LTG. Võ
đạo là linh hồn của môn phái võ cũng như văn hóa là linh
hồn của một dân tộc. Võ đạo và văn hóa do chính con người
tạo ra để làm khuôn mẫu cho việc ứng xử giữa con người
(võ sinh) với con người (võ sinh), giữa
con người với xã hội. Điều đáng mừng là ngày nay Vovinam
phát triển nhanh chóng trên phương diện võ thuật ở hải
ngoại và nhất là tại quốc nội. Nhưng khi trò chuyện với
vài võ sư có tâm hồn võ đạo mới thấy được mặt trái
của sự phát triển võ thuật không có võ đạo kèm theo giảng
dạy nên bành trướng nhiều hiện tượng trái với điều
tâm niệm của vị Sáng Tổ. Đó là thi đua tranh giải, kiếm
huy chương tại quốc nội với mục đích kiếm tiền thưởng,
Chẳ ng khôn ngoan
cũng chẳng thân sơ,
Có Hơi Kẽm mới
tha hồ ngang ngửa
(Nguyễn Công Trứ, Phàm
kim chi nhân)
Còn ở hải ngoại thì luồn cúi
để thăng đai... Trước hiện tượng phát triển thể xác
(võ thuật) nhưng suy đồi đạo đức (võ đạo) giống như
xã hội Việt Nam hiện tại mà tôi viết bài này gởi đến
các võ sư Vovinam đã đánh mất câu sau " Việt Võ Đạo " của
môn phái.
Võ đạo Vovinam biểu hiệu nhân
sanh quan [1]
của môn phái. Chữ " Đạo [2]
" mang ý nghĩa " con đường " là hệ thống tư tưởng triết
học trình bày ý nghĩa của đời sống con người võ sinh và
mục đích đào tạo con người toàn diện. Võ đạo được
Sáng Tổ khởi xướng với Lý thuyết cách mạng tâm thân
được khai triển tiếp theo bởi VS Trần Huy Phong trong cuốn
sách Cách mạng tâm thân [3].
Trong lý thuyết
cách mạng tâm thân, Đạo lộ đó đã được ông Nguyễn Lộc
vạch ra là: " Đào tạo con người toàn diện
khỏe mạnh cả về Tâm và Thân, gầy dựng ý thức vươn lên
tự hoàn thiện bản thân về cả Tâm – Trí – Thể để
có đầy đủ khả năng, đức độ, dũng cảm, quyết tâm,
dám hy sinh cho đại nghĩa và cho lý tưởng của mình, sẵn
sàng phục vụ tổ quốc và nhân loại xã hội bằng tay chân
và tim óc ".
Tiếp theo Võ Sư
Trần Huy Phong khai triển võ đạo cách mạng tâm thân
bằng lý thuyết tâm-trí-thể " là con đường đưa đến
sự làm chủ chính bản thân mình ".
Cách mạng Tâm-Thân đi từ trình
độ "Thuật " về chuyên môn, thực dụng, sau đó tiến đến
trình độ " Đạo " tổng quát và toàn diện, trong đó có cả
chuyên môn, thực dụng ở cấp cao. Vì vậy mà "Đằng sau Vovinam
là triết học".
1. Quan niệm về sống
Dạy võ cũng như học võ là có
mục đích sống, mang nặng danh dự của mình và của môn phái,
dân tộc mình và tinh thần võ đạo. Vì vậy, khi dụng võ,
võ sinh phải biết:
- Nhận định rõ ràng về sự sống;
- Đạo sống và phần vụ thiết
yếu về " sống ".
a) Nhận định
Nhận định về sự sống. Võ sinh
nhận định chỗ đứng của mình trong tập thể võ đạo và
võ thuật , tự coi mình là một phần tử trong dòng miên sinh
của làng võ và nhân loại;
Nhận định về đích sống. Học
võ đạo và võ thuật là mang nặng trên vai danh dự của môn
phái, của dân tộc trên căn bản trách nhiệm làm người của
mình trước cuộc sống;
Nhận định tương quan xã hội.
Giữa võ sinh và tập thể đều có tương quan trách nhiệm.
b) Đạo sống
Võ sinh phải ý thức 3 phần vụ
thiết yếu về " sống ":
1. Sống.
Kiện toàn thân thể khỏe mạnh,
trí tuệ minh mẫn, tâm hồn cao thượng, sống thực, sống
toàn diện, nhờ đó mà giúp ích cho xã hội,
2. Để cho người khác sống.
Tôn trọng những khác biệt, giúp
đỡ người khác cùng hưởng hương vị đời sống như mình,
3. Sống cho người khác.
Phần vụ này đòi hỏi hy sinh một
số quyền lợi của mình cho người khác.
