Thương nhớ
Bến-Tre
"xứ Dừa"

*****


Vườn dừa bên sông ở Bến-Tre
An-Tiêm MAI-LÝ-CANG
(Paris)
Sông nước mênh mông rợp bóng dừa

Dừa là một loại trái cây có đặc tính sinh học rất là đặc biệt, và người ta có thể dễ dàng canh tác ở trên bất cứ những cánh đồng đất đai nghèo dinh dưỡng. Tuy nhiên, thích hợp nhất vẫn lại là những vùng thổ ngơi có đất thịt pha cát và thoát thủy dễ dàng. Tại miền Nam, tỉnh Bến-Tre là nơi có tổng sản lượng dừa nhiều nhất ở trong cả nước. Do vậy, mà từ lâu người ta đã không ngạc nhiên khi nghe có tiếng đồn gọi địa phương ở nơi đây là xứ Dừa. Vả lại, hiện nay thì hầu hết trong những tên gọi của các tỉnh thành ở VN thì người ta thường dùng chữ để viết hay để nói ra chẳng hạn như là thành phố Nha-Trang, tỉnh lị Hà-Giang v.v. Hoặc gọi gọn thẳng tên đích danh về hành chánh của nó, như là Bến-Tre, chớ hiếm có mấy ai từng nghe qua về cái tên của một tỉnh lị nào đó từng đã được người ta dùng tên riêng của một loại thổ sản đặc trưng ở địa phương, rồi ghép lại mà gọi ra là xứ của thổ sản đó.

Trừ một trường hợp ngoại lệ, là trong dân gian xưa nay thì người ta thường hay quen miệng để gọi ra cái tên của tỉnh Bến-Tre là xứ Dừa.

Trong lịch sử địa lý ở đất phương Nam, thì Bến-Tre tuy là một địa phương ở miền Tây cùng chịu chung ảnh hưởng của vùng ĐBSCL nhưng lại có điểm đặc biệt là người dân canh tác quá nhiều cây dừa chiếm đến cả 40% diện tích đất đai trồng dừa trong cả nước. Và cũng thử nếu muốn đem so với từng quốc gia thuộc Hiệp hội dừa châu Á - Thái-Bình-Dương (có diện tích đất đai trồng dừa lớn hơn), thì người ta mới được biết rằng năng xuất thu hoạch dừa ở Bến-Tre đã trải qua có những thời kỳ vượt trội chiếm được tỉ lệ bình quân cao hơn cả Phi-Luật-Tân, Nam-Dương và Ấn-Độ. Đó là thời kỳ của năm 2015, thu hoạch dừa Bến-Tre được ước tính với sản lượng khoảng 576,9 triệu trái. Còn nói riêng về phần lợi ích của các loài cây ăn trái, thì dừa là một loại cây đặc biệt do nhờ có rất nhiều công dụng để tạo ra thành các thứ sản phầm tiêu dùng hằng ngày.


Các loại dừa ở Bến-Tre

Cây dừa có tên khoa học là Cocos nucifera, thuộc chủng "var.typica" thích hợp với miền nhiệt đới có những điều kiện sinh thái khác nhau. Ích lợi trước tiên của cây dừa là cho nước trái dừa tươi, rồi tới cơm dừa khô được nạo sấy. Và ngoài kẹo dừa, mứt dừa, bột sữa dừa, sữa dừa, rượu dừa, dầu dừa ép tươi, thì còn có thêm cả yaourt dừa, phomat dừa, xà phòng. Phần còn lại của cả cây dừa được dùng vào thủ công nghệ để biến chế thành các dụng cụ lợi ích hằng ngày như gáo dừa, bình tích, chén, đũa, muỗng, nĩa, làm cột nhà, mái che lợp nhà, làm nón, dây thừng, võng, rế nồi, tấm chùi chân, tro dừa v.v. Ngày xưa, khi chưa có dầu hôi, thì người dân thường hay quen thuộc với cây đèn đốt bằng dầu dừa. Nói tóm lại, từ lá, thân, trái, rễ, xơ, củ hủ dừa cho đến đuông dừa, chuột dừa cũng đều có giá trị về mặt ẩm thực và thủ công nghệ. Hay đặc biệt như để làm thành các hình thức quà lưu niệm, trái cây chưng bày dịp Tết Xuân về có in chìm chữ nghệ thuật vào sản phẩm (dừa), hoặc đã được tạo dáng có hình hồ lô.


Dừa hình hồ lô

Dừa khắc chữ bày bán trong dịp Tết

Từ lâu, đất phương Nam từng có câu ca dao thú vị là:

Thấy dừa thì nhớ Bến-Tre
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp-Mười

Đi thực tế, thì đời sống tương đối sung túc của người dân ở Bến-Tre từ hằng bao năm qua được nâng cao cũng là nhờ vào lợi tức thu nhập góp phần không nhỏ từ ở cây dừa. Riêng ở tại Trà-Vinh và Bình-Định, thì người dân địa phương cũng có trồng dừa nhưng có diện tích canh tác ít hơn.

Trở lại dáng đứng Bến-Tre, một vùng thổ ngơi có cây dừa mọc um tùm, cạnh dòng sông rạch, ao hồ, trong sân nhà cửa, và khắp cả lối đi đường mòn làng mạc quanh co, khúc khuỷu. Hình ảnh xinh xinh của các vườn dừa xanh ngát nằm ở cách khoảng gần nhau từ thôn nầy sang qua làng nọ, từ xã nọ sang qua huyện kia, nhiều đến nỗi mà người ta mới đành phải quen mắt, quen miệng rồi đặt tên đặc biệt riêng cho nó là xứ Dừa. Với lợi thế có công dụng về nhiều mặt cũng như bao nhiêu loại cây trồng ăn trái tương tợ khác từ trái, lá, thân nhưng hoa dừa lại có thêm một ưu điểm khác, là còn để dùng vào việc khai thác nghề nuôi ong ngay tại trong các vườn dừa. Do vậy, cho nên gần đây người dân sở tại đã biết tận dụng khai thác thế mạnh nầy, để tạo dịp theo định kỳ đứng ra tổ chức về ngày lễ hội "Festival Dừa" với tầm vóc quốc gia, để nhằm mục đích khuyến khích, hỗ trợ nông dân mở rộng thêm diện tích canh tác trồng dừa.

Đồng thời, cũng để nhằm vào mục đích khác là giao lưu công nghệ sản xuất, bành trướng thị trường tiêu thụ, quảng bá các thương hiệu nổi tiếng đã được biến chế ra từ sản phẩm dừa. Và sau cùng, là cũng để muốn trưng bày, giới thiệu về phong cảnh xứ Dừa cho ngành du lịch ở khắp bốn phương mọi miền đất nước.


Festival Dừa ở Bến-Tre

Sản phẩm làm bằng cây dừa

Mặt nạ dừa, Lục bình làm bằng gáo dừa, Nhạc cụ dừa

Thủ công nghệ làm bằng cây dừa

Bến-Tre, là hai tiếng gọi thân thương dân dã làm sao mà mỗi khi mới nghe qua thì người ta sẽ không bao giờ có thể tránh khỏi được một sự cảm nhận dường như gần gũi nào đó ở trong lòng. Tuy nhiên, về mặt địa lý thì người ta có thể ví hình thù của tỉnh Bến-Tre như là một hòn đảo lớn nằm ở hạ lưu sông Tiền đang cố bám mình vào vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu-Long ở miền đất phương Nam. Lý do giản dị, là vì quanh vùng ranh giới của nó tiếp giáp với địa phương tỉnh khác thì chỉ toàn là những hệ thống sông ngòi, kênh rạch ăn thông nhau chằng thịt rồi cùng chảy vào sông cái. Và nếu thử đem tính cộng chung về hệ thống sông rạch kênh đào chảy quanh trong toàn tỉnh, thì người ta có thể ước lượng được khoảng chiều dài của nó lên gần tới 6000km rất là thuận tiện về mặt giao thông đường thủy.

Trung tâm thành phố Bến-Tre nằm cách thành phố Hồ-Chí-Minh 87km về phía Tây, và phải đi ngang qua địa phận của tỉnh Tiền-Giang và Long-An. Còn địa hình của Bến-Tre thì có hình rẻ quạt, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn của sông Tiền. Phía Đông giáp bể khơi, với chiều dài theo ven bờ là 65km. Phía Bắc giáp tỉnh Tiền-Giang, với đường ranh giới chung là sông Tiền chảy ra tận nguồn nhập vào biển Đông. Phía Tây-Nam giáp ranh tỉnh Vĩnh-Long và Trà-Vinh, với đường ranh giới chung là sông Cổ-Chiên. Ngoài ra, Bến-Tre còn phải được kể như là đã có bốn con sông lớn là Tiền-Giang, Ba-Lai, Hàm-Luông và Cổ-Chiên bao bọc, và những con sông đó đều nằm trong chín nhánh ở cuối nguồn của sông Cửu-Long đổ ra cửa biển.


Bản đồ tỉnh Bến-Tre

Tuy nhiên, đi thực tế thì cửa sông Ba-Lai ở Bến-Tre bây giờ đã bị xây đập ngăn mặn không cho nước biển tràn vào, cho nên dòng chảy tự nhiên lâu đời của nó hoàn toàn bị ứ đọng lại ở tại nơi đây. Còn cửa sông Ba-Thắc (Bassac) ở tại tỉnh Sóc-Trăng cũng vậy, ngày nay nó đã bị bùn đất bồi lắng làm cho dòng sông dần bị cạn và thu hẹp lại như một con kinh nhỏ.

Ngày xưa chín cửa sông Cửu-Long đổ ra biển gồm có: Cửa Tiểu, Cửa Đại, Ba-Lai, Hàm-Luông, Cổ-Chiên, Cung-Hầu, Định-An, Ba-Thắc (Bassac) và Trần-Đề nhưng hiện giờ chỉ còn lại có bảy cửa sông đổ ra biển mà thôi.


Đập Ba-Lai ngày nay Cửa Ba-Thắc ngày xưa

Tỉnh Bến-Tre giờ đây thì đã được phân chia ra làm ba thành phần địa lý gồm có cù lao An-Hòa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Và theo sự tái cấu trúc các cơ sở đơn vị hành chánh địa phương sau ngày thống nhất nước nhà, thì tỉnh Bến-Tre bây giờ có tất cả là 9 đơn vị hành chánh là thành phố Bến-Tre, huyện Châu-Thành, huyện Ba-Tri, huyện Bình-Đại, huyện Chợ-Lách, huyện Giồng-Trôm, huyện Thạnh-Phú, huyện Mỏ-Cày Bắc và huyện Mỏ-Cày Nam. Trong đó có tất cả là 164 xã, phường và thị trấn cùng với tổng số dân cư là 1.262.000 người, theo thống kê năm 2015.


