Vovinam
- Việt Võ Đạo do cố võ sư Nguyễn Lộc sáng tạo tại
Việt Nam và khai sáng năm 1938. Ông lấy môn võ, môn vật và
đạo lý sống cổ truyền Việt Nam làm nồng cốt để nghiên
cứu và thâu góp tinh hoa của các võ phái cổ kim trên thế
giới để đi đến hình thành môn võ riêng biệt lấy tên
là "VOVINAM", được hiểu là "Võ Việt Nam" và cũng để cho
người ngoại quốc dễ đọc dễ nhớ. Vậy muốn tìm hiểu
võ thuật và võ đạo của môn phái này, chúng ta hãy quan sát
hành trình sáng tạo môn phái Vovinam của ông Nguyễn Lộc đi
từ võ cổ truyền Việt Nam .
Võ học
cổ truyền Việt Nam
|
Căn cứ vào lịch sử tranh đấu Việt Nam,
võ kinh hay võ trận là trọng yếu trong võ học cổ
truyền Việt Nam sau đó mới đến võ lâm.
Võ kinh hay võ trận
Võ trận là nền tảng của các kỳ thi tuyển
chọn võ quan. Đó là loại võ ta được các triều đại vua
chúa xưa đúc kết lại để huấn luyện binh sĩ và tuyển
lựa võ tướng bằng khảo thí cùng với binh thơ, đồ trận,
nhằm phục vụ công cuộc bảo vệ và mở mang bờ cõi. Vài
thí dụ võ trận như:
Ðánh Gậy (roi, hèo, trượng, tiên hay côn)
là môn võ cổ truyền rất thông dụng từ thời Phù Đổng
Thiên Vương dùng gậy tre phá giặc. Thuật đấu dáo được
Lý thường Kiệt dùng dáo chiến thắng giặc Tống ở
sông Như Nguyệt,
Thời nhà Lê, (theo Lê triều tạo sĩ
đăng khoa lục) 3 môn thi chính :1) cử trọng, 2) côn, quyền,
đao, bài, kiếm, thuẫn khiên mộc, 3) bắn súng ô thương.
Các võ sinh còn qua các môn thi :
1. Hỏi 10 câu trong các sách binh thư,
2. cưỡi ngựa đấu giáo, đấu kiếm, bắn
cung, ném lao (phóng thủ tiễn), đấu khiên đánh mộc (1)
...
3. Sát hạch về binh thư, bài binh bố trận,
kế hoạch chiến đấu.
Ðến thời nhà Nguyễn, thi hương lấy cử
nhân võ có sách quả tạ, múa đoản đao, khiên lăn, giáo dài,
thi múa côn quyền theo điệu Ngũ Môn, Trực thủ, Ô du. Các
bài thi võ cổ truyền nổi tiếng như Ngọc Trản, Ngũ Môn
côn, Lão Mai... Còn thi hội, thí sinh phải biết xử dụng thập
bát ban võ nghệ (cung, nỏ, súng, đao, kiếm, mâu, thuẫn, phủ,
việt, kích, roi, giản, qua, thủ, xua, bà đẩu, miên thăng,
thao sách, bạch đá). Sau khi trúng tuyển tú tài, cử nhân và
tiến sĩ võ khoa (Tạo sĩ), các tân khoa phải thi phần phúc
hạch hỏi 3, 4 câu ở sách võ kinh (Binh Thư Yếu Lược của
Trần Hưng Đạo, Hổ Trướng Khu Cơ của Ðào Duy Từ) và Tứ
Tử ( sách binh thư của Tôn Tử, Ngô Tử, Tư Mã Phá và
Uất Liên Tử) để chứng tỏ khả năng trong cách dùng
binh pháp đánh giặc mà trong sách võ kinh đã ấn định. Cả
võ kinh và võ lâm đều bao gồm đủ các môn: quyền cước,
binh khí, vật và công phu.
Võ lâm
Võ lâm là loại võ phổ biết trong
nhân dân được chia ra làm hai loại chính: "Võ Ta" xuất
xứ từ Việt Nam và "Võ Tàu" du nhập từ Trung Hoa.
