LTG. Bài này là tư liệu của tác giả trong
giáo trình cư trú nông thôn tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn
trước năm 1975
Năm
1957, sau khi đi thị sát miền rừng núi cao nguyên và vùng sình
lày bỏ hoang trên đồng bằng Cửu Long, Tổng Thống Diệm
quyết định hoạch định chính sách dinh điền để tiếp
tục công cuộc doanh điền (mở rộng thêm ruộng) và tiếp
tục chính sách đồn điền của triều Nguyễn.
Sắc lệnh số 103 TTP ngày 23 tháng 4 năm 1957
và nghị định số 1502 và 1503 TTP ngày 25 tháng 9 năm 1957 thiết
lập bốn vùng dinh điền cao nguyên trung phần, Đồng Tháp
Mười, Ba Xuyên và Cái Sắn. Chính sách dinh điền đươc nâng
lên hàng quốc sách được điều hành bởi Phủ Tổng Ủy
Dinh Điền, tiếp nối chính sách cư dân tỵ nạn sau hiệp
định Genève.
Mục đích
Ngày quốc khánh song thất (7-7-1958), trong thông
điệp gởi đồng bào, TT Diệm nói rõ mục đích chính sách
dinh điền: " Võ trang vật chất cho dân theo đúng chính sách
thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội. Chính phủ chủ trương
hữu sản hóa dân vô sản, trái với chủ trương của cộng
sản là vô sản hóa nhân dân. Chính phủ chủ trương mỗi
người dân được làm chủ một tư sản cơ bản cụ thể
cho đời sống tự do cho mình và gia đình đồng thời là cái
vốn để tiến tới một đời sống mới ngày thêm sung túc".
Ngoài
ra, chính sách dinh điền còn theo đuổi các mục đích sau:
- Mở rộng đất canh tác trên những cánh đồng
bỏ hoang vì chiến tranh, khẩn hoang vùng đất phèn sình lày,
miền
Đồng Tháp, khai phá lau lác, rừng sát miền Hậu Giang, phá
rừng làm rẫy và trồng cây kỹ nghệ miền Đông và
cao nguyên...
- Định cư các đồng
bào vô sản địa phương, binh sĩ giải ngũ, đồng bào
nghèo miền Trung đi tìm một tương lai sáng lạn hơn;
- Gia tăng sản xuất lúa gạo để xuất cảng;
-Quy dân thành những xã lớn cho tiện thiết
lập các cơ sở cộng đồng (trường học, bệnh xá...) cải
tiến dân sinh (1).
Thực hiện
Tại mỗi vùng dinh điền, các địa điểm dinh
điền được tuần tự thành lập theo cách "vết dầu loang"
đã được nhà Nguyễn áp dụng trước đây. Sự hình thành
địa điểm dinh điền trải qua nhiều giai đoạn. Khởi đầu,
Phủ Tổng Ủy Dinh Điền lo các công việc chính sau với sự
hỗ trợ kỹ thuật, tài chánh của chính phủ :
- điều nghiên địa thế của khu cư trú đối
với hệ thống giao thông, dẫn thủy, đặc tính thổ nhưỡng
khả canh;
-trù liệu đồ án: phân lô đất canh tác và
đất dựng nhà vườn, phác họa đường xá, vị trí các cơ
sở cộng đồng (trường học, bệnh xá, chợ, trụ sở ban
quản trị, chùa hoặc thánh đường, ước tính phí tổn ngân
sách...
-kế hoạch cư dân: trợ cấp cất nhà, ngưu
canh điền khí, gạo đủ ăn từ 5 đến 9 tháng;
- vận động di dân và lập danh sách các gia
đình xin định cư; theo nguyên tắc, mỗi gia đình phải gồm
có một đàn ông và hai người trưởng thành khỏe mạnh để
có thể canh tác đất cấp phát (3 đến 5 Ha) và thu ngắn thời
gian lệ thuộc chính phủ;
- chuyên chở di dân đến địa điểm dinh điền;
- định cư : chia lô đất (cất nhà, làm ruộng
hay rãy), tổ chức cất nhà, cơ sở cộng đồng, tôn giáo,
cấp bằng khoán, hướng dẫn canh tác, đào kênh, xẻ mương,
đào đìa cá...