Toàn cảnh thành phố Bến-Tre ngày nay

Chợ Bến-Tre và một góc thành phố

Ngày xưa, Bến-Tre chỉ là một phủ nằm trong tỉnh Vĩnh-Long thời kỳ còn Nam-Kỳ Lục-Tỉnh. Ngày nay, Bến-Tre cũng vẫn chỉ là một tỉnh ở miền Tây có cùng chung hoàn cảnh lịch sử địa lý, xã hội nhân văn, khí hậu địa phương giống y như là các tỉnh lân cận đã từng phải chịu ảnh hưởng rất nhiều vào điều kiện môi trường đất đai của vùng ĐBSCL. Chính vì vậy, mà ngành nông nghiệp trồng lúa lúc nào cũng được coi như là nền kinh tế căn bản gia đình của hầu hết mọi người sinh sống lâu đời ở tại nơi nầy. Tuy nhiên, về mặt khác thì người dân sở tại luôn luôn lúc nào cũng biết tự hào về cục đất đã từng làm vẻ vang cho quê hương của chính họ, là nơi quy tụ được rất nhiều những nhân tài tinh hoa văn hóa của đất nước, và nói riêng là của miền đất phương Nam. Trong một trường hợp khác nữa, là miền duyên hải Bến-Tre vào lúc chiến tranh cũng còn có mang thêm nhiều huyền thoại ly kỳ về hình tung bí mật của những con tàu không số đổ bến về đêm trong suốt thời kỳ nước nhà chưa thống nhất. Và cũng là một địa bàn có nhiều nhất về những hình ảnh hoạt động bán quân sự của các nữ chiến binh du kích MTGPMN, ở tại đất phương Nam.

Ngoài ra, Bến-Tre cũng còn là một địa phương bị hứng chịu nhiều về các thảm họa đau thương do chiến cuộc gây ra. Và cũng từng đã được các báo chí thế giới bên ngoài viết thành những bài phóng sự chiến trường, và được rất nhiều thành phần độc giả người nước ngoài chú tâm theo dõi.


Hình ảnh thành phố Bến-Tre xưa
qua báo chí nước ngoài

Cách đây quá một thế kỷ, khi mà tục lệ người đàn ông VN còn búi tóc trên đầu như người đàn bà thì khi mới chợt nhìn thoáng qua, thì đôi khi người ta sẽ bị lầm lẫn đó là bóng dáng của một người phái nữ. Và sau phong trào duy tân cắt tóc ngắn (1906) của cụ Phan-Chu-Trinh rầm rộ xuất hiện ra trên cả nước, thì người ta có thể nói là phải bằng hằng thập niên dài kế tiếp ở Bến-Tre, nơi mà người dân ở địa phương (là một trong những số ít như vài vùng lân cận) mới hưởng ứng với lời kêu gọi của phong trào đó sau cùng, nếu đem so với các địa phương ở nhiều tỉnh khác. Vì vào thời điểm lúc bấy giờ, mà hãy còn sót lại có quá nhiều người đàn ông chưa chịu cắt tóc ngắn để đoạn tuyệt với cuộn tóc ở trên đầu. Và điều nầy, không biết có phải đã được lý giải bởi do khuynh hướng của người địa phương có quá nhiều khái niệm duy trì cổ tục, hay còn có nguyên nhân nào khác?


Minh họa

Dẫu sao, thì những ai đã từng có dịp viếng thăm xứ Dừa nầy từ hơn quá nửa thế kỷ ngày trước, thì chắc chắn còn có thể nhớ lại được cảnh tượng êm ả vào những buổi trưa. Là khi đi tới bất cứ thôn ấp hẻo lánh nào, thì cũng thường đã gặp các bà già trầu nằm thong thả gác tay lên trán trên chiếc võng đu đưa, miệng ngâm rõ ràng từng dòng thơ Lục-Vân-Tiên trong bầu không gian yên tịnh. Hay như có dịp nhìn thấy nơi quán nhậu, lại có những ông già búi tóc ngà ngà say rượu vừa đọc ra thơ của cụ Đồ Chiểu, vừa bàn cãi nhau về cá tính của từng nhân vật trong cốt truyện nầy. Còn một trong nhiều hình ảnh nông thôn thú vị khác cũng ở tại địa phương, là có những nhóm người hằng ngày dùng liềm cắt từng quầy dừa rơi xuống khe nước rồi chất đống lên ghe, chèo đem đi bán v.v.


Trèo lên ngọn chặt quầy dừa

Ghe bán dừa tươi

Lúc bấy giờ, công dụng của toàn thân cây dừa chưa được người ta khai thác triệt để để chế biến thành những sản phẩm mỹ thuật đẹp mắt như ngày hôm nay. Nói cách khác, nếu từ lâu các loại sản phẩm địa phương được hầu hết thành phần du khách đánh giá coi như là những kỷ vật đặc biệt, có tính chắt lọc tinh hoa của người dân sở tại, thì các sản phẩm mỹ thuật thủ công nghệ ở vùng miền nào cũng chính là biểu tượng cho hồn văn hóa ở tại địa phương đó.

Do vậy, xuyên qua cuộc hành trình suốt theo chiều dài đất nước, một khi khách lãng du đến đất phương Nam bị sa lạc vào xứ Dừa xanh biếc vươn cao ngút ngàn che rợp bóng mát tối trời. Và khi có gió thổi mạnh làm cho các ngọn lá dừa chạm vào nhau xạc xào tạo thành những âm thanh như khúc nhạc liên hồi, thì khách lãng du không khỏi chạnh lòng nhớ lại từng câu thơ nổi tiếng từ lâu ở tại địa phương:

Dừa ơi dừa! Dừa bao nhiêu tuổi
Mà lá tươi xanh mãi tới giờ?
Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi
Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua


Rừng dừa Bến-Tre

Rồi tiếp theo, thì còn gì lý thú hơn là khi khách lãng du có dịp bước đi qua cầu dừa được bắc ngang lạch nước để vào tham quan những mái nhà phục chế làm toàn bằng vật liệu của cây dừa như cột, kèo, đòn tay, mái lợp v.v trông qua rất đơn sơ, giản dị nhưng xinh xắn, dễ nhìn. Và từ lâu đã từng thu hút được sự hiếu kỳ của những thành phần du khách, đến từ ở phương xa.


Hình ảnh cây cầu dừa

Mái nhà làm bằng vật liệu từ cây dừa

Đặc biệt cách đây mấy năm, ở Bến-Tre còn có những nghệ nhân khéo tay đã biến chế thành công từ sản phẩm dừa thành những loại nhạc cụ như đàn gáo, đàn sến, đàn bầu, đàn kìm, đàn guitar v.v. Và đã được cố GS.TS Trần-Văn-Khê đánh giá cao về mặt kỹ thuật và giá trị tinh thần.

Ở Bến-Tre có những nơi người dân trồng dừa đã lâu năm nay mọc lên cao, lá xòe che phủ bóng mát khắp cả một vùng, và nắng chỉ có lổ đổ xuyên qua cành lá mà người không quen đi lạc vào thì phải cực thân mới tìm được lối ra. Tuy nhiên, đó cũng chính là những kỷ niệm tuyệt vời của khách lãng du khi có dịp bước đi khoan khoái trong rừng dừa, tai nghe mắt thấy chim muông chuyền cành, cất tiếng hót líu lo trên các ngọn cây dừa. Nào chim bìm bịp cất tiếng kêu báo hiệu về con nước lớn, tiếng chim quốc ảo não kêu đứt đoạn giữa đêm sương, tiếng oang oác của đám cò, diệt khi đập cánh làm xao động cành lá.

Nhưng nếu khách lãng du muốn được sống gần gũi với thiên nhiên nhiều hơn, thì hãy tới sân chim Vàm-Hồ ở tại địa phận thuộc hai xã Mỹ-Hòà và Tân-Xuân, huyện Ba-Tri. Tại đây nguyên là một vùng đất ngập mặn lâu năm, cho nên sản sinh ra rất nhiều loại cây hoang dã mọc thành rừng dưới cảnh quan thiên nhiên. Còn bây giờ, thì khu vực nầy đã được người dân địa phương khai thác kinh tế đưa vào ngành du lịch sinh thái do nhờ có sân chim Vàm-Hồ cạnh dòng sông Ba-Lai, và khu di tích chiến tranh. Nằm cách trung tâm thành phố Bến-Tre chừng 52 km, sân chim Vàm-Hồ là nơi cư trú của rất nhiều loại cò đen, cò trắng, cò ruồi, vạc, diệt xám, cuốc, chim vịt, bìm bịp, chèo bẻo v.v.


Quê hương loài chim quý ở Vàm Hồ

Trong khu vực sân chim có những lạch nước đưa du khách đến tham quan căn cứ kháng chiến bằng xuồng nhỏ, hoặc đi bách bộ dạo rừng hít thở bầu không khí trong lành, bước ngang qua cầu tre hoặc cầu dừa.


Du khách vào tham quan

Còn lại là bầu không gian sâu lắng có gió thổi xạc xào, hòa lẫn vào với những âm thanh của tiếng chim trời kêu hót, ríu rít gọi đàn phát ra mỗi lúc một khác nhau ở tại đây nghe thật là thú vị làm sao! Nhất là, vào mỗi sớm tinh sương, và khi hoàng hôn nắng nhạt. Đặc biệt, là lúc "giao ca" xảy ra sinh động giữa đàn cò và vạc vào lúc trời vừa chạng vạng tối. Đó là hình ảnh rợp trời của đàn cò trắng sau khi bay về đậu trên các ngọn cây, thì lập tức đàn vạc bắt đầu tung cánh bay đi ăn đêm tạo thành một hoạt cảnh ấn tượng kỳ thú vô cùng.


Sân chim Vàm-Hồ

Trở lại về hình ảnh của rừng dừa xanh tươi ngút ngàn ở tại địa phương nầy, thì những ai đã từng có dịp trải nghiệm qua chuyến du hành đến tận Bến-Tre thì không khỏi mang về những dấu ấn kỷ niệm khác lạ đặc biệt của một vùng miền có quá nhiều cây dừa. Và mãi cho đến tận bây giờ, thì người ta cũng chưa ai biết đích xác được về nguồn gốc của những hàng dừa ở đây là từ đâu đem tới. Và cũng hơi tương tợ như là hình ảnh của cây tre, nhưng công dụng của cây dừa còn có giá trị hơn nhiểu, do người ta còn có thể chế biến ra thành được nhiều loại vật dụng đa dạng, thích hợp hơn với nhu cầu tiêu dùng trong đời sống hằng ngày.

Trong hiện tại, tỉnh Bến-Tre sở hữu gần 30 loại giống dừa và được chia làm thành nhóm chủ yếu như là loại dừa cao, loại dừa lùn, và loại dừa lai. Nhóm dừa cao thì có dừa ta, dừa Mã-Lai, dừa sáp, dừa dâu, dừa lửa. Nhóm dừa lùn thì có dừa tam quan, dừa dứa, dừa ẻo xanh, ẻo nâu, và dừa xiêm đỏ, xanh, lục, lửa, núm. Còn lại, là nhóm dừa lai. Và cho dù là thuộc loại giống nào đi nữa, thì cây dừa Bến-Tre thủy chung cũng là một loại cây thổ địa quen thuộc, gắn liền hình ảnh vào với cuộc sống đời thường của người dân ở tại địa phương từ bao thế hệ đã trôi qua. Và theo các nhà nghiên cứu về địa lý thổ ngơi, thì nguồn gốc của cây dừa ở đất phương Nam cũng có thể được mang vô từ Tam-Quan (Bình-Định) do lưu dân đem vào trồng trọt trong thời kỳ Nam tiến của Đại-Việt (song le chưa hẳn là đúng). Rồi theo thứ tự thời gian, thì hàng hàng lớp lớp cây dừa được người dân gieo trồng sinh sản lan tỏa ra khắp các mọi nơi ở miền Nam, và Bến-Tre là một vùng đất có những điều kiện thích hợp nhất cho sự sinh sôi phát triển mạnh mẽ của cây dừa.