Tóm lại, võ sinh Vovinam phải dang
rộng vòng tay để đón nhận mọi người, đón nhận ngay cả
những người xa lạ không mang cùng màu áo với chúng ta, bằng
một thứ tình Võ Đạo cao cả và bằng cả sự trìu mến.
2. Cách mạng tâm-thân
Với quan niệm con người là trung
tâm của mọi hoạt động nên Võ Sư Sáng Tổ lấy lý thuyết
cách mạng tâm thân làm nền tảng xây dựng con người trên
3 bình diện : Tinh thần, thể xác và đạo. Cách mạng tâm
thân là phát huy tinh thần nhân đạo, làm thay đổi phần tâm
và thân để tiến đến hoàn chỉnh hơn. Cách mạng tâm-thân
bao gồm hai phần : Thân và Tâm
a) Cách mạng thân
Mục đích là xây dựng cho võ sinh
lòng yêu nước sâu sắc, tinh thần tự hào dân tộc, ý chí
quật cường và nghị lực quả cảm. Tất cả những điều
đó phải được chứa đựng trong một thân thể khỏe mạnh,
đanh thép, sức lực dẻo dai, chịu đựng được mọi gian
khổ, có khả năng tự vệ và chiến đấu hầu vươn đến
một lối sống tốt đẹp hơn. Vì thế, ông chủ trương nung
đúc võ sinh như sau.
Môn phái sẽ luyện tập võ lực
cho môn sinh có một thân hình dắn dỏi, vững vàng, một sức
lực mạnh mẽ dẻo dai để có thể bền bĩ chịu đựng trước
mọi khó khăn, cực nhọc, đẩy lui các bệnh tật, giữ cho
thân thể luôn luôn tráng kiện và lành mạnh.
Về Võ thuật, môn phái sẽ huấn
luyện cho môn sinh một kỹ thuật tinh vi để tự vệ hữu
hiệu và sẳn sàng bênh vực lẽ phải và ý thức được rằng
luyện võ có sứ mạng phục vụ người khác trong tinh thần
võ sĩ và nhân bản.
Song song với cách mạng thân, môn
phái sẽ rèn luyện cho môn sinh một tâm hồn cao thượng, một
ý chí bất khuất, một tính tình hào hiệp, biết khép mình
trong kỷ luật tự giác, biết sống hợp quần trong tình đồng
đạo, biết hy sinh trong nếp sống vị tha và trở nên những
công dân gương mẫu, phục vụ cho bản thân, gia đình, tổ
quốc và nhân lọai.
b) Cách mạng Tâm
Hành động làm " Nghiêm lễ ", tay
phải đặt lên trái tim, diễn tả đầy đủ trọng tâm của
võ đạo Vovinam là " Tâm ". Vậy Tâm được hiểu như thế
nào?
Tâm trong tín ngưỡng cổ truyền
Theo tín ngưỡng cổ truyền Việt
Nam là Tam Giáo (Phật, Lão, Khổng), Tâm (linh hồn, ý nghĩ,
tinh thần) ngụ tại tim và đều khuyên tu Tâm dưỡng Tánh.
Tại sao? Tâm và Tánh của con người cũng đồng như một,
song Tâm tự thánh tự thiện là chủ tể, khi Tâm phát động
ra bên ngoài thì gọi là Tánh. Vì luôn luôn biến động trước
thất tình lục dục, Tánh có thể tấn bộ tiến gần về
Tâm trở thành thánh thiện hoặc thoái hóa thoát xa Tâm mà
gây điều tàn ác trái đạo nghĩa. Sở dĩ con người làm ác
là vì cái Tánh bị nhiễm trược trần và cái Tâm bị lục
dục thất tình che lấp. Tu Tâm dưỡng Tánh có nghĩa là phải
kềm chế thất tình, lục dục giữ cho trong định ngoài an:
- thất tình là ái (yêu thương),
ố (ghét), hỉ (mừng), nộ (giận), ai (buồn), lạc (vui sướng),
cụ (sợ hãi).
- Lục dục là sáu ham muốn : sắc
dục (ham muốn sắc đẹp), thính dục tai ham muốn nghe điều
cám dỗ, phi lễ); hương dục (mũi ham muốn ngữi mùi thơm
mà, sanh dục vọng); vị dục ( miệng ham ăn món ngon vật lạ
nên phạm tội sát sanh); Ý dục ( ý ham muốn là mối
đại hại cho con người); pháp dục (thân dâm dục quá độ).
