Cái
tên Albert Camus hẳn không xa lạ đối với độc giả Việt
Nam. Có thể nói ông cùng với J P Sartre là hai nhà văn đương
đại Pháp được đọc nhiều hoặc ít ra cũng được nghe
nhăc đến nhiều nhất. Nếu như Sartre với nhân vật Roquentin
trong cuốn La Nausée được ca tụng là nhà văn của chủ
nghĩa hiện sinh, thì tên tuổi Albert Camus, trái lại,
được gắn liền với nhân vật Meursault trong cuốn L'Etranger
như là nhà văn của triết học phi lý. Có thể nói L'Etranger
là tác phẩm của Camus được ưa chuộng nhất và cũng
được dịch ra tiếng Việt nhiều nhất. Theo Nguyễn Văn Lục
trích dẫn dịch giả Trần Thiện Đạo, riêng cuốn
L'Etranger
đã lần lượt được các dịch giả sau đây chuyển ra tiếng
Việt : Người xa lạ, A. Camus (Võ Lang), nxb Thời Mới
1965.
Kẻ xa lạ (Dương Kiền và Bùi Ngọc Dung), nxb Ngày
Nay 1965. Kẻ xa lạ (Lê Thanh Hoàng Dân và Mai Vi Phúc),
nxb Trẻ 1973. Người dưng (Dương Tường), nxb Văn Học,
Hà Nội 1995. Và mới đây nhất Kẻ xa lạ (Nguyễn Văn
Dân), nxb Văn Hóa, Hà Nội 2002.(1) Hiện tượng thi dua dịch
cuốn " L'Etranger " khiến hình ảnh Meursault, nhân vật
người hùng của câu truyện kể, trở thành phổ biến và
tên tuổi A. Camus, vì vậy, cũng được gắn liền với cuốn
L'Etranger như là nhà văn của ý thức phi lý. Bản thân tôi,
trong bài viết " Dịch là phản ? " mới đây, khi nhắc
tới nhân vật Meursault ngay trong phần mở đầu, cũng đã vô
tình đóng góp vào việc nuôi dưỡng cái khí quyển phi lý
bao trùm không gian văn học Camus và tô đậm thêm chân dung
nhà văn của phi lý nơi ông. Nhưng mới đây, một biến cố
thời sự gây chấn động toàn thể nước Pháp làm tôi sực
nhớ tới một bài viết về Camus cho mục văn học nghệ thuật
đọc trên đài RFI cách đây khoảng chừng hai chục năm (2).
Biến cố thời
sự tôi vừa nhắc đến, là vụ một thanh niên Pháp gốc người
Algérie, Mohamet Merah 23 tuổi, sáng ngày 19/3/12 đã bất ngờ
sấn tới nổ súng bắn chết một giáo viên cùng ba trẻ em
học sinh trước cửa một trường học tại Toulouse chỉ vì
họ là dân Do Thái. Thành thực mà nói, vụ sát hại này, về
mặt tổn thất nhân mạng, cũng chẳng lấy gì làm khủng khiếp
cho lắm so với con số hàng chục có khi lên tới hàng trăm
người bị chết hoặc bị thương trong các vụ khủng bố
hoặc đàn áp dân chúng tại nhiều nơi trên thế giới. Với
kỹ thuật truyền thông tiên tiến hiện đại, hàng ngày thiếu
gì các tin tức thuộc loại này. Hình ảnh các vụ giết chóc
xảy ra hầu như cơm bũa ấy, đã dần dà tạo nơi ta một
thứ phản xạ dửng dưng của người ngoại cuộc được bình
chân như vại, nhất là khi những cảnh chết chóc đó chỉ
được hình dung bằng các con số khô khan trừu tượng. Tuy
nhiên vụ thảm sát tại Toulouse, qua tường thuật của tuần
báo Paris - Match số 3279 (22-28 Mars 2012) đã khiến tôi xúc động
kinh hoàng. Theo bài báo, đúng 7g54 sáng thứ hai 19-3-2012, sau
khi lái xe moto tới trước một ngôi trường trung học Do Thái,
tên Merah đã dùng súng bắn chết một giáo viên người Do
Thái cùng hai đứa con trai lên ba và lên năm đang đứng trước
cổng trường. Sau đo tên Merah còn quay súng định hạ sat thêm
bé gái Myriam bảy tuổi, con của vị hiệu trưởng trung học
cũng dân Do Thái. Nhưng do súng kẹt đạn, em Myriam chỉ bị
thương nên chạy trốn vào sân trường. Nhất định không