Rặng dừa cao xanh mát

Nói tóm lại, người ta có thể bảo rằng những hàng dừa xanh mát ở Bến-tre chính là những tiền cảnh mà cũng là phần hậu cảnh của dáng đứng trên quê hương ở tại địa phương. Ngoài ra, còn đặc biệt đối với phong tục ngày Tết thiêng liêng của dân tộc, thì hồn quả hương cây trong nếp văn hóa của người dân ở ba miền tuy có khác nhau về cách chưng bày trong mâm ngũ quả, nhưng về ý nghĩa vui đời hạnh phúc ấm no của nó thì cũng không khác nhau nhiều. Vì do điều kiện đặc trưng của thổ ngơi, sản vật và quan niệm dân gian ở tại địa phương. Do vậy, nếu ở miền Trung thường được chưng bày trong mâm ngũ quả gồm có những trái thanh long, dưa hấu, mãng cầu, chuối, dứa, sung, cam quýt, thì mâm ngũ quả ở miền Bắc thường có bưởi, đào, hồng, quýt, chuối.

Còn ở đất phương Nam thì thường được thể hiện qua hình thức chưng bày trong mâm ngũ quả, thì gồm có mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (có ý nghĩa là cầu mong vừa đủ tiêu xài, gia đình sung túc) có hơi khác phần nào với ý nghĩa của mâm ngũ quả ở hai miền Trung, Bắc. Và trong mọi trường hợp nào, thì hình ảnh của trái Dừa cũng không thể không có trong mâm ngũ quả dưới bàn thở cúng tổ tiên nhân dịp Xuân về.


Mâm ngũ quả ở miền Nam
(cầu, dừa, đủ, xoài, sung)

Ngoài ra, tỉnh "xứ Dừa" ở đây còn có thêm câu chuyện lạ. Đó chính là hình ảnh đặc biệt của đoàn múa lân nữ ở tại địa phương. Hiện nay, tại Việt-Nam đang có hai đoàn Lân Sư Rồng nữ được xác lập kỷ lục. Và đó là đoàn Lân Sư Rồng nữ "Tú-Anh-Đường" ở Cần-Thơ thành lập sau nầy, do các cô gái từ 14 -17 tuổi, nguyên là những vận động viên có nhiều khả năng trình diễn mạo hiểm, phức tạp.

Còn trước đó và cũng là đầu tiên của VN, là đoàn Lân Sư Rồng nữ "Lương-Hòa" nổi tiếng lâu đời nhất ở Bến-Tre được thành lập vào năm 1954. Các thành viên trong đoàn ngày nay đều đã cao niên nhưng vẫn còn tha thiết yêu nghề, cho nên phải cùng nhau hết sức cố gắng, để tiếp tục tập luyện biểu diễn múa lân giúp vui cho đồng bào ở tại địa phương vào những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc.


Đoàn Lân Sư Rồng nữ "Lương-Hòa" ở Bến-Tre

Ở tại tỉnh Bến-Tre thực ra không có nhiều ngày lễ hội được tổ chức xảy ra hằng năm, như những địa phương khác. Tuy nhiên, không vì thế mà dáng đứng Bến-Tre không được nhiều du khách tìm cách đến tham quan cho biết thế nào là hình ảnh đặc trưng của xứ Dừa, và cây trái ngonnổi tiếng ở tại miệt vườn nầy.

Nhớ lại cách đây không lâu, nhân dịp lễ kỷ niệm 60 năm Ngày Thầy Thuốc Việt Nam được tổ chức long trọng tại thành phố Trà-Vinh. Tác giả cùng với BS Nguyễn-Vạn-Chưởng có dịp đi ngang qua thành phố Bến-Tre, trên đường tham dự ngày lễ xảy ra ngay tại Trường Đại-Học Trà-Vinh. Lúc bấy giờ, cầu Cổ-Chiên chưa kịp hoàn thành cho nên trở ngại giao thông còn phải mất thời gian để chờ đợi phà, lên phà. Và khi xuống phà bên kia địa phận Trà-Vinh đi vào thành phố, thì tác giả thấy vẫn có quán cóc bán nước dừa tươi nhưng tấm bảng thì lại đề là dừa Bến-Tre (trong khi Trà-Vinh cũng có nhiều dừa).

Riêng về sông Cổ-Chiên, thì nó là ranh giới tự nhiên giữa 3 tỉnh Bến-Tre, Vĩnh-Long và Trà-Vinh.


Phà Cổ-Chiên

Từ phải sang: 3. PGS.TS Phạm-Tiết-Khánh (cà vạt vàng) Hiệu-Trưởng
Trường Đại-Học Trà-Vinh, 4. Nhà văn Mai-Lý-Cang, 5. BS Nguyễn-Vạn-Chưởng,và ba vị trong Ban Giám-Hiệu Trường Đại-Học Trà-Vinh trong Ngày Thầy Thuốc VN
(27-02-2015)

Và cũng kể từ ngày cây cầu Cổ-Chiên được bắc sang sông nối liền hai tỉnh Bến-Tre–Trà-Vinh, rút ngắn lộ trình Hồ-Chí-Minh–Trà-Vinh còn lại chỉ có khoảng hơn 130km, thì Bến-Tre nằm trên tuyến đường phải đi ngang qua. Cầu Cổ-Chiên nằm cách bến phà cũ khoảng 3,6km về phía hạ lưu thuộc huyện Mỏ-Cày (Bến-Tre), và bên kia cầu là huyện Càng-Long (Trà-Vinh).


Cầu Cổ-Chiên

Do vậy, cho nên ngoài mặt giao thông được thuận tiện hơn xưa thì Bến-Tre cũng đã không trễ hẹn lợi dụng về ưu thế để nỗ lực khẩn trương tăng tốc xây dựng, chỉnh trang mỹ quan thành phố văn minh, xanh, sạch, đẹp, thân thiện, phát triển vững bền với tiêu chí phấn đấu đề ra hầu sẽ đạt được tiêu chuẩn đô thị loại cao hơn vào những năm tới. Trong thời gian còn lại đó, thì Bến-Tre vẫn tiếp tục khai thác về tiềm năng thế mạnh của địa phương là thổ sản trái cây từng được tổ chức tưng bừng trong những ngày lễ hội, đặc biệt là lễ hội Dừa.

Lễ hội Dừa là một lễ hội truyền thống của Bến-Tre được tổ chức theo định kỳ, để nhằm mục đích tôn vinh những giá trị sáng tạo của nghệ nhân qua các công phu mỹ thuật thủ công nghệ làm ra từ bằng cây dừa. Kể cả mọi sự ích lợi của cây dừa nông nghiệp ngày nay đã đi vào giai đoạn cây dừa công nghiệp, qua các hình thức sản phẩm được xuất khẩu ra trên 50 quốc gia trên thế giới. Và đồng thời, cũng để quảng bá về tiềm năng du lịch sinh thái miệt vườn đang trên đà phát triển ở tại địa phương.

Đến với những ngày lễ hội Dừa Bến-Tre, du khách sẽ được dịp tìm hiểu nhiều hơn về văn hóa địa phương và tiếp cận với những sản phẩm thủ công nghệ của 57 làng nghề (gồm cả 9 làng nghề truyền thống) hiện có trong toàn tỉnh, thưởng thức ẩm thực đậm chất của quê hương sở tại. Đồng thời, cũng là một cơ hội để giao lưu với những con người thân thiện, giàu lòng hiếu khách ở miệt vườn.

Lễ hội Dừa ở Bến-Tre
Du khách viếng thăm làng nghề Bến-Tre
Ngoài ra, Bến-Tre còn có những ngày hội khác như là lễ hội đình Phú-Lễ, lễ hội Tế Thần Cá Ông, Lễ hội Cây, Trái ngon, và lễ hội truyền thống văn hóa Nguyễn-Đình-Chiểu.

Đình Phú-Lễ tọa lạc tại xã Phú-Lễ, huyện Ba-Tri được xây xất lên dưới thời vua Minh-Mạng vào năm 1826, và được sắc phong của vua Tự-Đức vào năm 1851. Hiện nay, đình Phú-Lễ được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật của nước nhà. Tại đây, lễ hội diễn ra hằng năm được tổ chức hai lần.Lễ Kỳ Yên xảy ra vào ngày 18 và 19/3 ÂL, và lễ Cầu Bông vào ngày 9 và 10/11 ÂL, với các tiết mục như rước sắc thần, tế thành hoàng, tiền hiền, hậu hiền, hát bội và đờn ca tài tử. Ngoài ra, đình Phú-Lễ cũng còn là nơi lưu trữ được một số ca dao, hò vè đậm chất quê hương sở tại.


Bên trong đình Phú-Lễ

Và cũng như các tỉnh duyên hải khác, từ miền Trung trở vào. Tại Bến-Tre có tập tục thờ cúng cá Ông ở Bình-Đại, Ba-Tri, Thạnh-Phú (cũng như một số địa điểm khác ở trong tỉnh) từ khoảng 200 năm qua. Sự kiện nầy xuất phát ra, là do lòng tin của ngư dân với sự nhiệm mầu của cá Ông từng trồi lên cứu nạn ghe thuyền qua khỏi các cơn bão tố hiểm nguy ngoài biển khơi. Do vậy, khi cá Ông chết ngoài biển, thì người ta gọi là Ông lụy, và ngư dân họp nhau đưa tàu ra dìu xác Ông lụy vào bờ, rồi tổ chức chôn cất long trọng. Nơi thờ cá Ông thường được dân gian gọi là lăng Ông. Còn lễ hội tế thần cá Ông (Lễ hội Nghinh Ông) thường được tổ chức xảy ra ở hai địa điểm, là tại lăng Ông, rồi trên mặt biển với hình thức của từng hàng tàu đánh cá giăng kết đèn hoa rực rỡ, bày biện mâm cúng rượu trà, trái cây, xôi thịt, và cùng lướt sóng ra khơi tiến hành nghi thức nghinh Ông. Sau đó, là có kèm theo những màn biểu diễn văn nghệ, trò chơi dân gian, thể thao, hát bội v.v.
 

Lễ tế cá Ông ngoài biển 
Bàn thờ cá Ông tại cồn Bửng

Còn Lễ hội Cây, Trái ngon, an toàn Bến-Tre thì được tổ chức thường niên để nhàm mục đích quảng bá về hình ảnh cây trái của quê hương sở tại. Đồng thời, cũng để tạo dịp giới thiệu cùng du khách về những đặc sản ở tại xứ Dừa. Trong những ngày xảy ra lễ hội, du khách sẽ được dịp tham quan các gian hàng trình bày nhiều loại trái cây, hoa kiểng xinh đẹp không những ở địa phương mà còn có cả sản phẩm đến từ các tỉnh khác nữa. Đặc biệt là tại huyện Chợ Lách, (Bến-Tre) nơi đây mùa nào thì cũng có trái cây đó. Hầu hết những sản phẩm được trưng bày và đấu xảo trong ngày lễ hội đều là là những loại sản phẩm độc, lạ. Chẳng hạn như bonsai đặc biệt, trái sầu riêng nặng trên 10kg, buồng đừa xiêm có tới 32 trái, cây chuối trổ buồng giữa thân v.v.