Cách mạng Tâm là giữ cho lòng vật
dục lặng yên, làm cho cái Tâm gốc được tỏ rạng, mạnh
mẽ, đứng lên làm chủ nhơn ông bản thân mình, mà điều
khiển lục dục thất tình, đem chúng vào đường đạo đức.
Vậy, cách mạng tâm là sửa đổi con người mình, từ hình
thức đến nội dung, cho mỗi ngày một thêm tốt đẹp, thiện
lương, chơn chánh, đạt đến mức con người tự làm chủ
mình.
Tâm trong võ đạo Vovinam
Tâm là cái gốc của tinh thần,
là nguyên động lực phát khởi ra mọi hành động, là căn
bản của lương tri. Mục đích cách mạng tâm là đưa những
phương pháp tìm về tâm gốc, dùng năng lực hưng phấn phá
tan màn đêm bao phủ tâm bằng giúp người tập tự ý thức
sâu xa về bản thân mình để nâng cao tâm của mình.
Võ sư Trần Huy Phong giải thích
tâm gốc, tâm cội nguồn trong cuốn sách về cách mạng tâm
thân [4].
Cuộc cách mạng này cần có 3 yếu tố Tâm, Trí, Thể
để xây dựng con người toàn diện cả trong lẫn ngoài của
con người võ đạo.
Nhờ luyện tập, võ sĩ có 3 quyền
năng: ý thức, dũng cảm, sáng suốt
Ý thức
Sự nhận biết tự tâm trong tỉnh
thức và sáng suốt, vượt ra khỏi ngu dốt, biết im lặng,
kiên nhẫn, dũng cảm tự chủ;
Ý thức về thân
Tự biết tất cả những gì thuộc
về thân thể mình như về ngôn ngữ, cử chỉ, ăn uống. Ý
thức về tâm để biết về tình cảm, tư tưởng;
Dũng cảm
Dám gạt bỏ cố chấp, sẵn sàng
chấp nhận mọi thử thách, bằng lòng với hậu quả;
Sáng suốt
Sáng suốt trong hành động thường
nhựt nhất là lúc dụng võ với người khác.
3. Dụng võ theo Tâm
Tánh
Thất tình lục
dục là sự rung cảm tự nhiên của Tâm và Tánh nhưng thất
tình phải phát ra đúng tiết điệu hòa hài cảm ứng với
nội tâm ngoại cảm. N?u thất tình lục dục phát ra
quá đáng trái với tính tự nhiên của Trời Đất, thì con
người dễ phạm tội lỗi. Để diễn tả điều này, chúng
tôi tóm tắt cơ chuyển động của thất tình lục dục lên
Tâm và Tánh của một võ sinh Vovinam diễn tiến trong cơ thể
theo chiều hướng: Ý nghĩ (thuộc về Tâm)
→ hành động (thuộc về Tánh) →
tác nhân (cơ thể).
Thí dụ một võ
sinh Vovinam đứng trước cảnh 3 người đánh đập một người
yếu đuối thì tâm, tánh, thể xác sẽ phản ứng qua các giai
đoạn sau.
1. Khi một ngoại
cảnh mạnh hiếp yếu (lục trần) tác động lên Tâm thì sanh
ra ý nghĩ (ý dục)
bênh vực kẻ cô thế bị hà hiếp.
2. Ý nghĩ (Tâm) làm cho Tánh (tức
là Khí trong người) chuyển động,
3. Tánh chuyển động sẽ đưa đến
hành động của cơ thể theo ý nghĩ của Tâm của võ sinh.
Ở giai đoạn hành động, chúng
ta mới biết trong người võ sinh có cách mạng tâm thân hay
không.
Nếu võ sinh đã được trang bị
hành trang võ đạo, thì Tâm sẽ nhân đạo, chơn chánh, sáng
suốt, sẽ kềm chế được Tánh và Thân dụng võ có tính
cách răn đe những kẻ ức hiếp người.
Nếu không có học cách mạng Tâm
Thân của môn phái thì võ sinh có thể nổi giận, sân si, sẽ
dụng võ sai trái, tàn bạo, đả thương không cần thiết giống
như một kẻ vũ phu.
4. Luật Tam Tài trong
cách mạng tâm thân
Tam tài là Thiên-Địa-Nhân (Trời-Đất-Người) [5].
Khi đấu võ, Người đứng giữa ra các thế võ dương thí
dụ như cú đấm, cú đá tương trưng cho Trời và thế võ
âm thí dụ tránh né, hóa giải tượng trưng cho Đất. Nếu
áp dụng luật này vào Cách Mạng Tâm Thân của Vovinam thì
Người đứng giữa Trời Đất có khả năng kiềm chế điều
hòa, phối hợp âm dương theo ý muốn vào các thế võ thành
võ đạo mang tính chất tấn công, thủ thắng hoặc bao dung,
phối hợp, điều hòa, hóa giải... Cho nên, tiến đến cao
độ thì võ đạo nhiều hơn võ thuật.