tha, tên Meriah phóng mình rươt theo nắm bắt em, rút trong người
ra một khẩu súng khác và hạ sát em. Tôi rùng mình khi tưởng
tượng ra cảnh em bé ngây thơ vô tội đó hai tay ôm mặt,
thân hình co quắp lại vi sợ hãi, trong khi tên sát nhân, bất
chấp tiếng rú thất thanh và khuôn mặt rúm ró của em đã
lạnh lùng bắn vào màng tang em. Tôi còn kinh hoàng hơn nữa
khi được biết động cơ của hành vi sát nhân dã man này,
theo lời tự thú của đương sự trong mọt cuộn băng vidéo
thu sẵn định nhờ truyền thông phổ biến, là nhân danh chủ
nghĩa Hồi giáo cực đoan và để trả thù cho các trẻ em Palestine
nạn nhân của người Do Thái. Mấy chi tiết sống sượng này
đã ám ảnh tâm trí tôi, làm tôi thắc mắc tự hỏi : Sự
thật có đúng như vậy không ? Nếu quả là đúng, bước vào
kỷ nguyên tin học ở thế kỷ 21 này chúng ta liệu có thể
tự hào là thuộc về nhân loại văn minh tiến bộ hay không
? Hay là những phát minh khoa học diệu kỳ đem lại cải thiện
đời sống vật chất đáng kể, nhưng không đi kèm với tiến
bộ của lương tri, chỉ dẫn đến hủy hoại tâm hồn mà
thôi, như lời báo động của Rabelais đã vang vọng ngay từ
đầu thế kỷ thứ 16. ( " Science sans conscience n'est que ruine
de l'âme ", Rabelais, Gargantua, Livre I,17)). Tôi thắc
mắc tự hỏi không phải riêng vì Merah là người gốc Ả
Rập và y đã ra tay hành động nhân danh các chủ thuyết tôn
giáo và chủng tộc. Chưa đầy một tháng sau vụ thảm sát
tại Toulouse thì tại Oslo, thủ đo xứ Na Uy lại dội lên vụ
án Anders Breivik, một thanh niên Na Uy theo chủ nghĩa quốc gia
cực đoan, ngày 22-7-2011 đã thẳng tay hạ sát 77 nhân mạng
cùng làm bi thương hàng chục người khác tới dự một cuộc
họp biểu tình của các nhóm thiên tả, trong đó có nhiều
người theo đạo Hồi. Ra tòa, Breivik chẳng những không hề
tỏ vẻ ăn năn, mà còn cho việc làm của mình là hành vi tự
vệ chính đáng để bảo vệ đất nước Na Uy khỏi sư xâm
nhập và bành trướng của đạo Hồi. Cả Merah lẫn Breivik,
trong hai vụ này, đều tự cho mình cái quyền sinh sát nhân
danh các chủ thuyết hay tín ngưỡng của họ. Chinh thái độ
cuồng tín ấy làm tôi chợt nhớ tới nhân vật Kaliayev trong
vở " Les Justes " của Albert Camus, khiến tôi muốn tìm
đọc lại vở kịch này. Nhưng giữa hành động khủng bố
của Mahomet Merah và nhân vật Kaliayev trong vở " Les Justes "
có sự liên hệ nào ? Trước khi đi vào trả lời, có lẽ
ta cần tìm hiểu qua nội dung và ý nghĩa vở kịch của Camus.
Kaliayev là một
nhân vật có thật và vở kịch " Les Justes " cũng dựa trên
một sự kiện lịch sử có thật : vụ ám sát quận công Serge,
nhân vật tiêu biểu cho chế độ độc tài sắt máu Nga Hoàng
tại Moscou ngày 17-2-1905. Là thành viên của một tổ chức
khủng bố thuộc Đảng Xã Hội Cách Mạng Nga thời đó, Kaliayev
được giao sứ mạng liệng bom vào xe chở quận công Serge
đê sát hại ông ta. Âm mưu ám sát lần đầu không thành vì
bữa đó trên xe, ngoài quận công Serge, còn có hai đứa cháu
nhỏ đi cùng. Kaliayev đã không ra tay hành động vì thấy không
thể bắt hai trẻ em vô tội phải hi sinh vô ích. Hai ngày sau,
khi chỉ còn mình quận công Serge, Kaliayev đã hoàn thành sứ
mạng và bị bắt. Nhất định không khai đồng đội, Kaliayev
chịu bi hành quyết khi còn là sinh viên mới hai mươi sáu tuổi.