Làng trồng hoa và cây cảnh ở Chợ Lác

Lễ hội Cây, Trái ngon ở Bến-Tre

Đặc biệt nhất trong các ngày lễ hội Bến-Tre, thì chỉ có ngày lễ danh nhân văn hóa Nguyễn-Đình-Chiểu là được tổ chức trọng thể, và có sự tham dự đầy đủ của các thành phần dân chúng ở địa phương. Lễ hội Nguyễn-Đình-Chiểu là một niềm tự hào của người dân Bến-Tre được tổ chức hằng năm theo nghi thức truyền thống, thường xảy ra đúng vào ngày sinh nhật 1 tháng 7 của ông. Và mục đích của lễ hội, là để nhằm vào ý nghĩa tôn vinh giá trị tư tưởng trong nhân cách đạo đức của một danh nhân văn hóa bậc thầy suốt cả cuộc đời đem hết khả năng trí tuệ của mình, để dấn thân phục vụ vì dân, vì đất nước.

Theo thông lệ, phần nghi lễ gồm có lễ dâng hương, và lễ mít tinh trong khu di tích Nguyễn-Đình-Chiểu. Và khách tham quan trong dịp nầy được nghe ban tổ chức xướng lên bài "Văn-Tế Nghĩa-Sĩ Cần-Giuộc" trong bầu không khí trang nghiêm, cảm động. Sau đó, là các hoạt động hội diễn ra như liên hoan đờn ca tài tử, biểu diễn võ thuật, các trò chơi dân gian kéo co, đẩy gậy v.v. Đặc biệt, là cuộc thi hóa trang các nhân vật trong tác phẩm "Lục-Vân-Tiên" được rất nhiều người tham gia hưởng ứng. Ngoài ra, khách tham quan nhận thấy còn có những tác phẩm văn thơ của Nguyễn-Đình-Chiểu cũng được trình bày cho công chúng xem trong không gian triển lãm trong ngày lễ hội.


Quang cảnh ngày lễ hội Nguyễn-Đình-Chiểu

Bàn thờ Nguyễn-Đình-Chiểu

Hiện nay ở đất phương Nam (nói riêng), thì Bến-Tre cũng vẫn hãy còn là một tỉnh nhỏ, không có tiềm năng kinh tế mạnh như những tỉnh khác do nhờ có may mắn hội đủ điều kiện thuận tiện cho nên từ lâu đã cất cánh vươn mình, phát triển văn minh tiến bộ nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu nhận xét về bề dày của lịch sử văn hóa xã hội thì từ lâu Bến-Tre thật đã không thiếu nhân tài từ bao thế hệ đã thay nhau đóng góp quê hương, làm rạng rỡ xóm làng. Do vậy, tùy theo quan niệm về cách nhìn, và sự đánh giá khác nhau của mỗi người mà mọi người có thể tìm thấy giá trị công bằng đúng mức theo hoàn cảnh lịch sử thời đại của nó.

Chẳng hạn như về trường hợp của quan đại thần Phan-Thanh-Giản (1796-1867) ở Bến-Tre. Ông là người Nam-Kỳ đầu tiên đỗ bằng Tiến sĩ, và đã được triều đình nhà Nguyễn trọng dụng phong cho làm tới chức Hiệp biện đại học sĩ, Kinh lược sứ Nam-kỳ (toàn quyền quân sự và dân sự 3 tỉnh miền Tây). Là một người từng mang nhiệm vụ đi sứ sang Pháp thay mặt cho triều đình điều đình chuộc lại 3 tỉnh miền Đông, ông đã có dịp nhìn thấy được hình ảnh thực tế của xã hội văn minh tiến bộ hùng cường của đế quốc phương Tây. Vì thế cho nên sau khi trở về nước, thì ông đã thấu triệt được mọi hậu quả trong một tình hưống vô cùng bất lợi về ưu thế chiến trường trong sự tương quan về lực lượng vũ khí tối tân khi phải trực diện đối đầu với sức mạnh của đạo quân xâm lăng tàn bạo. Hơn thế nữa, và cũng để nhằm vào chiến lược phải chờ có thời gian rèn cán chỉnh quân, luyện tập vũ khí, nâng cao tinh thần dân quân chiến đấu về sau nầy. Tinh thần ấy, tính khí ấy đã được ông gởi gấm vào bài thơ ’Tuyệt cốc" với nội dung ý nghĩa như sau:

Trời thời, đất lợi, lại người hòa,
Há dễ ngồi coi phải nói ra.
Lăm trả ơn vua, đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng, ruổi đường xa.
Lên ghềnh xuống thác, thương con trẻ,
Vượt biển trèo non, cám phận già.
Những tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba.

Chính vi vậy mà dũng cảm biết bao khi ông biết chọn lấy sự tuẫn tiết của cá nhân mình, để đổi lấy máu xương cho hàng vạn chiến sĩ nước nhà sắp sẽ phải bị thiệt thân một cách thật là vô ích. Sự tuẫn tiết của ông theo ba tỉnh miền Tây vào lúc bấy giờ không thể được coi như là một sự đầu hàng tắc trách. Ngược lại, đó phải được đánh giá xem như là một quyết định hết sức đắn đo, cân nhắc của một bậc thầy có tầm nhìn chiến lược về tương quan lực lượng ở chiến trường. Và quả cảm phi thường, không giống như trường hợp của những con người tham sanh úy tử, hàng giặc để mong chuốc lấy mạng sống và thụ hưởng cặn bã lợi danh của riêng mình.

Do vậy, trong tinh thần sinh vi tướng tử vi thần và rõ ràng là Phan-Thanh-Giản đã làm hết sức mình để tận trung báo quốc, hiếu với dân, biết lùi một bước để bảo toàn tiềm lực chiến đấu chờ ngày kháng chiến kiên trì chống lại quân thù. Chính vì thế mà sau đó chẳng bao lâu, thì lại có các cuộc kháng chiến nổi lên chống thực dân đô hộ của người dân ở đất phương Nam. Trở lại thời điểm lúc bấy giờ, sau khi ông đã qua đời thì danh sĩ Nguyễn-Thông lập tức dùng ảnh hưởng của cá nhân mình để mà dâng sớ về triều đình Tự-Đức, để giải bày nỗi oan cay nghiệt cho ông. Và nhà thơ Nguyễn-Đình-Chiểu lúc bấy giờ cũng đã có trân trọng làm một bài thơ điếu cảm động, tiếc thương bậc trung thần Phan-Thanh-Giản vị quốc vong thân:

Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao-Châu
Ba triều công cán vài hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu
Trạm bóng ngày chiều, tin điệp vắng
Thành Nam, đêm quạnh bóng quyên sầu
Minh tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ đây mặc gió thu

Người đời nay, có bao giờ hãy thử soi lại tấm gương hành động tuẫn tiết theo ba tỉnh miền Tây của vị anh hùng đại thần Phan-Thanh-Giản với trường hợp của Thống-chế Thủ-Tướng Philippe-Pétain của Pháp, một đế quốc hùng cường.

Ông nguyên là một vị anh hùng trong đệ nhất thế chiến nhưng sang qua thế chiến thứ nhì, sau khi hàng giặc để ký hòa ước nhượng bộ cho Đức kiểm soát 3/5 lãnh thổ, thì ông đã có quan niệm lập trường chọn cho mình một con đường hợp tác để chờ thời. Và cho dù ông thực sự là một người yêu nước, thương dân và có lập trường kháng chiến chống giặc theo như chiến lược tài trí của một nhà lãnh tụ quốc gia. Tuy nhiên, chính vì thế mà ông đã không còn giữ được khí phách anh hùng để có thể thể hiện ra hình ảnh tinh thần quyết tâm chiến đấu, hi sinh vì tổ quốc của một người chiến sĩ hiên ngang xông pha giữa chốn sa trường bọc thây da ngựa!

Hay tuẫn tiết, để lại tiếng thơm cho đời như trường hợp của Phan-Thanh-Giản.


Phan-Thanh-Giản và bản đồ Nam-Kỳ Lục-Tỉnh

Lăng mộ Phan-Thanh-Giản tại Ba-Tri

Còn ngày nay, thì hình ảnh của nữ tướng Nguyễn-Thị-Định (1920-1992) cũng được người dân biết đến nhiều hơn sau ba mươi năm kết thúc chiến tranh tại VN. Bà là người đứng ra sáng lập ra phong trào Đồng-Khởi ở Giồng-Trôm, Bến-Tre, và đồng thời cũng lại là thủ lĩnh của đạo quân tóc dài. Trong chiến cuộc tại miền Nam VN, thì về phía MTGPMN cũng đã có những đoàn nữ chiến binh du kích xuất hiện ngày đêm tại các nơi xôi đậu trong vùng.


Du kích quân tóc dài
(MTGPMN)

Sau ngày thống nhất nước nhà, Nguyễn-Thị-Định từng được bầu giữ chức Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng Nhà Nước. Sau khi qua đời, thì bà được nhân dân đồng bào sở tại có lập đền thờ ở tại quê hương của bà ở tại xã Lương-Hòa, huyện Giồng-Trôm (Bến-Tre). (Xã Lương-Hòa là một địa phương đã từng kết nghĩa với làng Moncada ở nước Cuba).


Khu tưởng niệm Nguyễn-Thị-Định ở Lương-Hòa

Dưới thời Pháp thuộc, ở tại Giồng-Trôm cũng từng đã có nhà thơ Phan-Văn-Trị (1830-1910) nhiệt tình yêu nước, tiết tháo và từ chối mọi công danh để lui về sống với cuộc đời đạm bạc. Ông là người tiên phuông đã dùng vũ khí sắc bén bằng lời thơ, để lên án những thành phần trí thức theo phục vụ cho chế độ thực dân Pháp thời bấy giờ. Vào những ngày cuối đời, ông đã nương náu cuộc sống và mất tại Cần-Thơ, và từ lâu đã được nhân dân đồng bào sở tại có lập đền thờ ở tại thị trấn Phong-Điền. Tuy nhiên, vào năm 1999 thì người dân ở tại Bến-Tre cùng với chính quyền cũng đã có hợp sức xây dựng hoàn thành lên được một ngôi nhà tưởng niệm Phan-Văn-Trị rất là khang trang, ấm cúng ở tại Giồng-Trôm.