5. Dụng võ theo luật
cương nhu phối triển
Cương trong tinh
thần với ý chí mạnh mẽ, nếp sống hào hùng nhưng nhu trong
tâm hồn rạt rào tình cảm, đầy nhân từ thiện ý, nhân
đạo. Cương nhu phối triển trong tinh thần là để hợp với
lòng người và lẽ trời. Nguyên lý này còn thể hiện trong
đời sống tinh thần và cách hành xử của võ sinh Vovinam vì
:"Cương tượng trưng sự hào hùng, ý chí sắt
thép, lòng cương quyết và đức Dũng của con nhà võ. Nhu biểu
tượng tính nhu hòa, điềm đạm và lòng Nhân của người
võ sĩ. Có cương mà thiếu nhu sẽ không biến hóa, linh hoạt
theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, có nhu nhưng thiếu
cương sẽ không phát huy được hiệu quả tối đa ".
Thế võ hiệu quả linh diệu lại mang một ý thức rất cao
về tinh thần đạo đức của người võ sĩ uy vũ bất năng
khuất.Vì vậy mà người học võ trước nhất nghĩ tới võ
thuật, cao hơn mới nghĩ tới võ đạo.
Tóm lại từ tinh
thần võ đạo đó mà quan niệm dụng võ của Vovinam
là : hợp lý và đúng lúc, gồm 4 điểm :
-Không thượng đài có tính cách
thể thao , tranh đấu tàn bạo trái với kỹ thuật và tinh
thần của môn phái võ đạo,
-Không gây lộn, không thử võ với
người,
-Chỉ tự vệ,
- Chuộng lẽ phải.
Từ võ đạo mà các vị chưởng
môn đã sọan ra võ lý
Võ lý
Võ lý (võ thuyết) là căn bản lý
thuyết của võ thuật dùng để giảng giải các thế võ và
hướng dẫn đường lối cho võ thuật phát triển. Muốn giải
thích võ lý của Vovinam, chúng ta phải tuần tự tìm hiểu
các điều sau :
- Hệ tư tưởng Kinh Dịch và quan
niệm vũ trụ quan của Lão Giáo;
- Sáng Tổ quan sát, sửa đổi và
diễn dịch tư tưởng Kinh Dịch sao cho phù hợp với võ thuật
và võ đạo của Vovinam;
- Cách áp dụng tinh túy của định
luật thiên nhiên vào võ thuật và võ đạo.
1. Triết lý vũ trụ
quan
Triết lý vũ trụ quan của vùng
văn hóa Viễn Đông bắt nguồn từ Kinh Dịch và hệ thống
tư tưởng của Lão Giáo.
a) Kinh Dịch
Cách đây khoảng 5000 năm, với phương
pháp QUAN SÁT rồi CẢM NHẬN, các cao nhân quan sát vũ trụ
bao quanh mà nhận xét thấy có hiện tượng khí từ trên trời
đi xuống như ánh sáng, gió... và khí từ đất bốc lên như
hơi nước. Hai luồng khí lên xuống giao nhau không ngừng nghỉ
mà sanh ra các hiện tượng vật chất hữu hình trên thế giới.
Các cao nhân vẽ một gạch thẳng
tượng trưng cho khí dương từ trời đáp xuống, một gạch
đứt đoạn
biểu tượng khí âm đi lên từ đất. Hai gạch âm dương tác
động lên nhau mà sanh ra các hiện tượng mọi sự vật tmà
ta quan sát được trong vũ trụ.
Từ hai gạch biểu tượng âm dương
mà các cao nhân diễn tả luật âm dương làm động cơ cấu
tạo thế giới như Kinh Dịch chỉ dạy.
Tiếp theo, các cao nhân quan sát khí
âm dương và các hiện tượng xuất hiện trong chính cơ thể
của mình thì cảm nhận thấy con người là hình ảnh đại
vũ trụ để đi đến kết luận con người là tiểu vũ trụ.