Trong vở kịch, Camus đã giữ nguyên cái tên Kaliayev cùng một
vài nhân vật khác, cũng như ông đã tôn trọng diễn biến
của hành động khủng bố ám sát. Nhưng Camus đã mượn tên
các nhân vật và sự kiện lịch sử này không chỉ cốt để
dựng lại lịch sử hay luận về lịch sử, mà chủ đích
là để nêu lên một vấn đề nóng bỏng ngày càng được
đăt ra ở thời đại chúng ta : Vấn đề phương tiện và
cứu cánh trong hành động cách mạng. Hay, cụ thể hơn : Để
thực hiện lý tưởng phục vụ con người, ta có quyền tự
cho phép làm bất cứ điều gì, kể cả hành động sát nhân,
hay ta không thể, vì chủ nghĩa lý tưởng và nhân danh chủ
nghĩa lý tưởng, mà cướp đoạt quyền sống tha nhân ? Trong
vở kịch, hai nhóm nhân vật đại diện cho hai quan niệm hành
động khác nhau đã nói lên quan điểm của Camus về vấn đề
này.
Một bên là Stépan
đại diện cho nhóm người cách mạng khủng bố chuyên nghiệp,
lấy việc xây dựng một trật tự xã hội mới làm cứu cánh
và thù hận làm động cơ hành động. Ta có thê gọi họ là
những con người cách mạng tha hóa (des révolutionnaires aliénés).
Là những robot cách mạng, những con người chỉ có cái đầu
mà không có trái tim, họ không tin rằng tham gia cách mạng
còn có thể là những con người bình thường và vẫn có thể
sống như một con người bình thường. Bởi vậy ngay buổi
hội kiến lần đầu, Stépan đã tỏ vẻ khó chịu trước
một vài biểu hiện lạc quan yêu đời của Kaliayev và nghi
ngờ về khả năng đi làm cách mạng nơi anh. Rồi tới khi
nghe nói Kaliayev tự phong mình là nhà thơ và cho rằng " thơ
cũng là cách mạng ", y đã lạnh lùng đáp : " Chỉ có bom
đạn mới cách mạng " (" Seule la bombe est révolutionnaire.
" A.Camus - Les Justes, p.21.- Folio, Editions Gallimard
1950). Tiếp đến, khi thấy Kaliayev lủi thủi quay về chỉ
vì trên xe còn có hai trẻ nhỏ, Stepan đã không ngần ngại
quả quyết : " Ngày nào chúng ta quyết định quên đi những
đứa trẻ, ngày đó, chúng ta sẽ làm chủ thế giới và cách
mạng sẽ thành công. " (Quand nous nous déciderons d'oublier
les enfants, ce jour-là, nous serons maitres du monde et la révolution
triomphera. " - Sđd. tr. 59). Rồi khi nghe Dora, người yêu của
Kaliayev, biện bạch:" Ngay cả trong hủy diệt, cần có một
trật tự, cần có những giới hạn." (Même dans la destruction,
il y a un ordre, il y a des limites.) y liền hung hăng kết tội :
"
Không cần có giới hạn. Sự thật là mấy người không tin
vào cách mạng. " (" Il n'y a pas de limites. La vérité est que
vous ne croyez pas à la révolution " ; Sdd. tr. 62). Qua một vài mẩu
đối thoại trên, ta có thể xếp Stepan thuộc loại con người
cách mạng tha hóa. Với những con người như vậy ta không
lạ gì nếu, sau khi cách mạng thành công, họ đã khư khư
bám lấy chủ nghĩa, dựa vào chủ nghĩa nhằm củng cố quyền
hành hành, để rồi cuối cùng trở thành bạo chúa. (3).Ta
có thể coi Staline, Mao Trạch Đông, Kim Jong Il, hay Polpot là
những khuôn mặt cách mạng tha hóa thuộc diện này.
Khác với Stépan,
ta có thể gọi Kaliayev cùng người yêu Dora là những nhà cách
mạng nhân bản (révolutionnaires humanistes). Họ đến với
cách mạng không chỉ với cái đầu mà còn bằng trái tim,
nghĩa là họ vẫn là những con người còn biết yêu :
yêu bản thân, yêu người yêu, yêu đồng loại, yêu cái buồn
cái vui, cái thương cái ghét, cái làng cái xóm, cái hoa cái
bướm, cái nắng cái mưa... tất cả những cái bình thường
nhưng ý vị đem lại ý nghĩa cho đời sống trên thế gian
này. Đó mới là động cơ thúc đẩy họ gia nhập cách mạng.