Và sau đây, là một trong những bài thơ của ông bút chiến với Tôn-Thọ-Tường (theo thực dân Pháp) đã nói lên được giá trị ý nghĩa tinh thần bất khuất của kẻ sĩ, lòng người dân Việt:

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây
Chẳng đã nên ta phải thế này
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy
Cồn Rồng dầu mặc muội tro bay
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa
Bửa lưới săn nai cũng có ngày
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá, há lung lay

Đền thờ Phan-Văn-Trị ở Phong-Điền

Danh nhân Bến-Tre, lại còn có cả trường hợp của Trương-Vĩnh-Ký hay Pétrus-Ký (1837-1898) ở Cái-Mơn là một nhà học giả làu thông rất nhiều tiếng nước ngoài, một nhân vật trí thức uyên bác có tầm vóc quốc tế đã từng cộng tác nhiều năm với thực dân Pháp. Và cũng từng được Hàn-Lâm-Viện Pháp phong cho danh hiệu Viện-Sĩ (Officier d’Académie), theo tài liệu từng được phổ biến trên mạng. (…Trong thư gửi cho một bác sĩ người Pháp, Alexis Chavanne, đề ngày 6/8/1887, Trương Vĩnh Ký bày tỏ lòng cảm kích với những ưu đãi mà chính quyền thực dân Pháp ban cho ông: - Tôi càng tỏ ra biết ơn nước Cộng Hòa (Pháp) không những đã công nhận tôi là con nuôi mà còn cho tôi nhiều vinh dự và nhất là rất tin tưởng tôi. Ngày 17 tháng năm 1883, ông được Hàn-Lâm-Viện Pháp phong danh hiệu Viện-Sĩ (Officier d'Académie)… (sic).

Còn riêng về phần triều đình nhà Nguyễn, thì ông cũng từng được ân sủng của vua Đồng-Khánh ban cho chức Tham-tá trong Cơ Mật-Viện vào năm 1886. Tuy nhiên, không hiểu sao do bởi nguyên nhân quan trọng nào mà về phút cuối đời, thì ông lại bị thực dân Pháp lẫn cả triều đinh Huế đều hất hủi, bỏ rơi thậm tệ đến nỗi ông phải bị lâm vào hoàn cảnh nghèo túng nợ nần và qua đời trong sự lặng lẽ. Dẫu sao, thì trong lịch sử văn học nước nhà cũng công bằng đương nhiên thừa nhận ông là một nhà ngôn ngữ học, một nhà khảo cứu văn hóa tiêu biểu của VN từng để lại cho đời hơn 100 tác phẩm nghiên cứu về từ điển, dịch thuật và văn học sử địa.

Nhân dịp nhắc tới nhân vật Pétrus-Ký, tác giả cũng không quên nhớ lại mái trường từng được chính quyền thuộc địa cho mang tên ông trong những thập niên dài ở tại Sài-Gòn, nơi thường trực xảy ra những tổ chức phong trào học sinh yêu nước vận động đồng bào tham gia quật khởi, vùng lên chống Thực-Dân Pháp đô hộ. Và đi trước hình ảnh của nữ sinh Quách-Thị-Trang, một quãng đường dài lịch sử. Tấm gương anh dũng trước đó của Trần-Văn-Ơn (1931-1950) sinh trưởng tại châu thành Bến-Tre, một học sinh yêu nước tiêu biểu của trường Pétrus-Ký đã bị Thực-Dân bắn chết trong cuộc biểu tình xảy ra vào ngày 9-1-1950 tại Sài-Gòn. Tuy nhiên, sau đó do có sự nhượng bộ của Pháp cho nên đám tang Trần-Văn-Ơn được tổ chức xảy ra vô cùng trọng thể, với hình ảnh của hàng vạn người tham dự tiễn đưa.


Trần Văn Ơn


Tang lễ Trần-Văn-Ơn
tại trường Pétrus-Ký ngày 12-01-1950

Trong danh sách danh nhân người hiền của Bến-Tre còn quá dài đúng theo như lời của Nguyễn-Trãi khi xưa chẳng từng đã viết, ở nước Nam ta "Song hào kiệt thời nào cũng có". Tuy nhiên, giờ đây nếu người ta cũng còn có muốn nghe qua về những giai thoại dân gian ở địa phương, thì câu chuyện về ông già ở Ba-Tri (tên là Thái-Hữu-Kiểm hay Cả Kiểm) dưới thời vua Minh-Mạng thì quả là có thực, và lý thú. Và ngày nay, sở dĩ người dân miền Tây Nam bộ thường hay có thói quen thường dùng tới danh từ ông già Ba-Tri từ lâu đã từng được phổ biến trong dân gian, là vì để muốn nói đến hình ảnh của một con người già cả mà còn quắc thước, có tinh thần cương quyết bảo vệ công lý tới cùng. Và chính ông là người đứng ra tổ chức thực hiện cuộc đi bộ ngàn dặm từ Ba-Tri đến kinh thành Huế, để khiếu kiện sự lộng quyền của một viên chức láng giềng đã tự động xây đập ngăn cản không cho ghe thuyền lưu thông họp chợ.

Từ dạo Bến-tre được nâng cấp lên thành tỉnh lị và trải qua bao thời kỳ chiến tranh tàn phá, thì vùng đất nầy lúc nào cũng khiêm nhường tự nép mình vào bên cạnh những rừng dừa bát ngát xinh tươi bị bao quanh bởi một hệ thống sông rạch kênh đào như mạng nhện. Chính vì lẽ đó, mà từ lâu Bến-Tre đã bị trở ngại rất nhiều về mặt giao thông bằng đường bộ có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ vào lãnh vực kinh tế, và làm hạn chế đi không ít về tốc độ phát triển ở địa phương. Dẫu sao, thì sự kiện đó cũng không làm cho nao núng được lòng người dân sở tại, và họ đã sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn trở ngại để tìm cách khắc phục lại bằng cách khác. Chính vì thế mà ngày nay bộ mặt của Bến-Tre đã được thay đổi rất nhiều, đi đến đâu thì người ta cũng đều thấy có những hệ thống của các công trình đã và đang kiến tạo lên như điện, đường, trường, trạm để nhằm đáp ứng cho mọi nhu cầu bức thiết của người dân ở vùng sâu xa hẻo lánh. Cũng như, về hình ảnh của các di tích văn hóa lịch sử ngày nay đã được trùng tu sạch sẽ, khang trang.


Ngôi đình cổ An-Hội ở Bến-Tre
được xây cất lên từ năm 1846


Cảnh quan đẹp mắt trong thành phố
Bến-Tre

Và mặc dù là một tỉnh nhỏ ở miền Tây, nhưng lịch sử của Bến-Tre lại là một nơi có bề dày về tinh hoa văn học hơn nhiều tỉnh lớn khác. Ở đây, không có người dân nào mà không biết tới cái tên của ông Đồ Chiểu, con chim đại bàng trong làng tinh hoa văn học sử nước nhà, tác giả của một tác phẩm đã nổi tiếng lưu truyền từ lâu ở trong cả nước.

Ông đồ Nguyễn-Đình-Chiểu (1/7/1822 - 3/7/1888) là người sinh ra ở tại tỉnh Gia-Định nhưng sau khi thành nhân, thì lại cùng gia đình tản cư từ Cần-Giuộc về tận Ba-Tri vì lúc bấy giờ ba tỉnh miền Đông Nam-kỳ (Biên-Hòa, Gia-Định, Định-Tường) đều bị mất vào tay của giặc xâm lăng Pháp sau hòa ước năm Nhâm-Tuất 1862. Tại đây, dù đã bị mù lòa (kể từ ngày thương khóc mẹ qua đời) nhưng trong suốt 20 năm làm thầy thuốc và dạy học, lúc nào ông cũng tiếp tục dùng ngòi bút sắc bén yêu nước của mình để làm vũ khí đấu tranh bên cạnh đồng bào dân tộc. Hầu hết thơ văn của ông đều như là một bản trường ca uất hận, nói lên nỗi nhục mất nước của non sông, ca ngợi những trang sử chiến đấu oanh liệt của nghĩa quân, để kích thích tấm lòng yêu nước của hết thảy con dân nước Việt phải nhất tề đứng lên cứu quốc đánh đuổi giặc xâm lăng ra khỏi quê hương.

Người ta phải khẳng định để nói rằng, Nguyễn-Đình-Chiểu chính là một nhà Nho học có khí phách và nghị lực phi thường. Vì tuy đã bị mù lòa nhưng vẫn hãy còn thừa dũng chí, để dấn thân vào sự nghiệp tinh thần cách mạng cứu quốc, và tô bồi vào kho tàng văn học nước nhà. Ngoài ra, ông còn là hiện thân của một bậc thầy thuốc có nhiều phẩm chất nhân từ đúng theo như ý nghĩa của lương y là từ mẫu. Là một nhà tư tưởng lớn, cho nên ngay từ lúc ban đầu sáng tác thơ truyện trong thời kỳ nước nhà vừa mới bị giặc thực dân cai trị, thì ông đã biết tự chọn cho mình một trách nhiệm ngay trước mắt. Là trung với nước, hiếu với dân, để sáng tạo ra được những áng văn phong bình dân, giản dị mà súc ý nghĩa với ý nghĩa tinh thần hi sinh chiến đấu, vị nhân sinh trong hoàn cảnh loạn ly quốc phá gia vong bởi giặc xâm lăng đang tàn phá nước nhà.


Đền thờ Nguyễn-Đình-Chiểu tại Ba-Tri

Các tác phẩm chính của ông gồm có như là: Dương-Từ Hà-Mậu, Ngư-Tiều Y-Thuật Vấn-Đáp, Văn tế Trương-Định, Thơ điếu Phan-Thanh-Giản, Thơ điếu Phan-Tòng Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh Chuộc v.v cùng các thể loại bài thơ khác nói lên truyền thống tinh thần bất hợp tác và bất khuất của dân ta. Đặc biệt, là Văn-Tế Nghĩa-Sĩ Trận-Vong Lục-Tỉnh*, và Văn-Tế Nghĩa-Sĩ Cần-Giuộc**.


Tác giả NĐC

Riêng về trường hợp đặc biệt của tập thơ Lục-Vân-Tiên là một tác phẩm có tính chất tự truyện, thì đã được ông cho ra đời vào lúc sau khi ông bị mù lòa và trước khi quân Pháp chiếm đóng Nam-kỳ. Kiệt tác nầy, từ lâu đã được nền văn học sử nước nhà đánh giá coi như là một báu vật nằm trong ở những hàng đầu trong kho tàng văn chương quý hiếm. Với chủ trương văn dĩ tải đạo để nhằm mục đích trồng người, răn đời. Và cũng với quan niệm con người làm ra đạo, cho nên người ta thấy toàn bộ kho tàng văn chương vô giá của ông Đồ Chiểu trong Lục-Vân-Tiên đã từng chuyên chở được những hình ảnh thủy chung, đạo đức. Và thể hiện ra được rất nhiều nét đẹp hầu để noi gương sáng cho người đời sau về ý nghĩa của lòng nhân từ, và tinh thần hiếu nghĩa.

Lục-Vân-Tiên là tác phẩm đầu tiên của ông Đồ Chiểu gồm có 2082 câu thơ lục bát, với phần nội dung chủ yếu là đề cao về tình nghĩa của con người và sự công bằng trong xã hội. Bút pháp của ông trong Lục-Vân-Tiên là thực tế, không che đậy rườm rà, quá chú trọng nhiều vào phần miêu tả nội tâm, cho nên sau khi đọc xong thì người ta có thể đánh giá nó như là một loại cảo thơm rất gần gũi với hầu hết tất cả mọi người. Hơn thế nữa, với nghệ thuật điêu luyện tuyệt vời và với áng văn phong đặc biệt bình dân, giản dị mang sắc thái rặc của miền đất phương Nam, ông đã lột trần từng cá tính nhân vật trong cốt truyện một cách rõ ràng, làm cho hình ảnh không gian trở nên hấp dẫn, linh động có sức lôi cuốn được người đọc một cách say sưa diệu kỳ, không mỏi mệt. Ngày nay, không riêng gì người dân xứ Dừa nầy biết tự hào về Nguyễn-Đình-Chiểu mà còn có cả thảy dân tộc lúc nào cũng đều dành cho ông một vị trí rất trân trọng, và thật là xứng đáng trong lịch sử văn học nước nhà.