Trợ cấp của chính phủ
Mỗi địa điểm dinh điền gồm độ 200 gia
đình (khoảng 1000 người), chính phủ dự trù hai loại trợ
cấp : trợ cấp trực tiếp cho mỗi cá nhân và trợ cấp xây
dựng địa điểm.
Trợ cấp trực tiếp cho mỗi cá nhân thành niên.
|
Tính theo
đồng VN$ |
Chuyên chở
Phí tổn cất nhà
Tiền mặt cho 3 tháng đầu
Tiền mặt cho 3 tháng sau
Số lượng gạo cho 9 tháng
Mùng, mền, chiếu
Nông cụ
Gia súc
Hạt giống
Thuốc men
Khai hoang
Tổng cộng |
300
300
540
360
945
60
70
100
70
60
2000
4805 |
Tiền trợ cấp xây dựng cơ sở cộng đồng
dự chi cho một địa điểm dinh điền 200 gia đình gồm khoảng
2000 người.
|
Tính theo
đồng VN$ |
Cơ sở hành chánh, giếng
nước
Lương bổng hàng năm cho nhân viên
Quản trị
Tổ chức từ thiện
Văn phòng phẩm
Xăng nhớt
Bảo trì, sửa chữa máy móc
Tổng cộng |
213 912
223 200
73 000
34 000
101 160
36 000
681 272 |
Trước khi dân đến định cư, Quốc Gia nông
cụ cơ giới cuộc đến khai hoang và cày bừa. Cơ quan này
được trang bị 234 máy kéo, 168 máy ủi, 393 máy cày bừa.
Trong trường hợp một địa điểm dinh điền gặp khó khăn
như mất mùa, cây khó mọc vì đất xấu... chính phủ viện
trợ thêm cho ngân sách và gia tăng thêm thời hạn trợ cấp
cho tới 12 hay 18 tháng với mục đích giúp dân tự túc và
hội nhập mau chóng vào môi sinh mới.
Quản trị hành chánh
Mỗi địa điểm dinh điền dặt dưới sự điều
khiển của một ban quản trị gồm 5 người: chủ tịch địa
điểm, thư ký, y tá, bà mụ, ủy viên canh nông. Năm địa
điểm dinh điền nằm gần nhau sẽ trở thành một tiểu khu
dinh điền đặt dưới quyền một sĩ quan quân đội với hai
phụ tá lo về kỹ thuật máy móc nông cụ. Một khi đã tự
túc được, địa điễm sẽ mất quy chế dinh điền và trở
thành một ấp hay xã.
Thành quả
Năm 1963, theo tài liệu của phủ Tổng Ủy Dinh
Điền, các địa điểm dinh điền đã canh tác 119 788 Ha ruộng,
trồng 28 678 Ha cây cao su, 1 208 Ha cây cacao, kenaf và cây sơn.
Chính phủ đã làm được 1313 cây số đường lộ nối với
hệ thống giao thông cũ, đào 66 giếng nước đào tay và 970
giếng đào máy, xẻ 37 cây số kênh đào, bắc 1678m cầu, dựng
25 990 căn nhà, 14 kho chứa đồ, 26 trạm y tế và hộ sanh,
37 trường học.
Từ năm 1957 đến năm chấm dứt chính sách dinh
điền (1963), tổng cộng chính phủ đã thành lập 192 địa
điểm dinh điền, định cư 50 931 gia đình (khoảng 289 790 người).
năm |
Chi phí của chính phủ
(đồng VN$) |
Số địa điểm |
Số dân định cư |
1957
1958
1959
1960
1961
1962
1963 |
240 080 000
145 780 000
388 400 000
495 000 000
401 770 000
430 000 000
267 900 000 |
17
29
35
40
21
29
21 |
40 582
43 479
57 880
51 840
33 182
33 537
29 270 |
Bảng phân phối số địa điểm dinh điền theo
vùng và tỉnh năm 1963
Tỉnh |
Số địa điểm
(năm 1963) |
Miền Tây Nam Phần
Kiến Phong
Kiến Tường
Kiên Giang
An Xuyên
Ba Xuyên
|
8
11
4
7
1 |
Miền
Đông Nam Phần
Phước Long
Bình Tuy
Tây Ninh
Bình Long
Phước Thành
Bình Dương
Long Khánh
Phước Tuy
Bình Thuận |
25
10
3
11
7
6
7
3
2 |
Cao nguyên
Quảng Đức
Darlac
Pleiku
Kontum
Phú Bổn |
9
14
20
4
7 |
Bảng phân tích quê quán, tuổi, tín ngưỡng
và nghề nghiệp của 289 720 dân định cư tại dinh điền.