Ta hãy nghe Kaliayev tâm sự với Dora : " Anh yêu cái đẹp,
anh yêu hạnh phúc ! Chính vì vậy anh mới ghét bỏ sự chuyên
chế áp bức... Làm cách mạng, dĩ nhiên rồi ! Nhưng làm cách
mạng là để vun trồng sự sống, là để tạo thêm cơ hội
cho cuộc sống, em có hiểu không ? " (" J'aime la beauté, le
bonheur ! C'est pour cela que je hais le despotisme. La révolution bien
sûr ! Mais la révolution pour la vie, pour donner une chance à la vie,
tu comprends ? " ; Sdd. tr 36). Cũng bởi vậy, nên khi bị Stépan
chỉ trích là anh có thể làm hỏng cơ đồ cách mạng chỉ
vì muốn buông tha hai trẻ nhỏ, Kaliayev đã thẳng thắn trả
lời: " Nhưng tôi, tôi lại yêu mến những con người đang
sống trên cùng một trái đất như tôi. Họ mới là kẻ tôi
muốn chào đón. Vì họ tôi mới đấu tranh, vì họ tôi mới
chấp nhận hi sinh. Và tôi không thể nhân danh một thiên đường
xa vời không lấy gì chắc chắn để mà đạp lên mặt những
người anh em tôi. Tôi không thể nhân danh một nền công lý
chết mà hành động để làm tăng thêm những bất công hiện
tại. " (Mais moi, j'aime ceux qui vivent sur la même terre que moi,
et c'est eux que je salue. Et c'est pour eux que je lutte et que je consens
à mourir. Et pour une cité lointaine, dont je ne suis pas sûr, je n'irai
pas frapper sur le visage de mes frères. Je n'irai pas ajouter à l'injustice
vivante pour une justice morte. " Sdd, tr. 65). Bởi dấn thân làm
cách mạng do yêu mến con người và yêu chuộng công lý nên
Kaliayev đã nhiều lúc bức xúc trăn trở với ý nghĩ phải
ra tay sát hại kẻ khác. Nhưng rồi anh cũng tìm ra được giải
đáp qua phần thố lộ dưới đây với Dora : " Một ý tưởng
làm anh trằn trọc : chúng đã biến chúng ta thành những kẻ
sát nhân. Nhưng đồng thời anh nghĩ là anh sẽ chết, thế
là tâm hồn anh lắng dịu. Rồi anh mỉm cười và ngủ lại,
như một đứa trẻ thơ. " (Une pensée me tourmente : ils ont
fait de nous un assassin. Mais je pense en même temps que je vais mourir,
et alors mon c�ur s'apaise. Je souris, tu vois, et je me rendors comme
un enfant. Sdd. tr, 39)
Về phần Dora, người
yêu của anh, tuy chưa phải sống cái bi kịch của con người
công
chính đi làm cách mạng như Kaliayev, nhưng lại có những
âu lo khắc khoải khác. Trước hết là âu lo của một đồng
đội. Gia nhập hàng ngũ cách mạng trước Kaliayev và cũng
lớn tuổi hơn, Dora đã nhìn sự nhiệt tình hăng say của Kaliayev
bằng cặp mắt đùm bọc âu lo của người chị với đứa
em còn non trẻ . " Ồ ! Yanek. (4) Anh nên biết, anh cần phải
được cảnh báo. Một con người dẫu sao cũng là một con
người. Quận công (lúc đó) có thể đang có tia nhìn cảm
thông. Có thể anh sẽ thấy ông ta đang gãi tai hay cười nụ
vui vẻ. Biết đâu trên mặt ông ta lại chẳng có một vết
sước dao cạo. Và biết đâu lúc đó ông ta lại chẳng nhìn
anh... " (Oh ! Yanek, il faut que tu saches, il faut que tu sois prévenu
! Un homme est un homme. Le grand-duc a peut-être des yeux compatissants.