Và như ai cũng biết, là địa lý vùng miền và màu sắc sinh hoạt ở mỗi địa phương đều có những chỗ giống nhau và những chỗ khác nhau. Và tuy cũng cùng đều là ở trên dải đất phương Nam, nhưng các thắng cảnh ở Bến-tre không thể nào có thể so bì được với những thắng cảnh xinh đẹp như ở trên mảnh đất "Hà-Tiên miền duyên hải mến yêu tận cùng trên nẻo đường quê hương đất nước" (1). Địa hình miền duyên hải ở Bến-Tre vì nằm cạnh những nhánh sông cuộn đất phù sa chảy ra cửa biển, do vậy cho nên chỉ có toàn là những bãi bùn và cát màu xám đậm cùng với các bãi bồi khi nổi khi chìm dưới cảnh quan trời nước bao la, vắng vẻ. Tuy nhiên, cũng nhờ thế mà người dân địa phương đã biệt lợi dụng để khai thác triệt để về ưu thế đó trong việc nuôi trồng thủy sản. Và các vuông (ao) nuôi tôm nằm cạnh ven biển ngày nay cũng được mở mang thêm làm cho sự thâu hoạch tăng lên rất nhiều nguồn lợi, và có những kẻ từng nhanh tay đã trở thành giàu có.


Vuông tôm

Ngược dòng thời gian cách đây không bao lâu, khi chưa có nhịp cầu Rạch-Miểu thì người ta bắt buộc phải qua phà mất nhiều thời gian để sang địa phận Bến-Tre, nếu khởi hành từ thành phố Hồ-Chí-Minh đi ngang qua thành phố Mỹ-Tho.


Phà Rạch-Miễu ngày xưa

Cầu Rạch-Miễu Bến-Tre ngày nay

Còn giờ đây, chỉ cần vài phút qua khỏi cầu thì người ta đã tới ngay cồn Phụng, một thắng cảnh nên thơ có sức quyến rũ rất nhiều du khách. Thực ra, so với các tỉnh khác thì Bến-Tre là nơi có khá nhiều di tích danh nhân lịch sử. Tuy nhiên, vì lộ trình không thuận tiện cho nên nhiều khi du khách họ chỉ tới tham quan cồn Phụng xong rồi thì lại trở về. Hoặc họ lui lại sang qua thăm cù lao Thới-Sơn cạnh bên, có bến đò đón đưa du khách trên con rạch nhỏ. Và cũng để cho họ có dịp được nghe qua về những câu hò, bài hát tài tử dân ca Nam bộ trong lúc đang thưởng thức mùi vị đủ loại thổ sản ở địa phương nầy.


Đờn ca tài tử tại cù lao Thới-Sơn

Còn đối với du khách nước ngoài, thì lộ trình tham quan Bến-Tre của họ cũng rất thường là giống y như vậy. Tuy nhiên, nói riêng về thắng cảnh cồn Phụng thì nó đúng là một địa điểm tham quan rất là lý tưởng. Và cũng thật là lý thú cho những người nào có óc tò mò, muốn tìm hiểu thêm về lịch sử của tẻo đất tí hon, sao lại có một công trình kiến trúc đặc biệt được xây cất lên nhìn xem thật là ngộ nghĩnh, và độc đáo.


Cồn Phụng ở Bến-Tre

Về mặt giao thông đường bộ, thì cồn Phụng nằm cạnh cửa ngõ chính đi vào thành phố Bến-Tre chỉ cách đó chừng 12km, hoặc bằng đường thủy chừng 25km. Cồn Phụng là một địa điểm du lịch sinh thái nằm trong quần thể của các cồn nổi trên sông Tiền, ranh giới giữa hai tỉnh Tiền-Giang và Bến-Tre. Tại đây có bốn cái cồn nổi mà dân gian thường gọi là Tứ-Linh đó là cồn Rồng, cồn Lân, cồn Qui và cồn Phụng. Phần đông du khách đi phượt đến đây, thì họ sẽ không bao giờ bỏ qua cơ hội để đi một vòng cho hết tất cả mọi điểm đến nào mà họ đã sắp xếp trong chương trình thực hiện buổi rong chơi dã ngoại. Và nếu cần, thì họ sẽ được các hướng dẫn viên du lịch địa phương sẵn sàng tư vấn lộ trình. Thực ra, cho tới giờ phút nầy thì người ta vẫn còn đang chờ những dự án treo về khu du lịch sinh thái hiện đại chưa được bắt đầu khai thác thực hiện ở cù lao Thới-Sơn kế bên với tầm vóc khá quy mô. Chính vì vậy, mà phương tiện dành cho du khách hiện tại ở cồn Phụng chỉ là những chiếc xe ngựa trần hay những chiếc xe đạp sẽ đưa họ đi qua các đường làng, để ngắm nhìn những vườn trái cây sum suê nặng hạt. Và có dịp để giao lưu với hình ảnh sinh hoạt của dân cư sở tại, để nhìn thấy tận mắt những kỹ thuật làm nghề thủ công truyền thống địa phương, và cũng để mua sắm những món hàng lưu niệm nho nhỏ được làm ra bằng thủ công mỹ nghệ từ dừa…


Du khách nước ngoài tham quan cốn Phụng bằng xe đạp và xe ngựa

Hay là, được ngồi trên những chiếc xuồng chèo quanh co len lỏi trong những sông rạch nhỏ, để khám phá và tận hưởng thú vị trước cảnh quan của những rặng bần, và dừa nước xanh tươi mát mắt. Và sau cùng, là điểm hẹn ở khu di tích của ông đạo Dừa.

Khu di tích ông đạo Dừa nằm trong phần đất ở phía đầu của cồn Phụng, một địa danh quen thuộc mà ngày nay người ta có thể nói là gần như đã được hầu hết tất cả mọi người dân cả nước đều có dịp được nghe biết đến. Vào năm 2012 thì địa danh cồn Phụng, mà khu di tích ông đạo Dừa là điểm chính, đã được Hiệp-Hội Du-Lịch Đồng-Bằng Sông Cửu-Long chính thức bình bầu vào vị trí ở hàng đầu trong các điểm du lịch tiêu biểu cho vùng đồng bằng sông nước Cửu-Long.


Thuyền đón đưa du khách

Ông đạo Dừa tên thật là Nguyễn-Thành-Nam (1909-1990), và cũng là người địa phương sinh trưởng ở ngay tại châu thành tỉnh Bến-Tre. Xuất thân là một kỷ sư hóa học tốt nghiệp tại Pháp, và trở về nước vào năm 1935, vài tháng sau ông thành lập gia đình sinh ra được một người con gái. Đúng mười năm sau, thì ông bắt đầu buông bỏ cuộc sống trần tục thế gian để ly gia cắt ái, để chọn lấy con đường tu tập để nguyện cầu cho đất nước hòa bình, bá tánh yên vui hạnh phúc. Trải qua nhiều năm kể từ ngày giã biệt gia đình để lên non tầm sư học đạo trên các núi Tượng, núi Dài, núi Cấm ở Thất-Sơn, và sau những năm trở về ở quê hương hành đạo, thì vào năm 1963 ông lại về cồn Phụng lập ra chùa "Nam-Quốc Phật". Và ông luôn luôn thuyết giảng, truyền bá giáo lý cho các tín đồ bằng những khái niệm của tình thương bao la, để răn dạy và cảm hóa lòng người.

Ngoài ra, ông còn từng là người khai sáng ra Hòa-Đồng Tôn-Giáo và cũng là Giáo-chủ của môn phái nầy (còn được dân gian truyền tụng gọi là đạo Dừa), một hình thức tín ngưỡng tu tập có khuynh hướng chủ trương tổng hợp tinh hoa của các tôn giáo, đặc biệt là của Phật-giáo và Ki-Tô-giáo.

Pháp danh của ông là Thích-Hòa-Bình.


Ông đạo Dừa

Giai thoại về cuộc đời của ông đạo Dừa thật là lý thú, vì ông là người chỉ có ăn và uống nước dừa cùng rau quả mà có thể sống đến hằng chục năm dài, nhưng ông đã có cả hàng vạn tín đồ và trong số đó từng có cả người nước ngoài.

Đó là một đồ đệ người Mỹ, con trai của nhà đại văn hào John Steinbeck (giải văn chương Nobel thế giới 1962). Và các phóng viên báo chí nước ngoài cũng đã từng đến tận cồn Phụng để tìm hiểu phỏng vấn, quay phim tài liệu, loan tin về những hình thức sinh hoạt đặc biệt ở nơi đây.

Ngày nay, tuy ông đạo Dừa đã qua đời nhưng những công trình kiến tạo của ông ở trên cồn vẫn còn nguyên vẹn, và đã trở thành một thắng cảnh đẹp nhất ở Bến-Tre để cho du khách lui tới viếng thăm. Tại khu di tích nầy, ngoài những kiến trúc sân rồng cầu kỳ lạ mắt ở trong khuôn viên thì người ta còn có thể chiêm ngưỡng thêm được từ những mảnh vở của chén, bát, ấm, dĩa, bình sứ cổ đã được bàn tay công phu của các nghệ nhân đắp vào tòa tháp Hòa-Bình tạo thành nên những hình ảnh phượng rồng trông rất đẹp. Còn ở bên trong, thì là một gian nhà thoáng rộng trưng bày đầy đủ về hình ảnh cuộc đời tu khổ hạnh của ông đạo Dừa cùng các vị danh nhân, hiền tài của Bến-Tre. Từ đó đứng nhìn ra bên hông, du khách sẽ thấy còn có thêm nào là vườn hoa trổ bông bốn mùa rất đẹp, hồ nuôi cá sấu, hệ thống nhà hàng ven sông, sân vườn sẵn sàng phục vụ du khách cùng với gian hàng bán nhiều đồ lưu niệm thủ công được sản xuất bằng nhiên liệu của cây dừa lẫn cả vỏ dừa. Đó là các dụng cụ làm bếp như muỗng, đũa, chén, bát, và những loại bình tích, khung hình, mặt nạ đủ màu, xe ba gác, đờn dừa, kẹo dừa v.v.

Đặc biệt, là trong những ngày lễ hội hoặc Tết Xuân về, thì cồn Phụng sẽ là một điểm hẹn cho hàng ngàn du khách có dịp đến xem các tổ chức chương trình văn nghệ góp vui với nhiều tiết mục thật là hấp dẫn của các nghệ sĩ nổi danh từ thành phố Hồ-Chí-Minh xuống tận nơi trình diễn. Và cũng để cho họ có dịp, được tận mắt nhìn thấy đội múa lân nữ ở Bến-Tre xuất hiện bên cạnh các trò chơi dân gian như nào là thi đá chim, câu cá sấu, thi gà Tre cảnh, thi câu cá, các trò xiếc, ảo thuật v.v.


