá kể cả cắt đất dâng nộp cho ngoại bang; một kẻ
trói tay khom lưng quỳ gối trước quân tướng giặc phương
Bắc hết sức hèn hạ nhưng sau đó quay ra tích cực "nồi
da nấu thịt" khiến đất nước suy kiệt, nhân dân phiêu tán.
Thậm chí còn gọi hành động cắt đất, bán nước của Đăng
Dung là khôn khéo, mềm mỏng (?); một nguyên thủ quốc gia
quỳ gối trước tướng giặc là sự tính toán trong sách lược
ứng phó (!); bỏ quốc hiệu xin nội thuộc nước Tàu là một
việc làm tránh chiến tranh bảo vệ chủ quyền (!) (39).
Một trò ngụy tạo chữ nghĩa để tránh né sự thật, một
thủ thuật chơi chữ để biện minh cho hành động của những
kẻ cướp nước và bán nước trước lịch sử và hậu thế.
May mắn thay, Việt
Nam vẫn còn những nhà nghiên cứu độc lập tâm huyết với
lịch sử dựng nước và mở nước của cha ông, với những
nhận xét đánh giá công tâm về Vương triều Nguyễn : công
tội phân minh. Nếu chỉ chăm chắm nhìn vào những hạn chế
của nhà Nguyễn như cấm đạo hay chính sách bế quan tỏa
cảng hoặc thái độ bảo thủ cố chấp của vua Tự Đức
khiến Việt Nam mất đi cơ hội duy tân, nhất là trách nhiệm
của các vua triều Nguyễn trong việc để mất nước vào tay
thực dân Pháp, mà không nhìn thấy công lao của các chúa và
vua nhà Nguyễn trong sự nghiệp mở nước và thống nhất đất
nước là một thiếu sót rất lớn nếu không muốn nói là
bất công. Điều này hoàn toàn đi ngược lại truyền thống
"uống nước nhớ nguồn" của dân tộc Việt Nam.
Nhà văn Nam Bộ
Hoàng Lại Giang trong bài viết "Bi kịch của người anh hùng
đi mở cõi", đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 294 khi nhắc
đến vị anh hùng dân tộc Nguyễn Hoàng đã viết : " Tôi
nghĩ, chúng ta tôn kính các vua Hùng đã có công dựng nước
và dựng đền thờ ở thành phố Hồ Chí Minh là phải đạo.
Nhưng ai dám chắc đây là những vị vua huyền thoại hay sự
thực? Trong khi đó, các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi gấp đôi
như ngày nay là một sự thực lịch sử thì chúng ta lại ...quên
một cách có ý thức ).
Để kết thúc,
người viết xin trích một đoạn trong bài " Nguyễn Hoàng
và đất phương Nam" của tác giả Nguyên Hương Nguyễn
Cúc, nói lên tấm lòng tri ân của thế hệ hậu sinh đối
với bậc tiền nhân mở cõi : " ...tôi mơ ước có một
ngày được nhìn thấy tại cố đô Huế Đài kỷ niệm Công
chúa Huyền Trân, tại Quy Nhơn Đài Kỷ niệm vua Lê Thánh Tôn,
tại Tuy Hòa Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Hoàng, tại Nha Trang
Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Tần, tại Phan Rang, Phan Thiết,
Sài Gòn, Hà Tiên Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Chu, tại
Vĩnh Long Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Trú, tại Sa Đéc,
Châu Đốc, An Giang Đài Kỷ niệm chúa Nguyễn Phúc Khoát v.v...
thì tình quê hương nguồn cội, nghĩa dân tộc đồng bào sẽ
thắm thiết cảm động biết bao" ./. (40)
KIẾN
HÀO (9-2015)
Tài liệu tham khảo
:
-
Hoàng Lê Nhất thống
chí, Nhà xuất bản Văn học, 2006
-
Đại Nam thực lục,
Nhà xuất bản Giáo Dục, 2002
-
Đại Việt sử ký
toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học-Xã hội, 2004
-
Phủ Biên tạp lục,
NXB Khoa học, 1964
-
Việt Nam sử lược,
Trần Trọng Kim, NXB Tổng hợp TP HCM, 2005
-
Đại Nam liệt truyện,
NXB Thuận Hóa 2006
-
John Barrow, Một chuyến
du hành đến xứ Nam Hà, NXB Thế Giới, 2011
-
Lịch sử nội chiến
Việt Nam từ 1771-1802, Tạ Chí Đại Trường, Nhà xuất bản
Tri Thức, 2012
-
Lịch sử nhà Nguyễn-
một cách tiếp cận mới, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
Hà Nội, 2011
-
Hỏi đáp Lịch sử
Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2008
-
"Xứ Đàng Trong- Lịch
sử kinh tế và xã hội thế kỷ XVII và XVIII" của Li Tana,
NXB Trẻ 2013
-
Các bậc vĩ nhân lập
quốc trong lịch sử VN (CBVNLQ), NXB Lao Động, 2013
Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam – Nhà xuất bản Thế Giới – Hà Nội 2008
|
Ghi chú :
39.
Hỏi đáp Lịch sử Việt nam, sđd, trang 106
40.
CBVNLQ,sđd, trang 151 |
|