Tu le verras se gratter l'oreille ou sourire joyeusement. Qui sait, il
portera peut-être une petite coupure de rasoir. Et s'il te regarde à
ce moment-là... Sdd ; tr.42). Cũng tham gia cách mạng như Kaliayev,
nhưng từng trải hơn, kinh nghiệm hơn, nên Dora biết nhìn ra
cái cạm bẫy mà Kaliayev có thể gặp phải : Khi ta trừu tượng
hóa đối tượng đấu tranh bằng một ý niệm, bằng một
biểu tượng cho sự bát công áp bức ta có thể chém giết
không gờm tay. Nhưng khi phải đối diện một con người bằng
xương bằng thịt với một vài điệu bộ của một con người
bình thường - như ta - thì chính những biểu hiện bình thường
ấy đã làm ta phải ngần ngại. Cái tuyệt tác của văn chương
Camus là thế đó. Là ở chỗ ông đã khéo chọn thể loại
kịch để khai thác khả năng truyền đạt của ngôn ngữ kịch
trong những trạng huống đặc biệt. Chỉ bằng một vài mẩu
đối thoại nho nhỏ, đôi ba chi tiết cỏn con, ông cũng cho
ta thấy được khoảng cách vời vợi giữa những kẻ đầu
cơ cách mạng để thực hiện tham vọng ngông cuồng của họ,
và những con người chân chính đến với cách mạng chỉ vì
tha thiết với cuộc sống và qui trọng con ngừoi.
Nhưng Dora không
chỉ có là đồng đội mà, trước hết, còn là một người
đang yêu và được yêu. Bởi vậy nàng mới phải sống một
thảm kịch riêng. Nếu như Kaliayev, bằng hi sinh tính mạng,
đã có thể an tâm lên đường làm Kinh Kha tráng sĩ hề một
đi không trở lại, thì Dora, trong cương vị người yêu bất
lực, lại phải sống thấp thỏm lo âu trước viễn ảnh cuộc
tình có thể vĩnh viễn dở dang. Bởi vậy tuy không muốn làm
cho Kaliayev phải
anh hùng khí đoản, Dora cũng có lúc
không trấn áp nổi cái nhi nữ thường tình của mình
: " Máu đã đổ nhiều quá, bạo lực cũng nhiều quá. Những
kẻ thực tình yêu công lý lại không được quyền hưởng
lạc thú yêu đương. Họ phải đứng đậy như em, cái đầu
ngửng cao, cặp mắt nhìn thẳng. Liệu có chỗ đứng nào cho
tình yêu trong những trái tim kiêu hãnh này ? Tình yêu làm cho
cái đầu mềm mại cúi xuống, Yanek. Vậy mà anh và em, chúng
ta cứ phải ngửng cổ cao. " (Il y a trop de sang, trop de dure
violence. Ceux qui aiment vraiment la justice n'ont pas droit à l'amour.
Ils sont dressés comme je suis, la tête levée, les yeux fixes. Que viendrait
faire l'amour dans ces coeurs fiers ? L'amour courbe doucement les têtes,
Yanek. Nous, nous avons la nuque raide. Sdd. tr,84). Rồi khi nghe Kaliayev
tìm lời an ủi : " Nhưng chúng ta yêu nhân dân... (Vì nhân
dân) chúng ta cho hết, hi sinh hêt mà không hi vọng được đền
bù, đó chính là tình yêu " (Mais nous aimons notre peuple...
Mais c'est cela l'amour, tout donner, tout sacrifier sans espoir de retour.
Sdd ; tr.84), nàng đã trút hết nỗi lòng bằng những lời hầu
như nức nở : " Có thể. Đó chính là tình yêu tuyệt đối,
niềm vui tinh khiết và cô đơn, và đó cũng là cái đang nung
nấu trong em. Tuy nhiên cũng có lúc em tự hỏi liệu tình yêu
có thể là một cái gì khác thay vì chỉ là những lờit độc
thoại (5) và liệu, đôi khi, cũng có được câu trả lời.
Anh biết không, câu trả lời đó em mường tượng như sau
: ánh nắng lung linh, đôi mái đầu từ từ cúi sát, con tim
từ bỏ niềm kiêu hãnh, những cánh tay mở rộng. Ôi ! Yanek,
nếu chúng ta có thể quên đi, dù chỉ là một giờ thôi, quên
đi những thống khổ trên thế gian này để được cùng nhau
sống buông thả. Quên đi để được sống ích kỷ với nhau
chỉ trong một giờ ngắn ngủi thôi. Anh ! anh có nghĩ như vậy
không ? " (Peut-être. C'est l'amour absolu, la joie pure et solitaire,
c'est celui qui me brûle en effet. A certaines heures pourtant, je me
demande si l'amour n'est pas autre chose, s'il peut cesser d'être un monologue,
et s'il n'y a pas une réponse, quelquefois. J'imagine cela, vois-tu :
le soleil brille, les têtes se courbent doucement, le c�ur quitte sa fierté,
les bras s'ouvrent. Ah ! Yanek, si l'on pouvait oublier, ne fût-ce qu'une
heure, l'atroce misère de ce monde et se laisser aller enfin. Une seule
petite heure d'égọsme, peux-tu penser à cela ? Sdd. tr,84-85).