Võ ta
Võ ta là các môn võ do chính con người Việt
Nam sáng tạo phát triển suốt chiều dài lịch sử, từ Bắc
vào Nam, tạo nên những vùng đất võ khá nổi tiếng như:
Yên Thế ở Bắc bộ, Bình Định ở Trung bộ, Tân Khánh Bà
Trà ở Nam bộ... Tuy vậy, võ ta ở cả ba miền Bắc, Trung,
Nam đều có những bài quyền, bài binh khí giống nhau từ tên
gọi, bài thiệu (tức những câu thơ chỉ tên đòn thế trong
bài) cho đến các đòn thế kỹ thuật chính yếu trong bài.
Chẳng hạn như các bài: Ngọc Trản Quyền, Lão Mai Quyền,
Siêu Xung Thiên...
Quyền cước của võ ta bao gồm những đòn
tay, đòn chân tấn công hay phòng thủ, cộng với việc sử
dụng các bộ phận khác của cơ thể như: đầu, vai, hông,
mông... theo chiều hướng khác nhau để tạo thêm hiệu quả.
Hầu hết các môn võ ta đều có những bài tập tổng hợp
toàn bộ các căn bản nói trên gọi là bài quyền (hay quờn,
thảo) theo từng trình độ thấp lên cao.
Binh khí của võ ta rất phong phú, có đủ
loại trường đoản khác nhau và cũng có 18 loại binh khí giống
như võ Tàu. Tuy nhiên, trong thực tế, số lượng binh khí của
võ ta xem ra nhiều hơn 18 loại (2),
trong đó có nhiều loại khá đặc sắc như: sợi dây thừng,
chiếc khăn dài...
Võ ta còn có môn vật dùng làm nền tảng
cho sáng tác nhiều thế võ Vovinam. Môn Vật có từ thời
tiền sử như đô vật Lý Ông Trọng thờ ở Chèm, Đô Lỗ,
Ðô Nồi (257-207 trước tây lịch) được thờ phụng tại
Cổ Loa. Ðô Chính ra giúp hai Bà Trưng được vinh tôn Thần
Hoàng làng Mai Động; Ðô vật Mạc Ðăng Dung đã cướp được
ngôi nhà Trần. Hai đô vật nổi tiếng là tượng hai ông Đá
Rãi được thờ ở đền Lý Bát Ðế thờ tám vị vua nhà
Hậu Lý. Tại một số đền miếu đình, tượng đô vật được
chạm trên gỗ.
Ðấu vật là một tục lệ truyền thống
đề cao tinh thần thượng võ, dùng luyện sức so tài chọn
người ra giúp dân giúp nước. Tại Bắc Việt, rất nhiều
làng có Thày võ, lò võ, lò vật, mở Hội Vật. Môn vật có
nhiều đòn miếng đặc trưng như kê, ngáng, đệm (3),
vét, sườn tay trong, đánh gẩy... Chính dựa trên võ thuật
cổ truyền và môn vật này của Việt Nam mà ông Nguyễn Lộc
đã sáng tạo thành môn phái Vovinam.
Võ tàu
Võ tàu (Thiếu Lâm Nam và Bắc phái, Võ Đang,
Nga Mi, Không Ðộng, Bạch Hạc, Bát Quái Chưởng...) cũng như
tín ngưỡng (thờ Quan Công, cầu cơ thỉnh Tiên...) đã theo
gót các lưu dân Hoa Kiều xâm nhập vào đồng bằng Cửu Long.
Lịch sử các môn phái võ Trung Hoa tại miền
Nam bắt đầu từ năm 1673, Chúa Nguyễn cho phép 3000 binh sĩ
với 50 chiến thuyền của các bại tướng nhà Minh vào định
cư ở các vùng sau.
Binh sĩ của Trần Thượng Xuyên vào cửa
biển Cần Giờ, lên đồn trú ở Bàn Lăng xứ Ðồng Nai (4).
Binh sĩ Long Môn của Dương Ngạn Ðịch vào
cửa Tiểu, cửa Ðại rồi đến vùng nước ngọt ở Mỹ Tho
và định cư ở vùng Ba Giồng (5)
rất thuận lợi làm canh nông. Tiếp theo, tướng Văn Trinh dẫn
binh sĩ của Long Môn đến đóng dinh trại ở địa phương
Mỹ Tho (6).
Cũng trong thời kỳ này, người Hoa đến
quy tụ tại Hà Tiên với Mạc Cửu để giao thương với ghe
thuyền qua lại trong vịnh Thái Lan.