Và cũng từ hai gạch âm dương mà
các cao nhân đã viết nên quyển Kinh Dịch không chữ viết
diễn tả tiến trình của đời người trong đại vũ trụ.
b) Đạo và âm dương
trong Lão Giáo
Triết lý vũ trụ quan của Lão Giáo
bắt nguồn từ Kinh Dịch và coi Đạo là Nguyên lý đầu tiên
của càn khôn vũ trụ là nguyên căn của Trời Đất, vạn
vật. Đạo không thể bàn, không thể định danh được. Cái
nguồn cội ấy khi còn bất động thì gọi là Đạo, khi đã
động để sanh hóa thì gọi là Thái Cực. Thái Cực được
biểu tượng bởi một vòng tròn (vòng Thái Cực)
chứa bên trong hai nguyên lý Âm Dương. Từ Một ( vòng tròn
Thái Cực) sanh ra Hai là lưỡng nghi (âm dương) [6];
rồi Hai sanh Ba là luật Tam Tài (Thiên, Địa, Nhân)... Theo lý
thuyết có tính cách siêu hình này, chữ "Đạo [7]
" mang ý nghĩa nguồn gốc của vũ trụ và giải
thích vũ trụ quan của người Việt.
c) Luật thiên nhiên
căn bản
Trong Kinh Dịch có hai luật thiên
nhiên được áp dụng vào võ lý Vovinam là:
-Luật vô thường [8]
,
-Luật âm dương [9].
Luật thường
dịch hay vô thường
(Loi de non permanence)
có
nghĩa mọi vật trong vũ trụ đều biến đổi không ngừng
nghỉ. Không có gì toàn tĩnh hay toàn động. Luật vô thường
được diễn tả bởi sự chuyển biến liên tục không ngừng
nghỉ của âm dương như ngày với đêm.
Võ lý rút ra từ
luật vô thường này là các thế võ chuyển tiếp liên tục
từ thế này tiếp theo thế khác, thí dụ đấm ra (dương)
tối đa thì phải thu tay về (âm), cứ thế tiếp theo...
Luật âm dương
Nhìn vào hình vẽ trong vòng Thái
Cực của Lão Giáo, chúng ta sẽ thấy hai điều căn bản của
luật âm dương là hỗ căn, hỗ tương:
- Hỗ căn có nghĩa âm dương từ
một gốc Thái Cực (vòng tròn) mà ra nên trong âm có dương
(thiếu dương, chấm trắng), trong dương có âm (thiếu âm,
chấm đen).
- Hỗ tương thì hiểu rằng âm cực
dương sinh, dương cực âm sinh là vì trong âm có dương tiềm
phục, trong dương có âm tiềm phục chưa hiện rõ ra. Khi âm
đến hồi cực thịnh thì mầm dương mới đủ sức hiện
lên, nghĩa là trong thái âm có cái mầm thiếu dương hiện
lên và bắt đầu tăng trưởng, cũng như trong thái dương có
mầm thiếu âm hiện lên và bắt đầu tăng trưởng. Cứ thế
âm dương luân chuyển không ngừng nghỉ như như ngày đêm,
bốn mùa trong năm.
Vovinam xuất phát từ võ thuật và
văn hóa cổ truyền Việt Nam nên cũng gắn liền với học
thuyết âm dương, vì vậy mà : "Mặt sau võ thuật Vovinam
là triết học Kinh Dịch".
2. Quan sát của Sáng
Tổ
Sau khi quan sát các thế võ nhất
là võ cổ truyền, Ông Nguyễn Lộc nhận thấy các điểm trọng
yếu sau :
Về luật âm dương.Cái ảo diệu
của quyền thuật "một động một tĩnh " căn cứ vào học
thuyết âm dương biến hóa trong Kinh Dịch mà nảy sinh ra diệu
quyết.
Trong kỹ thuật đối kháng của
võ thuật cũng không có chỗ nào không ngầm mang triết lý
âm dương. Trong chiến đấu, bất luận là phòng thủ hay tiến
công, cũng không rời xa sự biến hóa của âm dương.
Về luật thường dịch tức vạn
vật đều biến đổi luôn luôn, không ngừng vô thường. Võ
cổ truyền kết hợp cương nhu, hư thực, công thủ, phản
biến, mạnh yếu, nội ngoại, thể chất tinh thần thể hiện
rõ tính liên hoàn, tinh tế của luật thường dịch.
Từ việc quan sát các thế võ cổ
truyền
mà Sáng Tổ hình thành võ lý Vovinam một cách cụ thể qua
hình ảnh trên phù hiệu bằng cách sửa đổi vòng Thái Cực
và âm dương siêu hình của Lão Giáo để hướng dẫn võ thuật
và võ đạo Vovinam. Sự sửa đổi này là
một sáng tạo độc đáo trong võ lý của Vovinam.