Vở kịch, như chúng
ta đã biết, kết thúc bằng cái chết của Kaliayev. Hành động
hi sinh quả quyết của anh đã làm thay đổi cách nhìn của
Stépan khiến y biết cảm thông. Bởi vậy tuy được chỉ định
thi hành sứ mạng kế tiếp, nhưng trước cái đau khổ tuyệt
vọng của Dora, y đã nhường vinh dự ấy cho Dora để nàng
có cơ hội được gặp lại người yêu ở một thế giới
tốt đẹp hơn. " Les justes " do đó không chỉ có
là bi kịch lịch sử, mà còn là bi kịch con người trong lịch
sử hay, đúng ra, là bi kịch của thân phận những con người
còn là người. Những con người biết thương biết ghét, biết
vui biết buồn, biết sướng biết khổ, biết yêu biết hờn...
nghĩa là tất cả những gì đem lại ý nghĩa cho đời sống
con người trong một thế giới còn mang chiều kích con người.
Riêng với những con người ở tuổi thanh xuân, thử hỏi có
bi kịch thân phận nào bi đát hơn là bi kịch tình yêu ? Bởi
vậy Camus đã không quên mượn câu thơ của Shakespeare trong
vở Roméo et Juliette : " O love ! O life ! Not life
but love in death " (Ôi tình yêu ! Ôi cuộc sống! Không phải
sự sống mà là tình yêu trong cõi chết.) để mở đầu cho
vở kịch của ông . Với câu thơ này phải chăng Camus còn
muốn nhắc nhở ta rằng sau mỗi biến động lịch sử, nếu
như - vâng
nếu như - đời sống xã hội có được phần
nào cải thiện thì những người đang sống hôm nay chớ nên
quên rằng những gì họ đang thụ hưởng đã được tạo
nên bằng máu và nước mắt của những Dora, những Kaliayey,
những con người công chính (les justes) quảng đại, không
biết sống cho mình nhưng sẵn sàng dâng trọn tuổi thanh xuân
để mong vun xới cho cây đời thêm được xanh tươi. (6)
Trên đây là một
vài cảm nhận mới của tôi sau khi đọc lại vở "Les justes"
của Camus. Với ánh sáng của các biến cố thời sự hàng
ngày, tôi phát hiện được rằng Camus không phải nhà văn
chỉ có luận về phi lý. Trái lại ông còn là nhà văn nhân
bản mà những suy tư về các vấn đề con người vẫn luôn
luôn hiện đại. Và nhờ có đọc lại, tôi phát hiện thêm
rằng : Văn chương không chỉ là sản phẩm của trí tuệ
và cảm xúc chỉ nhằm phục vụ nhu cầu giải trí. Nó lại
càng không phải là công cụ để phục vụ cho những chế
độ theo chủ nghĩa hay những tham vọng quyền lực. Văn chương
đích thực chính là nỗ lực vươn lên không mệt mỏi của
ý thức để tìm kiếm những giá trị mới đem lại một ý
nghĩa mới cho dòng đời không hề ngưng đọng. Hàn
Lâm Viện Thụy Điển quả đã không lầm khi trao tặng Camus
giải văn chương Nobel 1957 như là để tưởng thưởng "một
công trình văn học đã đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt
cho lương tri con người ở thời đại chúng ta" (... pour
couronner une oeuvre qui met en lumière les problèmes se posant de nos
jours à la conscience des hommes. Theo Lagarde & Michard, XXè
siècle, p. 616) Tôi mong sẽ còn dịp trở lại với Camus để
nói về một vài tác phẩm khác của ông. Tôi cũng mong sẽ
có những đóng góp khác của các vị học giả uyên bác, các
nhà phê bình có uy tín, các bậc giáo sư tiến sĩ có thẩm
quyền để cùng độc giả ra khỏi những lối mòn lầy lội
và tạo điều kiện cho chúng ta được hiểu sâu hơn, hiểu
rộng hơn về một nhà văn mà giá trị tư tưởng đã được
thế giới công nhận.
NGUYỄN
BẢO HƯNG
|