Quê quán
Dân di cư miền Bắc
Quảng Ngãi
Bình Định
Quảng Nam
Quảng Ngãi
Thừa Thiên
Đồng bào Thượng
Cựu binh sĩ
Trung Hoa
Số khác |
Tỷ lệ % theo
Tổng số
26
14
11
22
10
4
5
4
2
2 |
Tuổi
Dưới 16
Từ 16 đến 59
Trên 60 |
48,6
45
6,4 |
Tôn giáo
Phật giáo
Công giáo
Tôn giáo khác |
48,3
45
6,4 |
Nghề nghiệp
Nông nghiệp
Ngư nghiệp
Công nghệ
Thương mại
Nghề khác |
93,2
2
2
0,1
2,7 |
Các bảng thống kê trên cho chúng ta những nhận
xét sau.
- Từ 1961, số di dân và địa điểm dinh điền
giảm dần vì chính phủ ưu tiên cho chính sách ấp chiến lược,
-Trên tổng số dân dinh điền, gốc ở miền
trung chiếm 61% tổng số, làm nghề nông 93,2% .
Để có một cái nhìn
chi tiết về chính sách dinh điền, chúng tôi mô tả sự định
cư ở hai địa điểm dinh điền Cái Sắn và Tư Hiền mà chúng
tôi có dịp tìm hiểu tại chỗ.
A. Dinh điền Cái Sắn
Tháng 3 năm 1958, Phủ
Tổng Ủy Dinh Điền nhận đơn xin định cư ở dinh điền
Cái Sắn 2 nằm trong tỉnh Kiên Giang. Địa điểm dinh điền
rộng khoảng 4000 Ha gồm 1515 Ha ruộng truất hữu do luật cải
cách điền địa số 57, diện tích còn lại là ruộng
của chính phủ mua lại của điền chủ pháp theo thỏa ước
Việt-Pháp ký năm 1956.
Rút được kinh nghiệm và thành công của khu
định cư tỵ nạn Cái Sắn 1, dinh điền Cái Sắn 2 dập theo
đồ án chia lô của Cái Sắn 1. Đất dinh điền được chia
thành 1304 lô, mỗi lô rộng 3Ha, phân chia như sau:
-276 lô nằm đầu kênh cạnh tỉnh lộ dành cho
các chủ điền bị truất hữu
-28 lô dùng để xây cơ sở cộng đồng: công
sở, trường học, nhà hộ sanh, giáo đường...
-1000 lô còn lại phát cho 1000 gia đình (đa số
là người tỵ nạn gốc Bùi Chu, Nam Định).
Cái Sắn 2 chia thành hai xứ đạo, thánh đường
do tín đồ góp công xây cất.
Hình thức cư trú giống như Cái Sắn 1. Nhà
nhìn ra kênh, ruộng sau nhà, lô này nằm sát lô kia chạy dài
hai bên bờ hai kênh mới đào xong. Kênh số 7 dài 11,2 cây số,
rộng 9m, sâu 2m, tập trung 441 gia đình. Kênh số 8 dài 10,7
cây số tụ tập 559 gia đình. Hai kênh này nối với hai kênh
chính Cái Sắn, Chương Bàu, nằm cách nhau 2000m.
Trước khi di dân đến, Quốc Gia Nông Giới Cuộc
đã cho cày bừa đất sẵn sàng chờ vụ mùa tới.
Sau khi đã chọn lô đất, mỗi gia đình nhận
được một sườn nhà, một tam bản, mùng mền chiếu, hạt
giống, gạo đủ ăn trong 3 tháng...
Nhờ kinh nghiệm của Cái Sắn 1, sự ổn định
định cư chỉ kéo dài 6 tháng. Cuối năm 1958, dinh điền Cái
Sắn 2 được sát nhập vào xã Thạnh Đông tỉnh Kiên Giang.
Địa Điểm dinh điền
Cái Sắn 3. Sau thành công của Cái Sắn 2, Tổng Ủy Dinh Điền
cho thành lập dinh điền Cái Sắn 3 nằm kế bên Cái
Sắn 2 với dự tính:
- định cư 1500 gia đình khoảng 75 000 người,
- gia cư và ruộng vườn chạy dài dọc theo 3
kênh đào (số 6, 9, 10) trên một diện tích 12 000Ha.