3. Tại sao sửa đổi?
Trước năm 1975, trong một buổi
luận bàn về ảnh hưởng lý thuyết âm dương của Kinh Dịch
trong võ lý, võ đạo và hình vẽ trên phù hiệu Vovinam, võ
sư Trần Huy Phong [10]
cho biết là Sáng Tổ mượn hình ảnh vòng Thái Cực, lưỡng
nghi âm dương của Kinh Dịch nhưng sửa đổi và thêm vài chi
tiết: bỏ 2 chấm thiếu âm và thiếu dương, vẽ thêm một
đường trắng chữ S giữa âm dương và một vòng tròn trắng
bao bọc âm dương.
|
|
Phù hiệu thời Sáng Tổ
|
Vòng Thái Cực theo Kinh Dịch
|
Lý do sửa đổi vòng Thái Cực của
Kinh Dịch là để diễn tả cụ thể võ lý và võ đạo do
Sáng Tổ quan niệm.
Sửa đổi biểu tượng âm tố
và dương tố
Từ biểu tượng âm dương trong
vòng Thái Cực của Lão Giáo, Sáng Tổ giữ lại biểu tượng
âm dương nhưng bỏ 2 chấm thiếu dương và thiếu âm và thêm
một đường trắng chữ S giữa hai nguyên lý âm dương (xanh
và đỏ). Đâu là lý do của sửa đổi?
Giữ lại biểu tượng âm dương
để diễn tả võ lý [11]
dựa trên biến hóa của luật Âm-Dương và ứng dụng tính
chất của Âm là mềm dẻo và Dương là cứng mạnh, theo võ
lý Cương Nhu Phối Triển trong võ thuật [12].
Tại sao bỏ 2 chấm thiếu dương
và thiếu âm? Bỏ 2 chấm là sửa đổi luật thường dịch
để thích nghi với võ đạo Vovinam là vì :
- Lưỡng nghi âm dương vẽ theo Lão
Giáo là để diễn tả âm dương biến hóa liên tục, không
ngừng nghỉ, có nghĩa là nếu cứ theo đúng luật thường
dịch thì đòn thế cương nhu phối triển được tung ra liên
tục nhằm triệt hạ đối phương không một chút nương tay,
không dừng lại, trái với võ đạo Vovinam. Điều này không
phù hợp với võ đạo " Bàn tay thép (võ thuật, dương cương)
đặt trên trái tim từ ái (võ đạo, âm nhu) ";
- Với biểu tượng âm không có
thiếu dương bên trong và dương không có thiếu âm, võ sinh
sẽ hiểu là đòn thế cương nhu phối triển (võ thuật) tung
ra liên tục theo võ lý âm dương nhưng vẫn có thể ngừng
lại theo tinh thần võ đạo (Tâm từ ái).
Biến "Đạo " siêu hình của Kinh
Dịch thành Đạo hữu hình trong võ lý
Đạo siêu hình của các tín ngưỡng
Đông Phương là nguồn cội của vũ trụ. Từ Đạo vô hình,
vô tướng, Ông Nguyễn Lộc coi Đạo như một thực thể ứng
dụng cụ thể vào võ thuật bằng cách :
- Đạo có hình tướng, màu sắc
: vòng tròn hay đường viền trắng; chúng ta có thể nhìn thấy
Đạo vẽ trên phù hiệu dưới hình ảnh Vòng tròn [13]
màu trắng và đường hình chữ S trắng vẽ giữa âm dương.
- xác định nhiệm vụ của Đạo
: một thực thể có thể khắc chế, điều hòa, hóa giải,
bao dung hai thực thể âm-dương luôn luôn trong trạng thái thôi
thúc, đối nghịch. Có nghĩa Đạo dùng để điều hòa các
thế võ theo võ lý âm dương.
Giải thích Đạo trên phù hiệu
Đường trắng chữ S
Thêm đường trắng giữa hai nguyên
lý âm dương (xanh và đỏ) diễn tả võ đạo của môn phái
với điều giảng dạy: Vovinam không dùng võ để sát hại
hay trả thù người. Vì vậy đường trắng chữ S biểu tượng
lời khuyên người môn đồ Vovinam khi phát đòn phải biết
dừng lại lúc nào để bảo toàn mạng sống của đối phương
tức là tuân thủ theo tôn chỉ của môn phái " Chỉ dùng võ
để tự vệ, để cảnh cáo và để cảm hóa người".
Vòng tròn [14]
màu trắng
Vòng tròn màu trắng khép kín bên
ngoài và chứa bên trong nguyên tố âm dương là biểu tượng
võ đạo Vovinam. Ý nghĩa hình vẽ này là võ đạo (vòng tròn
trắng) có nhiệm vụ điều hòa và khắc chế sự tương tác
của Âm và Dương tức võ thuật nằm bên trong vòng tròn đạo.