Từ thế kỷ XVI, áp lực nhân khẩu, loạn
lạc đã thúc đẩy một số nông dân hoa kiều nhất là nông
dân Tiều (7)
đến định cư tại Bạc Liêu, Ba Xuyên, Cà Mau.
Trong dân gian, võ tàu được phân biệt
theo quê quán bên Trung hoa của thày võ nên người ta hay nghe
nhắc đến những danh từ như võ Tiều, võ Hẹ, võ Quảng,
võ Hải Nam, võ Phúc Kiến,...
Khi đến tuổi cắp sách đến trường, ông
Nguyễn Lộc đã được một vị lão võ sư khai tâm về những
thế võ và vật dân tộc. Đến khi khởi động ý tưởng xây
dựng một môn phái võ thuật và võ đạo đặc thù của người
Việt thì ông đã lấy đạo lý sống, môn vật và võ
cổ truyền Việt Nam làm nồng cốt để tiến đến hình thành
một môn phái qua cuộc hành trình sáng tạo.
Phương pháp sáng tạo Vovinam gồm 3 giai đoạn
: quan sát, rút ưu khuyết điểm, hệ thống hóa.
Khởi đầu, ông ghi lại trên giấy các quan
sát thế võ, các tìm tòi ưu khuyết điểm, so sánh thí nghiệm
các thế võ, phân tích tổng hợp v.v. để đi đến những
" thế " của Vovinam.
Quan sát
Ðịa điểm quan sát
Ông quan sát các sinh hoạt võ thuật tại
các lò võ, dự khán những trận tỉ thí võ đài, trình diễn
võ thuật, ... để rút tỉa những ưu khuyết điểm của các
thế võ, mạn đàm cùng một số võ sư thời danh hầu tìm
hiểu thêm các đòn thế hay, đẹp, hiệu quả của các môn
võ Trung Quốc, Nhật, Xiêm (Thái Lan), Quyền Anh...
Quan sát người luyện
võ
Thân thể người tây phương cao lớn, lanh
lẹ tiến lui nên rất thích hợp với môn quyền anh. Người
Nhật lùn, mập rất lợi thế trong lối giằng co nắm túm,
quăng quật. Người Việt mảnh khảnh có đặc điểm lanh lẹ
gan dạ, bền bỉ chịu đựng nên ông nghiên cứu sáng tạo
các đòn thế thích hợp với thể tạng người Việt.
Sau khi quan sát, ông nhận thấy môn nào cũng
có ưu điểm. Có môn thiên về cương, kỹ thuật cứng và
mạnh; có môn thiên về nhu, kỹ thuật linh hoạt, khéo léo,
uyển chuyển, ít dùng sức. Riêng các môn võ Việt Nam rất
độc đáo, không theo cương hay nhu nhất định mà biến hóa,
linh động tùy theo thể tạng mỗi người, mỗi địa phương.
Từ hai sự kiện chính yếu Cương-Nhu trong võ thuật mà ông
bắt đầu sáng tạo Vovinam thích hợp với người Việt.
Nhận xét ưu khuyết
điểm
Khi nghiên cứu võ cổ truyền Việt Nam, Trung
Hoa, kế đến các nền võ thuật đã và hiện có trên thế
giới, ông Nguyễn Lộc ghi lại trên giấy tờ các tìm
tòi, so sánh thí nghiệm, phân tích tổng hợp v.v. với mục
đích-phân tích những ưu khuyết điểm để nhằm :
- bổ túc và chung hợp, đồng thời rút
ra phương cách hóa giải hoặc khắc chế.
- Gạn lọc lấy tinh hoa của các môn phái
để dung nạp và áp dụng,
- cải tiến nền tảng võ thuật Việt Nam
bằng thông qua những bài bản xưa, đào sâu tinh nghĩa, kiện
toàn các thế võ bằng óc sáng tác theo phương pháp của ông
để đi đến những " thế " của Vovinam
Hệ thống hóa
Từ việc nhận ra thực chất của những
kỹ thuật, bài võ đi đến việc nhận rõ giá trị đặc thù
của từng môn võ, đồng thời đối chiếu với đặc điểm
tâm lý và thể tạng của người Việt Nam, ông nhận thấy
cần phải xây dựng một môn võ mang tính dân tộc, khoa học
và hiện đại. Từ nhận xét đó, ông hệ thống hóa :
- các thế võ do ông sáng tạo ra thành một
môn phái riêng đặt tên là Vovinam,
- phương pháp huấn luyện mới,
- Phân chia đẳng cấp theo trình độ võ
thuật.