Sân Rồng trong khu di tích ông đạo Dừa

Danh nhân nổi tiếng ở Bến-Tre ngày nay còn được nhiều người nhắc đến tùy theo trường hợp, như nào là nhà giáo uyên thâm Võ-Trường-Toản (mất năm 1792) từng là sư phụ của những nhân vật thành đạt công danh về sau nầy như Ngô-Tùng-Châu (mất năm 1801), võ tướng, công thần của vua Gia-Long. Trịnh-Hoài-Đức (1765-1825), sử gia, công thần nhà Nguyễn. Ngoài ra, về sau cũng còn có nhiều danh nhân khác từng là môn sinh của ông. Và sau khi ông qua đời, thì Phan-Thanh-Giản đã từng có những lời khâm phục Võ-Trường-Toản như sau:

...Tiên sinh không hứng ra làm quan, nên đại khái không thấy được sự nghiệp. Từ thuở tiên sinh lấy lối học nghĩa lý để giáo hóa, chẳng những đương thời đào tạo được nhiều bậc nhân tài, mà còn truyền thuật, giảng luận, trau dồi về sau.


Cổng vào đền thờ Võ-Trường-Toản

Dưới thời thực dân đô hộ, Bến-Tre có vị anh hùng là Lãnh-Binh-Thăng (1798-1866) tên thật là Nguyễn-Ngọc-Thăng vị tướng đầu tiên của tỉnh Bến-Tre. Ông nguyên là một võ tướng của nhà Nguyễn, nhưng ông và chủ tướng là Trương-Định không tuân lệnh chiếu dụ kêu gọi bãi binh của vua Tự-Đức sau khi triều đình nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp là Biên-Hòa, Gia-Định Định-Tường và đảo Côn-Lôn. Và hai ông đã tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến cho đến hơi thở cuối cùng. Trương-Định bị trọng thương nên tự sát, để bảo toàn khí tiết. Hai năm sau, Lãnh-Binh-Thăng bị trúng đạn tử thương.

Cả hai ông đều là những bậc anh hùng, và đã để lại tấm gương chiến đấu oai dũng nơi trận mạc.


Cổng vào đền thờ Lãnh-Binh-Thăng

Đặc biệt, là ở Bến-Tre còn có nhà văn, nhà thơ, nhà báo Sương-Nguyệt-Anh (1864-1921) tên thật là Nguyễn-Thị-Khuê, con gái thứ tư của ông Đồ Chiểu. Bà là chủ bút nữ đầu tiên của VN đứng ra làm báo (tờ báo "Nữ Giới Chung") với chủ trương dùng văn hóa nâng cao dân trí, khuyến khích nông công thương và nhất là đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội với tiêu chí "Vang lừng nữ giới những hồi chuông. Thúc bạn quần thoa thoát cửa buồng" (số 8 ra ngày 22-3-1918). Bà lên tiếng kêu gọi người phụ nữ VN ngoài bổn phận tề gia nội trợ, thì cũng phải có gắng học hỏi tiến bộ và thức tỉnh đòi nam nữ bình quyền. Người ta có thể nói, bà chính là hình ảnh của một bậc nữ kiệt đầu tiên ở đất phương Nam từng đóng góp rất nhiều cho xã hội về mặt văn hóa vào trong buổi giao thời, (đầu thế kỷ XX). Ngoài ra, bà lại còn dấn thân vào việc nước và đã từng trợ giúp phương tiện tài chính cho phong trào Đông du của cụ Phan-Bội-Châu, để nhằm đưa sinh viên sang du học tại Nhật-Bản.

Về các tác phẩm văn thơ của bà để lại cho đời thì cũng rất là phong phú, đa dạng, và đều có mang chung những ý nghĩa thâm thúy, ngầm đánh thức tinh thần quật khởi của người dân trong hoàn cảnh nước nhà loạn ly bị ngoại bang thống trị. Nhất là, trực diện khai phóng tinh thần nhân bản nâng cao phẩm giá và cảnh tỉnh bổn phận của người phụ nữ phải biết ý thức về quyền sống, để nhập cuộc thích nghi vào bối cảnh xã hội trong giai đoạn mới. Do vậy, bà đã phải hết sức khéo léo vận dụng ngòi bút tinh tế, để truyền đạt tâm tư, kêu gọi tinh thần yêu nước của người dân. Và người ta nhận thấy, các bài thơ sáng tác của bà thì hầu hết đều mang đậm sắc hương tình người, tình đất, thanh thoát ý nghĩa về đạo hạnh, phảng phất tình yêu thiên nhiên với nỗi niềm man mác, chứa chan. Mặt khác, về nghệ thuật cấu tạo thành thơ của bà thì không những thật là điêu luyện, mà còn hàm súc ẩn tiềm nét chấm phá, xúc tác với thực tế của hoàn cảnh xã hội vào lúc bấy giờ. Mặt khác nữa, tài danh làm thơ của bà cũng từng được nhiều người ví như là hình ảnh tiêu biểu cho một nữ sĩ Huyện Thanh-Quan (Nguyễn-Thị-Hinh) ở đất phương Nam.

Từ lâu, tên của bà đã được nhiều thành phố trong nước trân trọng dùng để đặt tên cho con đường, cũng như trường học. Riêng đối với quê hương của tác giả, thì bà cũng đã có dịp để lại một kỷ niệm vào năm Canh-Tý 1901. Dạo ấy, bà lên thăm viếng núi Bà Đen vào lúc Xuân về có hoa mai nở trắng đẹp bên cạnh đền thờ Linh Sơn Thánh Mẫu. Xúc cảnh sinh tình, bà đã cảm tác để lại mấy vần thơ truyền cảm tuyệt diệu sau đây:

Vịnh hoa mai trắng

Non linh đất phước trổ hoa thần
Riêng chiếm vườn hồng một cánh xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng
Sương sa bóng nguyệt ánh màu ngân
Mây lành gió tạnh nương hơi chánh
Vóc ngọc mình băng bật khói trần
Sắc nước hương trời nên cảm mến
Non linh đất phước trổ hoa thần.


Sương-Nguyệt-Anh
và tờ báo "Nữ Giới Chung"
Danh nhân văn hóa Bến-Tre về sau nầy còn có thêm nhà biên khảo Huỳnh-Minh (Huỳnh-Khắc-Vịnh) cũng từng nổi tiếng, về các công trình sưu khảo giá trị về địa phương chí ở đất phương Nam. Và các tài liệu của ông để lại, thì hiện nay vẫn còn có nhiều giá trị cơ sở dùng để làm nền tảng tham khảo, nghiên cứu.

Tại miền Nam ngày trước có bốn bến phà lớn là: Mỹ-Thuận, Cần-Thơ, Vàm-Cống và Rạch-Miểu. Hồi trước, xe cộ ở từ phía Mỹ-Tho muốn sang qua địa phận Bến-Tre thì người ta phải mắc công chờ đợi qua phà Rạch-Miểu rất lâu. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi ở hai bến đầu bến phà thì người ta nhìn thấy cảnh quan rất là nhộn nhịp, vui mắt với đầy đủ mọi âm thanh cũng như hình ảnh dập dìu của kẻ bán người mua như nào là nước trà đá, nước ngọt ướp lạnh. Và những loại trái cây như ổi, xoài, chôm chôm, măng cụt, thơm, soài riêng, mía ghim v.v.

Nói chung đều là những loại thổ sản địa phương, đặc biệt là những tiếng rao lanh lảnh mời mọc khách uống nước dừa. Hồi đó, thì ở miền nầy dừa cũng đã có quá nhiều và sau khi uống xong rồi thì người ta liệng nó sang qua chất đống một bên, để phơi khô chờ ngày làm củi chụm lửa.


Đống vỏ dừa khô

Và trong suốt thời kỳ quốc phá gia vong còn bị lâm vào hoàn cảnh chiến tranh bị ngoại bang thống trị, thì Bến-Tre cũng như Tây-Ninh là một trong những vùng đất thiêng khí oai hùng tiên phuông quật khởi, đánh thức người dân sớm có ý thức đấu tranh vùng lên xả thân giành độc lập cho đất nước quê hương. Và hình ảnh cao quý của những vị anh hùng chiến sĩ trận vong, hi sinh vì tổ quốc nằm ở trong địa bàn nầy đã từng chiếm lên đến một con số kỷ lục.

Song song đó, Bến-Tre còn là một tỉnh ở miền Nam có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời thật là phong phú và đa dạng, bởi nhờ có nhiều nhân tài trí thức về lãnh vực văn học nước nhà. Do vậy, cho nên bất cứ bài ký sự nào viết có liên quan về hình ảnh quê hương đất nước con người ở Bến-Tre. Và nếu vô tình không đề cập đến về những giai thoại bút chiến lý thú đặc biệt xảy ra giữa các nhà sĩ phu yêu nước ở Bến-Tre, cùng với loại trí thức bồi Tây vào lúc bấy giờ mà điển hình là trường hợp của Tôn-Thọ-Tường, thì quả là một điều thiếu sót!

Hơn thế nữa, sở dĩ ngày nay thỉnh thoảng người ta còn hay trưng bày về giai thoại lý thú nầy là do bởi có hai trường hợp xảy ra. Thứ nhất, là do bản tánh của những con người đồng điệu muốn lợi dụng những bài thơ hay của Tôn-Thọ-Tường để lên tiếng giả bộ phê bình. Nhưng tinh tế, là để cố tình biện minh, binh vực cho lập trường chính trị hàng giặc của họ Tôn cũng như bản thân của chính họ từng đã bị lâm vào một hoàn cảnh ở trong thời điểm lịch sử nào đó. Còn thứ nhì, là do những nhà văn học sử chân chính muốn đào sâu vấn đề nầy ra để cho có sự công bình trong tầm nhận thức của những nhà phê bình cần phải nên thận trọng đánh giá khách quan để phân biệt rõ ràng giữa mọi chuyện đời về tài, tội, chính, tà, vinh, nhục.

Phàm trong cuộc sống của con người, có lắm khi phải biết giả dại qua sông, lòn trôn giữa chợ v.v, nói chung là phải biết làu thông câu nói ngộ biến phải tòng quyền trong giai đoạn còn được gọi là nằm gai nếm mật. Ngược lại, còn nếu có a tòng phạm điều phản trắc bất lương của phường túi cơm giá áo, cầu đội ơn mưa mốc để mong được vinh thân phì da, thì cũng phải cần khéo léo che giấu cái bản lai diện mục của chính mình, nhất lại là đối với những thành phần trí thức. Đằng nầy, Tôn-Thọ-Tường không những không che giấu mà lại còn công khai tự vạch trần bộ mặt phản nước hại dân cam tâm làm nô lệ của mình. Và cho dù nếu cố tình muốn úp vào cái mặt nạ để trá hình, thì cũng không làm sao mà có thể làm lu mờ được những vết nhơ lịch sử lưu truyền không rửa sạch.

Hơn thế nữa, trong bài thơ "Đĩ già đi tu", thì thêm một bước nữa Tôn-Thọ-Tường cũng đã cố gắng vận dụng mọi kỹ năng sáng tạo thơ phú của mình để tinh tế bóng gió, đánh lận con đen, giả nhân đức hạnh, tung hỏa mù giả bộ lên tiếngchê trách đồng liêu đồng điệu, gỡ gạc, lươn lẹo gán cho người, hay tự sám hối. Và cho dù nếu có thành tâm trong bầt cứ trong tình huống nào, thì Tôn-Thọ-Tường cũng khó mà qua mắt được búa rìu dư luận của đại đa số đồng bào nhân chứng trong hoàn cảnh xã hội loạn ly vào thuở đương thời.