Nghĩa là, cho dù tương tác, đối nghịch, xung đột thế nào
thì vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát, quản lý của " Võ Đạo"
tức " Cách mạng tâm thân " do Sáng Tổ quan niệm.
4. Áp dụng luật âm
dương
Qua quan sát các đòn thế cổ truyền,
Sáng Tổ nhận thấy t? tư thế phòng thủ (âm), khi bị tấn
công, tức khắc những chiêu thức chống trả được tung ra
(dương), trong quá trình đáp trả, bị phản công thì những
chiêu thức né, tránh, hóa giải lại trở về phòng thủ (âm)
đồng thời biến thế phản đòn tích cực (dương). Cứ như
thế thủ, công, phản, biến liên hoàn như một vòng tròn xoay
chuyển. Điều này nói nên ý nghĩa trong võ thuật tại sao
phải âm dương phối triển tức thế công thế thủ phải
hòa hài để giữ quân bình âm dương. Những quan sát trên
dẫn ông Nguyễn Lộc đến những nhận xét sau về âm dương
phối triển :
- Nếu võ sinh chưa đạt đến trình
độ cao thì có cương mà không có nhu có thể thiếu linh hoạt
biến hóa, làm giảm tiến bộ. Trái lại chỉ có nhu mà không
có cương sẽ mất hiệu lực tối đa.
-Nhu chỉ có thể hóa giải chớ
không khắc chế, tức thụ động.
Từ nhận xét đó, Sáng Tổ rút
ra tính chất âm (mềm, tĩnh) dương (cứng, động) tương phản
làm căn bản cho định luật Cương Nhu Phối Triển áp dụng
vào võ lý hướng dẫn võ thuật.
5. Áp dụng võ lý
Cương Nhu Phối Triển,
Cây tre mang đặc tính cương nhu
được dân Việt từ ngàn xưa dùng làm vũ khí chống xâm lăng.
Do đó, Sáng Tổ đã lấy cây tre làm biểu tượng nguyên lý
cương nhu phối triển và áp dụng vào trong võ thuật Vovinam
như sau.
Áp dụng phương pháp té.
Bắt đầu môn sinh chưa có công
phu mấy nên phải học phương pháp té: Trước tiên là dùng
nhu trước tức tập té thân người mềm (nhu) ngã trên sàn
gạch, xi măng cứng (cương) mà không thương tích. Cách dung
hòa, phối hợp cương nhu là người té phải áp dụng phản
lực ngang tức lăn người theo đà té ngay khi vừa rơi xuống
hay dùng sự trượt là kết quả của sự cọ sát của hai
phản lực cứng mềm.
Cách áp dụng nhu.
Gặp sức đánh quá mạnh thì phải
biết luồn tránh, hoặc té xuống thoát hiểm rồi mới tìm
cách phản công, nếu bị đánh té (cương) thì phải biết
áp dụng đúng cách té (nhu) để không nguy hiểm.
Cách áp dụng cương
Từ bậc sơ Đẳng (lam đai) mới
đi vào tấn tức cương (phương pháp đứng hoặc di chuyển
vững vàng lúc giao đấu). Nếu khi nào cảm thấy không chịu
nổi sức mạnh quá đáng (cương) thì sẽ chuyển tấn né tránh
hoặc té xuống nghĩa là chuyển từ cương sang nhu phù hợp
với luật cương nhu phối triển.
Áp dụng cương nhu
Hệ thống võ thuật Vovinam bao gồm
những thế nhu nhuyễn, các đòn cương mãnh và ngay trong bản
thân từng đòn thế cũng chứa đựng sự kết hợp giữa cương
– nhu, giống như sự giao hòa giữa âm – dương trong thiên
nhiên và xã hội. Cương Nhu phối triển không đơn thuần là
sự bao hàm cả 2 tính cương và nhu mà nó linh động, biến
hóa. Có lúc cương nhiều, nhu ít; có khi cương ít nhu nhiều;
có lúc nửa cương nửa nhu, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể.
Thí dụ lúc bị tấn công, võ sinh thường né tránh (nhu), rồi
mới phản công (cương). Khi tung một cú đá tấn công hoặc
phản công (cương) vào thân thể đối phương, võ sinh phải
dùng tay che mặt và bảo vệ hạ bộ để thủ (nhu). Ngay trong
phương pháp luyện tập té ngã (không nguy hiểm, không đau),
võ sinh phải lên gân và co tròn thân người lại (cương),
sau đó lăn tròn thân người lúc ngã xuống (nhu) để hóa giải
lực tấn công của đối phương và sức rơi của trọng lượng
cơ thể. Nhờ vậy, võ sinh Vovinam tập luyện đòn thế và
té ngã trên sàn gạch bình thường như trên thảm.