Từ đó, các võ sư kế truyền liên
tục cải tiến hệ thống tổ chức khiến cho môn phái ngày
một phát triển từ quốc nội lan tràn ra thế giới trên 40
quốc gia khác.
Trước hiện tượng phát triển không ngừng
của Vovinam trên thế giới thì phải kể công đầu của các
võ sư, sau đó chúng ta phải kể các sự kiện sau.
Ảnh hưởng phương pháp nghiên cứu của
Sáng Tổ
Tính thực dụng,
Vận dụng các nguyên lý khoa học v.v.
Nhò vậy mà môn phái Vovinam đa dạng, phong
phú mang nhiều nét đặc trưng
Ảnh hưởng phương
pháp nghiên cứu của Sáng Tổ
Sáng Tổ truyền dạy rằng võ thuật phải
luôn luôn canh cải, thu nạp tinh hoa các môn phái khác và sáng
tạo ra các thế võ mới... Từ nguyên tắc đó mà ông đã
trả lời tại sao ông không viết sách dạy Vovinam. Theo lời
bạn của ông là Bác sĩ Đàm Quang Thiện kể lại là trước
khi vĩnh biệt trần thế, Sáng Tổ đã thu thập tất cả giấy
tờ, có ghi các tìm tòi, so sánh thí nghiệm, phân tích tổng
hợp v.v. để đi đến những " thế " của Vovinam. Một hôm,
trước mặt BS Ðàm Quang Thiện, Sáng Tổ bật lửa đốt hết
tập tài liệu đó và nói : " Chúng ta không bao giờ nên
có ý định đặt những sáng kiến của chúng ta thành qui tắc
bất di bất dịch, để người đồng thời và hậu thế phải
theo. Vì làm như thế là ghìm đà tiến bộ của hậu sinh lại...
vì thế không thể ghìm đà tiến bộ của Vovinam trong khuôn
khổ một cuốn sách được... và tin rằng nếu Vovinam có chân
giá trị thì sẽ không thất truyền được".
Nguyên tắc chỉ đạo này đã mở đường
cho các võ sư cải tiến không ngừng về võ thuật và tổ
chức môn phái được thể hiện qua các công trình nghiên cứu
sau :
Luận án lên cấp hồng đai là một công
trình nghiên cứu võ học thí dụ như đề tài luận án :"
Ðối chiếu giữa võ thuật tây phương và Vovinam-Việt võ
đạo ".
- Các sáng tạo chiêu thức của
các võ sư. Thí dụ như các bài đơn luyện (quyền tay
không, quyền có binh khí), song luyện (2 võ sinh thực hiện
liên tục một số đòn thế tay không hoặc có vũ khí theo
quy ước), đa luyện (3-4 võ sinh thực hiện liên tục một
số đòn thế tay không hoặc có vũ khí theo quy ước) chính
là sự kết nối hợp lý các khóa gỡ, các thế phản đòn
căn bản...để tạo điều kiện thuận lợi cho võ sinh
ôn luyện. Ðây chính là nguyên tắc " một phát triển thành
ba " trong hệ thống kỹ thuật của bộ môn ...
Với tinh thần sáng tạo không ngừng mà
Vovinam lại có thêm một số bài Nhu khí công quyền dành cho
tất cả võ sinh và các bài Liên hoàn đối luyện dành cho
người có tuổi bao gồm những động tác nhẹ nhàng và không
té ngã. Do đó các thế võ không ngừng được bổ sung trong
40 năm qua, hệ thống đòn thế, bài bản tay không và cả vũ
khí (dao, kiếm, côn, búa, mã tấu, tay thước, đao, đại đao...)
của Vovinam đảm bảo những đặc trưng cơ bản ban đầu
cũng như vừa mang tính truyền thống Việt Nam và vừa mang
tính hiện đại.