Xây dựng địa điểm dinh điền này bỏ dở
coi như bị thất bại vì không giải quyết được vấn đề
bồi thường cho các điền chủ cũ.
Sau khi địa phương hóa, các khu định cư Cái
Sắn được sát nhập vào 3 xã địa phương:
- Xã Thạnh An, quận Thốt Nốt, tỉnh An Giang,
- Xã Thạnh Đông, quận Kiên Tân, tỉnh Kiên
Giang,
- Xã Tân Hiệp, quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang.
B. Dinh điền Tư Hiền
Năm 1956, TT Diệm quyết định cho thành lập
tỉnh Phước Long để thu hút di dân khai thác cây kỹ nghệ
giữa miền rừng hoang vu ở miền đông Nam Phần. Việc cư
dân mở rộng đất canh tác dựa vào chính sách dinh điền.
Năm 1957, Tổng Ủy Dinh
Điền cho thành lập thí điểm dinh điền tiền phong:
địa điểm Phước Quả nằm gần tỉnh lỵ và địa điểm
Vĩnh Thiện cạnh quốc lộ 14. Tiếp theo các địa điểm khác
được thiết lập tuần tự dựa vào kinh nghiệm của hai thí
điểm trên. Đến năm 1963, tỉnh Phước Long xây dựng được
25 địa điểm dinh điền chia ra làm hai khu vực.
Khu vực dinh điền 1 gồm các địa điểm sau
: Phước Quả, Phước Tín,, Bà Rạt, Đức Bổn, Hiếu Phong,
Lễ An,, Thuần Kiệm, An Lương, Phong Thuần, Thuần Kiên 4, Vi
Thiện, Vĩnh Thiện, Văn Đức, Trạch
Thiện, Thuận Đáo, Rạch Cát.
Khu vực dinh điền 2
: Nhơn Lý, Phú Văn, Đức Hạnh, Tư Hiền, Khiêm Chưng,
Tùng Thiện, Khắc Khoang, Hòa Kỉnh, Phú Nghĩa.
Để có một ý niệm
về các địa điểm dinh điền ở Phước Long, chúng tôi chọn
địa điểm dinh điền Tư Hiền làm thí dụ.
Tháng 4 năm 1962, trong dịp đi kinh lý tỉnh Phước
Long, TT Diệm đặt lại tên địa điểm Trúc Sơn là Tư Hiền
vì đa số dân quê quán xã Tư Hiền, tỉnh Thừa Thiên. Địa
điểm dinh điền được thành lập
năm 1961, cách tỉnh lỵ 2 cây số. Đợt di dân đàu tiên
đến Tư Hiền gồm 50 gia đình, 305 người. Đợt thứ hai gồm
40 gia đình, 262 người. Ngay khi đến, 65 gia đình nhận được
65 căn nhà đã dựng sẵn, mỗi gia đình còn lại nhận được
1300 VN$ để dựng nhà. Cũng như các địa điểm khác, đất
khả canh đã đươc khai hoang, phân thành lô. Mỗi gia đình
chiếm một lô 30m/50m và có thể mở rộng sâu vào trong tùy
theo khả năng tài chánh và nhân công của mỗi gia đình. Trong
6 tháng đầu định cư, mỗi người lãnh trợ cấp hàng tháng
là 360 VN$, 15 kí lô gạo (trẻ em dưới 15 tuổi lãnh 180 VN$,
9 kí lô gạo). Số trợ cấp sẽ giảm đi một nửa trong 5
tháng tiếp theo.
Sau khi định cư rồi, các di dân lo trồng cây
ăn trái quanh nhà, soạn đất trồng đậu phọng, khoai lang,
khoai mì, lúa mọi... Vì là đất rẫy trên phù sa cổ, nghèo
nàn, thiếu nước tưới nên năng xuất thấp, nhất là cấy
lúa mọi.
Từ năm 1973, các địa điểm dinh điền ở Phước
Long tan rã trước sức tấn công của cộng sản. Dân dinh điền
phải di tản về Bình Dương.
_________
(1) - Chính sách dinh điền, cải cách điền địa,
nông tín, Văn Hữu Á Châu xuất bản, Sài Gòn 1959, tr.12,13.
Lạp
Chúc Nguyễn Huy
|