"Đĩ già đi tu"

Chày kình chợt tỉnh giấc Vu san,
Mái tóc kim sinh nửa trắng vàng.
Đài kính biếng soi màn phấn lợt,
Cửa không đành gửi cái xuân tàn.
Chạnh niềm hoa liễu vài câu kệ,
An giấc tang du một chữ nhàn.
Ngoảnh lại lầu xanh thương những kẻ,
Trầm luân chưa khỏi kiếp hồng nhan.

Về sau, bài thơ nầy đã được một nhà phê bình văn học nổi tiếng sau khi nghiên cứu, phân tách cặn kẽ về cuộc đời và sự nghiệp phò Pháp trải qua nhiều giai đoạn, và hiểu được thâm ý của Tường quá sâu sắc, tinh ranh khéo léo gắp lửa bỏ tay người. Cho nên, đáp trả bằng hai câu thơ ngắn gọn như sau:

Tiếc thân làm đĩ già tủi hận
Trớ trêu chi trách phận má hồng

Tuy nhiên, riêng về hai bài thơ (trong tất cả là 24 bài) bút chiến sau đây thì phải nói là có ý nghĩa diễn đạt súc tích thật tài tình. Và vô cùng điêu luyện tuyệt vời, về mặt nghệ thuật cấu tạo thành văn thơ giữa Tôn-Thọ-Tường cùng nhà sĩ phu yêu nước Phan-Văn-Trị.

Đây là một sự kiện hi hữu đặc biệt mà cũng là trường hợp đã làm thêm cho phong phú thơ ca, rất hiếm hoi tìm thấy trong kho tàng lịch sử văn học nước nhà.

"Tôn phu nhân quy Thục"

*********

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang-Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu-Công-Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng
(Tôn-Thọ-Tường)

*****

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn-Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
(Phan-Văn-Trị)

Và cùng trong thế hệ đó, ông Đồ Chiểu của Bến-Tre cũng đã từng giáng cho những con người trí thức vong bản, gian hùng từng tiếp tay cho giặc xâm lăng tàn phá quê hương một bài học để đời bằng mấy câu thơ có ý nghĩa vô cùng thâm thúy:

Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ
Thà đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình
(Lục-Vân-Tiên)

Sau cùng, để kết thúc bài ký sự về xứ Dừa, tác giả hồi tưởng lại một kỷ niệm lần đầu tiên khi còn nhỏ có dịp (đi theo người chú ruột tìm mua tro dừa) vừa mới đặt gót chân lên miền sông nước Bến-Tre. Vì thấy đâu đâu cũng có hình dáng của cây dừa, cho nên tò mò liền đặt ngay câu hỏi với một ông già búi tóc ở địa phương đang ngồi nhậu say gật gù trong quán rượu, thì được ông vui tính lấy tay xoa lên đầu, rồi lè nhè trả lời bằng một huyền thoại nhà quê rặc nghe ra thật là thú vị làm sao!

…Rằng xa xưa có những ông già Ba-Tri góa vợ, và mỗi ông phải nuôi một bầy con cháu cho đến khi chúng trưởng thành yên bề gia thất. Đất đai hương hỏa của các ông được hưởng khá nhiều. Ngặt vì các con của các ông từ thuở nhỏ chỉ quen thói ăn chơi, cho nên không chăm lo việc cấy cày làm lụng, vì thế lúc bấy giờ bọn chúng đã bị lâm vào hoàn cảnh gia đình thiếu trước hụt sau. Do vậy, cho nên các ông mới sực nhớ lại câu ca dao "Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang. Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu", rồi lại nghĩ ra một mưu mẹo nói rằng giờ đây các ông đã già rồi chẳng còn sống được bao lâu, cho nên các ông có ý định nay mai sẽ lên đường trở về cố hương tận miền Trung xa xôi, để thăm lại dòng họ của các ông bà trước khi nhắm mắt lìa đời.

Trước khi từ giã, các ông họp các con cháu lại nói rằng từ lâu các ông đã có chôn giấu nhiều hũ vàng rất lớn ở trong sân nhà, hay ở ngoài đồng mà bây giờ hầu hết các ông đều đã lẫn trí quên mất địa điểm chính xác là ở nơi đâu. Vậy trong thời gian các ông đi xa và ở lại đó rất lâu, thì ở nhà các con hãy cố gắng đào xới mà tìm giùm, nếu kiếm được thì sẽ giàu to. Các con cháu trong làng nghe nói như vậy cho nên người nào người nấy cũng háo hức tận lực cuốc cày, đào xới khắp nơi từ sân nhà, ngoài cổng, ven bờ ruộng rẫy v.v. Tuy nhiên, nhưng hể cứ mỗi lần đào đất lên không thấy gì cả thì lại tiếc công, cho nên chúng nó liền trồng ngay vào đó bằng một trái dừa mộng. Thời gian sau, khi các ông già Ba-Tri đã lần lượt kéo nhau qua đời, thì đó cũng là lúc mà các cây dừa đã mọc lên cao oằn trái sinh lợi được rất nhiều. Lúc đó, lũ con cháu của các ông mới hiểu ra được rằng bài học của ông cha mình để lại thật là bổ ích.

Do vậy, mà từ đó ở vùng Bến-Tre đi tới đâu, thì người ta cũng đều thấy toàn rợp bóng dừa...


Dừa trong khuôn viên

Còn ngày nay, thì hoàn cảnh kinh tế xã hội đã đổi thay cho nên người dân không ai còn bỏ đất hoang, dù là một mảnh tí tẹo, để trồng lên một cây dừa che mát mái nhà và cũng để làm tăng thêm cảnh trí ở sân vườn. Do vậy, rừng dừa Bến-Tre ngày càng rậm rạp nhiều hơn đến nỗi bây giờ nó được nhiều người vừa bắt đầu ca tụng, gọi thêm ra bằng một cái tên mới lạ, mỹ miều hơn trước nữa:

- Đó là vương quốc Dừa.

Điều nầy chứng tỏ rằng người dân địa phương giờ đây đã ý thức được nhiều hơn về mọi sự lợi ích trong công dụng đa năng của cây dừa và đã gia tăng diện tích canh tác hầu mong thu hoạch khá hơn với những nguồn lợi nhuận thật là đáng kể. Về mặt khác, họ luôn luôn bao giờ cũng muốn cho hình dáng của rừng dừa cao soi dưới nước lúc nào cũng che rợp bóng mát trên quê hương của họ hơn bao giờ hết. Vì từ lâu, cây dừa chính là biểu tượng cho dải đất Bến-Tre, nó đã từng gắn bó với biết bao nhiêu là kỷ nệm trong cuộc đời đối với hầu hết những gia đình bà con cô bác xóm làng.

Và, hơn thế nữa, dừa là một loại cây tương đối dễ trồng, cho dù trồng ở chỗ đất đai khô ướt nào, thì nó cũng đều tự biết gồng mình để sống nhăn răng cả! Vậy bạn hãy đừng ngạc nhiên, khi từ lâu nếu đã từng có dịp được nghe qua có hai câu ca dao địa phương quen thuộc ở miền Tây quanh vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu-Long:

Công đâu công uổng công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Bến-Tre

An-Tiêm MAI-LÝ-CANG
(Paris)

 

(1) – Tựa một bài ký sự của tác giả.

*- "Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong Lục Tỉnh":

Hỡi ôi!
Tủi phận biên manh;
Căm loài dương tặc.
Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui;
Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt!
Nhớ các linh xưa:
Tiếng đồn trung nghĩa đến xa;
Thói giữ cương thường làm chắc.
Từ thủa Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oan cừu;
Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.
Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với núi song tâm;
Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc.
Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo;
Bầy cửu lưu cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.
Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo;
tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.
Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên;
Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.
Khá thương thay!
Dân sa nước lửa chầy ngày;
Giặc ép mỡ giàu hết sức.
Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam;
Cực cho người vợ góa con côi, gây đoạn thảm sầu khôn dứt.
Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời;
Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.
Nghĩ nỗi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than;
Tưởng câu danh lợi tuồng đời, trường khối lỗi mặc dầu ai náo nức.
Trời hỡi trời!
Lòng nghĩa dân phải với ngô quân;
Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vức.
Gần Côn-Lôn xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn;
Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?
Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ;
Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin tức.
Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu;
Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.
Như vậy thì:
Số dẩu theo sáu nẻo luân hồi;
Khi sau để trăm năm uất ức.
Trời Gia-Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ;
Đất Biên Hòa đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.
An-Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi cát xoáy bay con trốt dậy bên thành;
Long-Tường-Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước sông mù, lửa huỳnh nháng binh ma chèo dưới vực.
Nhìn mất chặng cờ lau trống sấm, mỉa mai trận nghĩa gửi binh tình;
Thảm đòi ngàn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiến lật.
Thôi!
Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lẩn thẩn, dành một câu thân thế phù trầm;
Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, lũy kiến đồn ong, còn bốn chữ "âm dung phảng phất".
Ôi!
Sống muốn cho an;
Thác sao rằng bức?
Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn;
Chưa kịp nghe tiếng trống an hương, nghĩa quân phụ nào dè chết mất.
Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can qua sông cũng ở ghê mình;
Hoặc là e như trời nam Tống bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.
Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy, gây sự này nào thấy phép tẩy oan;
Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu tuất.
Tuy uổng mệnh hãy chờ khi sách mệnh, sẵn vòng quả báo vấn vương;
Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh đài bực tức.
Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan;
So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.
Đến nay:
Cám cảnh Nam-Trung;
Trách lòng tạo vật.
Ví như sĩ sinh (d)ời Đông-Tấn, nay đánh Hồ mai dẹp Yết, thời phơi gan trong đám tinh chiên;
Nào phải dân ở cõi U-Yên, sớm đầu Hạ, tối về Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức.
Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh;
Ít người đặng xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc.
Muôn dặm giang sơn triều thánh đố, gian sơn còn hơi chính đều còn;
Nghìn năm hồn phách nạn dân này, hồn phách mất tiếng oan nào mất.
Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt, cơn trị bình mới thấy đạo vương;
Muốn cho phép vớt linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.
Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm;
Người uống giận suối vào vàng lắm bực.
Cảnh Nam thổ phơi màu hoa thảo, đọng tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.
Ngày gió thổi lao xao tin dã man, thoắt nhóm thoắt tan thoắt lui thoắt tới, như tuồng bán dạng linh tinh;
Đêm trăng lời giéo giắt tiếng đề quyên, dường hờn dường mến dường khóc dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.
Xưa nghe có bến sông Vị-Thủy, lấy lễ nhân đầu tế lũ hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường-Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức.
Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong;
Đọc bài văn tế quỷ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.
Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin hưởng.

NGUYỄN-ĐÌNH-CHIỂU
** - "Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc":

Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ôi !
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi !
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi !
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi thương thay !
Có linh xin hưởng.

NGUYỄN-ĐÌNH-CHIỂU



Hàng dừa trong thôn xóm


Quầy dừa trên ngọn

***********************