Tính thực dụng
Ðây là điểm nổi bật nhất của Vovinam
là thay vì phải mất một thời gian luyện tấn, đi quyền
rồi mới học phân thế, võ sinh Vovinam được Huấn luyện
viên hướng dẫn ngay các thế khóa gỡ (khi bị nắm tóc, nắm
áo, nắm tay, bóp cổ, ôm ngang...), phản đòn căn bản (khi
bị đấm, đá, đạp...) song song với những kỹ thuật gạt,
đấm, đá, chém, té ngã... ngay từ các buổi tập đầu tiên.
Đây là tư duy khá mới mẻ của cố võ sư Nguyễn Lộc vào
những năm cuối thập kỷ 30, nhằm giúp võ sinh có thể tự
vệ hữu hiệu được ngay. Tính thực dụng đó không những
phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ mà càng hợp
lý và có giá trị đối với thời đại ngày nay, vì võ sinh
không chỉ tập trung thời gian cho việc luyện võ mà còn có
nhiều nhu cầu và nhiệm vụ thiết yếu như: học hỏi thêm
một số lãnh vực khác (văn hóa, nghiệp vụ...) cũng
như giải trí, làm việc để mưu sinh...
Vận dụng các nguyên
lý khoa học
Cũng như các võ phái khác, kỹ thuật Vovinam
vận dụng các nguyên lý khoa học vào võ thuật như: lực ly
tâm (các thế xoay người, gạt, đỡ, đấm đá, đánh chỏ...theo
hình vòng cung hoặc vòng tròn); lực đòn bẫy (các thế bẻ,
khóa, gày, móc, chặn...), lực xoáy (các thế đấm thẳng...),
lực co gấp và sức bật (các đòn quăng, quật, vật, nhảy...)
v.v. hầu giúp võ sinh ít hao tốn sức lực khi thi triển đòn
thế mà vẫn đạt hiệu quả cao.
Ðặc biệt, các đòn chém quét, chém triệt,
chỏ triệt (lực tay và chân đánh cùng lúc nhưng nghịch chiều),
triệt ngã (lực tay và lực chân đánh cùng lúc và cùng chiều)
cùng các thế quặp cổ (bất ngờ tung ra khi đối phương bất
cẩn, lảo đảo...) trong hệ thống đòn chân cơ bản được
sử dụng để đánh ngã đối phương cũng là một đặc trưng
kỹ thuật quan trọng của Vovinam.
Ðặc trưng :Tính liên
hoàn
Ðặc trưng tiếp theo là tính liên hoàn.
Một đòn thế Vovinam tung ra luôn luôn phải có tối thiểu
3 động tác. Thí dụ: muốn phản đòn đấm thẳng tay phải
của đối phương, võ sinh sẽ bước chân trái sang bên trái
cùng lúc dùng tay phải gạt tay đấm đối phương để tránh
né ; sau đó phản công bằng cách dùng tay trái chém vào mắt
hay mặt và kết thúc bằng cú đấm thấp tay phải vào bụng
đối phương; hoặc thế chiến lược (liên hoàn tấn công)
số 1 bao gồm cú chém úp bàn tay vào mắt hoặc mặt, bồi
thêm cú đấm thấp tay phải vào bụng và tiến chân phải
lên dùng chỏ phải đánh vào thái dương của đối phương.
Nói chung , có thể đó là những động tác liên hoàn bằng
tay (chém, xỉa, đấm, bật, chỏ...), hay bằng chân (đá, đạp,
quét, cài, móc...), hoặc đòn tay đi kèm với đòn chân (chém
quét, triệt ngã...). Lối ra đòn này nhằm chiếm thế thượng
phong khi tự vệ và chiến đấu, phù hợp với thể tạng gọn
gàng và nhanh lẹ của người Việt Nam, đồng thời cũng là
biện pháp đề phòng trường hợp 1 hoặc 2 đòn ban đầu
đánh chưa trúng đích.
Phương thức xây dựng
môn phái
Muốn tồn tại, phát triển với thời gian
và không gian địa lý trên thế giới, các môn phái võ lớn
đều phải hội đủ 4 yếu tố chính: Võ lý, võ thuật, võ
pháp (8),
võ đạo.