Theo khái niệm cổ sơ, Âm dương
dùng để diễn tả thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi
sự vật trong toàn vũ trụ . Âm dương là hai mặt quan hệ
đối lập nhưng hỗ trợ nhau, thí dụ võ thuật lấy bản
thân người tấn công và người phòng thủ làm hai mặt này
như bảng phân tích âm dương dưới đây.
|
Âm |
Dương |
Thuộc tính
hiện tượng |
Đàn bà, Ngực,
Tay mặt, Hạ |
Đàn ông, Lưng,
Tay trái, Thượng |
Võ thuật |
Nhu, thế thủ,
Chân hạ xuống
Tay rút về, Té, lăn, né |
Cương, thế
công, Chân đá lên
Tay đấm, Tấn, phản công |
Võ đạo |
Tâm từ ái
|
Bàn tay thép
|
Từ ý lực của Sáng Tổ Nguyễn
Lộc, các võ sư môn đệ tâm huyết tiếp tục triển khai không
ngừng hệ thống võ thuật và võ đạo của Vovinam đã giải
thích tại sao mà môn phái này đứng vững và phát triển tại
quốc nội cũng như ở hải ngoại mặc dầu trải qua bao biến
cố quan trọng như bị cấm cản dưới thời TT Ngô Đình Diệm,
chưởng môn bị cộng sản cầm tù sau 1975...
_________________________
[1]
- Nhân sanh quan là hệ thống
tư tưởng triết học xem xét nguồn gốc, sự sống sự chết,
mục đích và ý nghĩa của đời sống con người
[2]
- Cũng giống như chữ đạo trong
Trà đạo, Hoa đạo, Võ đạo, Kiếm đạo, Cung đạo...
[3]
- - Trần Huy Phong, Cách mạng
tâm thân, Tổng liên đoàn VVN-VVĐ thế giới ấn hành, Paris,
1996
[4]
-
[5]
- VS Trần Huy Phong gọi là Định
lý tam tạo
[6]
- Tức định lý tam tạo (loi
des trois élements créateurs)
[7]
- Bắt đầu chữ đạo
道
bằng
hai phết 丶丿 là điểm âm dương nhị khí, kế dưới một
ngang 一 tức là âm dương hiệp nhứt 䒑 nên chi một
sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật rồi vạn vật cũng quay
về hiệp một, vậy trong chữ đạo có hàm ý âm dương, động
tịnh, động thì sanh hóa, tịnh thì vô hình vô ảnh. Kế dưới
chữ tự 自 nghĩa là tự nhiên mà có, là tự tri, tự
giác chớ chẳng ai làm giùm cho mình; trên dưới ráp thành
chữ Thủ 首 là trên hết, là nguồn gốc Càn Khôn Vũ Trụ,
vạn vật ; chữ đạo 道 thuộc bộ xước辵 , chợt đi chợt
dừng lại, bên hông bộ xước có chữ tẩu ? nghĩa là chạy,
tức là vận chuyển biến hóa
[8]
- VS Trần Huy Phong gọi là Định
lý thường dịch (Loi de non permanence)
[9]
- Chữ dương 陽 gồm hai phần:
bên trái là bộ phụ là núi đất,
bên phải có chữ nhựt日 nhật là mặt trời đứng trên hàng
ngang, ý nói mặt trời đã mọc lên khỏi đường chân trời,
bên dưới là chữ vật物 vật v? hình các tia sáng rọi xuống;
Chữ âm 陰 , bên trái có bộ phụ là núi đất, bên phải
phía trên là chữ kim 金 có hình như cái nóc nhà, bên dưới
chữ vân雲 mây ý nói che khuất
[10]
- Trước năm 1975, VS Trần Huy
Phong và tác giả có tình bạn bè. Với tư cách là giáo sư
Đại Học Văn Khoa Sài Gòn kiêm nhiệm giám đốc Đại học
xá Minh Mạng (nam sinh viên) và Thanh Quan (nữ sinh viên) , tác
giả cùng với VS Trần Huy Phong và VS Phan Quỳnh mở võ đường
Vovinam tại Đại học xá Minh Mạng.
[11]
- Võ lý là lý thuyết căn bản
hướng dẫn và giảng giải võ thuật của một môn phái
[12]
- Võ thuật là danh từ chỉ chung
các loại kỹ thuật dùng sức (đòn, thế, miếng, vũ khí)
để ứng chiến với người và vật
[13]
- Vài võ sư gọi là đạo thể
[14]
- Vài võ sư gọi là đạo thể
|