Võ thuật Vovinam bắt nguồn từ võ và vật
cổ truyền và được sáng tạo trong một môi trường văn
hóa xã hội cổ truyền Việt Nam và trong vùng văn hóa Viễn
Ðông (Trung Hoa, Nhật, Việt Nam, Ðại Hàn...). Vùng văn hóa
này chịu ảnh hưởng xâu đậm lý thuyết Kinh Dịch và Tam
Giáo (hiểu theo hệ tư tưởng chứ không phải tín ngưỡng)
trong lãnh vực văn hóa (văn học, nghệ thuật, hội họa, binh
pháp, võ nghệ...).
Vì sáng lập Vovinam trong xã hội cổ truyền
Việt nam và cái nôi văn hóa Viễn Ðông, nên Sáng Tổ chịu
ảnh hưởng tư tưởng của Tam Giáo khi xây dựng võ lý, v
õ thuật, võ pháp, võ đạo cho môn phái rồi tiếp theo được
các môn sinh hệ thống hóa và triển khai rõ ràng :
Võ lý (Võ thuyết) là lý thuyết căn bản
giải thích và hướng dẫn võ thuật. Võ lý Vovinam dựa trên
luật Âm-Dương của Kinh Dịch biến hóa mà hình thành định
lý Cương Nhu Phối Triển chi phối mọi đòn thế của võ thuật,
Võ thuật tức là kỹ thuật dùng sức (đòn,
thế, miếng, vũ khí) để ứng chiến với người và vật,
Võ pháp. Võ pháp là khuôn phép (luật) của
môn phái đặt ra cho môn sinh tuân theo. Võ pháp của Vovinam
qui định tôn ti trật tự theo Khổng giáo: Mục đích, lập
trường, tôn chỉ, môn qui, võ phục, hệ thống đẳng cấp...
Võ đạo. Võ đạo là tinh thần, võ thuật
là thể xác của võ sinh. Võ đạo hướng dẫn tinh thần võ
sinh trong cách dụng võ. Căn bản võ đạo Vovinam là Cách mạng
Tâm-Thân phảng phất cái Tâm của Phật giáo vì vậy mà "Ðằng
sau Vovinam là triết học".
Nhờ hội đủ 4 yếu tố trên mà Vovinam
phát triển không ngừng từ năm thành lập (1938) và hiện nay
đã trở thành một môn phái có tầm vóc quốc tế.
Lạp Chúc Nguyễn
Huy
4025 Place Lafortune Ouest
St Laurent, H2M 1A7 Quebec
Canada
Email : nguyenhuyquebec@yahoo.ca
(1) - Ðấu khiên,
đánh mộc là võ trận chủ yếu đánh tan quân Minh tại Chi
Lăng
(2) - Côn, kiếm,
đao, thương, giáo, kích, xà mâu, đinh ba, bồ cào, thiết bản,
song tô, song xỉ, song câu, bút, phủ (búa), chùy, cung tên, lăn
khiên và 54 bài múa võ (võ đường Phan Thọ sở hữu)
(3) - Kê : dùng
hông hoặc vai làm điểm tựa để quăng ngã đối thủ
Ngáng (cản) dùng chân quyệt hay gạt cản
chân đối thủ làm mất thăng bằng cho té ngã
Ðệm : dùng đầu gối hay bắp đùi lót
đằng sau chân đối thủ để đẩy cho té ngửa
(4) - Trịnh
Hoài Đức, Gia Ðịnh Thành Thông Chí, Nha Văn Hóa, quyển trung,
Sài Gòn, 1972, tr. 9-10
(5) - Ngày nay
là Tân Hiệp, Tân Lý Tây, Bến Tranh (Định Tường).
(6) - Trịnh
Hoài Đức, Gia Ðịnh...sđd, quyển hạ, tr.119.
(7) - Người
phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Ðông đến định cư đông đảo
nên có câu :
Bạc Liêu nước chảy lờ đờ,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều
Châu.
(8) - Ngay
như võ vật Liễu Đôi xuất xứ từ Hà Nam cũng có 3 yếu
tố chính. Đạo: Rèn luyện thân thể. Thuyết: Mượn sức
người vật người. Pháp: về võ thuật. Võ Bình Định xuất
xứ từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đến nay đã truyền được
hơn 20 đời truyền nhân vẫn giữ nguyên giá trị Lừa miếng.
Võ Nhất Nam ở Thanh Hoá và Nghệ An xuất thân từ cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông cũng có tiêu chí rõ rệt võ học.
|