Dê
có công làm cho làng nhậu, làng chơi Nam Bắc xích lại gần
nhau. Thịt dê từ Bắc chạy vào Nam. Máu dê từ Nam loang ra
Bắc. Ngày nay, cả nước gật gù kháo nhau " sống ở đời
không dê cũng uổng ".
Mới ngày nào, dê ba
miền nước ta còn lận đận vì... lí lịch mờ ám.
Tài liệu của
Uỷ
ban Canh nông và Công nghiệp Nam kì (Le comité Agricole et
Industriel de la Cochinchine), soạn thảo năm 1878, cho biết
tiểu sử của dê trong Nam :
Người An Nam (đúng hơn
là người Nam Kì) vốn không ăn thịt dê, không uống sữa
dê. Nam Kì lại là xứ nhiều đồng lầy, dê dễ bị bịnh,
dễ chết, cho nên chẳng ai nghĩ đến chuyện chăn nuôi dê.
Trừ một vài đại gia thích dê, nuôi chơi dăm ba con.
Người Pháp có cho nhập
dê vào Nam Kì để nuôi thử. Hi vọng trong tương lai Nam Kì
sẽ phát triển ngành chăn nuôi dê (1).
Tại miền Trung, mãi
đến năm 1931 người ta vẫn chưa để ý đến việc chăn nuôi
dê. Đó đây thỉnh thoảng mới thấy lẻ tẻ vài con (2).
Năm 1891, miền Bắc có
nuôi một giống dê nhỏ con, lông ngắn, thịt mềm, ít mỡ.
Giống dê này được người Lào, người Mường nuôi rất
nhiều.
Nói chung, người Việt
ít khi ăn thịt dê vì thịt dê giá còn đắt. Chỉ có cỗ
bàn, cúng giỗ ông bà, ăn uống ngày Tết, của nhà giàu mới
có thịt dê.
Người Âu không thích
thịt dê của ta vì họ cho rằng thịt chẳng bổ dưỡng gì.
Bác sĩ Courtois cảnh
báo mọi người rằng dê nước ta hay bị dịch. Phải khám
xét cẩn thận thịt dê trước khi ăn (3).
Miền Trung không nuôi
dê nhưng...
Năm 1883, ngày Ất Hợi,
vua (Hiệp Hoà) nhận tôn hiệu. Ngày hôm ấy, làm lễ tấn
tôn ở điện Thái Hoà, lúc đang bài ban có một con quạ bay
đến đậu ở cây trước điện, kêu to 4 tiếng. Lại lúc
tuyên chiếu, có đàn dê đi ngang qua bên ngoài cầu Kim
Thuỷ, có người cho là điềm không tốt (4).
Thì ra, dưới thời Tự
Đức trong hoàng thành có nuôi dê.
Vua quan vui thú
bò dê,
Giang sơn nghiêng ngửa
nhiều bề... ai lo ?
Thịt dê là một đặc
sản của triều đình. Có lẽ vì vậy mà dân chúng miền Trung
không ai dám "phạm thượng" nuôi dê chăng?
Người miền Bắc có
mẹo Cho dê uống rượu say rồi mới giết (Tứ dương
ẩm tửu hoạch tuý nhi sát), được tranh Oger ghi lại. Không
hiểu cho dê uống rượu với mục đích gì ?
Người thì nói : Dê
ngà ngà say sẽ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Đồ tể
có xin tí huyết pha rượu tiết dê (một phần
tiết, ba phần rượu) (5),
dê cũng sẵn sàng nhắm mắt bỏ qua !
Có người lại cho rằng
: Say cho đời lên hương ! Dê say thịt mới thơm. Mới... bổ
tì bổ phế. Bổ âm bổ dương. Bổ nháo bổ nhào.
Thế gian ba sự
khôn chừa
Rượu nồng, dê béo,
gái vừa đương tơ
Rượu vào, đi " dê gái
tơ " thì... ông trời cũng chẳng chừa được.
Điều đáng ngạc nhiên
là miền Nam tuy hiếm dê
nhưng phần lớn các chuyện
dê
của ta lại xuất phát từ miền Nam.
Cà dái dê
Trái cà tím trước
kia được bà con trong Nam gọi nôm na là cà dái dê
(Tự vị Huỳnh Tịnh Của, 1895). Génibrel gọi một
cách kín đáo là cà dê. Tên không hay, không đúng.
Cà dái dê mới tuyệt vời, đúng là cà...trông mặt đặt
tên. Khen cho con mắt tinh đời và nhạy cảm của
các bà ngày ngày xách giỏ đi chợ.
Miền Nam không nuôi,
không ăn thịt dê. Vậy mà lại có cà dái dê. Giải
thích thế nào đây?
Năm 1878, trái cà
aubergine
của Pháp (Solanum melongena) vẫn còn được người miền
Nam gọi trống không là cà. Chưa có tên riêng. Nhưng
miền Nam lúc này đã có đậu dái chồn (petite lentille),
có cả củ dái chồn (Orchis morio) (1').
Tên dái chồn
chứng
tỏ rằng người miền Nam đã có thói quen trông mặt đặt
tên cho rau trái bày bán ngoài chợ từ lâu rồi.
Khi người Pháp đưa
dê vào chăn nuôi tại miền Nam thì các bà nội trợ đã nhanh
chóng " nhìn ra " tên trái cà màu tím nằm chình ình ngoài chợ.
Có thể suy đoán rằng
cà (aubergine) đã được
các bà (với sự đồng loã của các ông ?) cập nhật thành
cà dái dê vào khoảng năm 1880.
Miền Bắc có
cà dái
dê muộn hơn miền Nam cả chục năm. Bác sĩ Courtois cho
biết chính người Pháp đã gửi hạt giống cà tím (aubergine),
cà chua (tomate), nghệ tây (carotte), bắp cải (chou)...
và nhiều loại rau (salades) từ Pháp sang trồng tại Bắc
Kì vào khoảng năm 1890 (3').
Cà dái dê là thương
hiệu của miền Nam. Bù lại, miền Bắc có thương hiệu
thuốc tễ cứt dê. Thuở bé, mỗi lần nhức đầu xổ
mũi lại được mẹ cho nhai vài viên cứt dê
màu đen.
Thuốc có vị ngon. Cam thảo ngọt thơm như vậy mà lại
bị gán cho cái tên chẳng thơm tho chút nào.
Cà dái dê
đã
làm một cuộc "cách mạng văn hoá" đổ giường lệch chiếu
trong Nam. Trông mặt mà bắt hình dong, dân gian được
mắt trông tay nắn trái cà, vừa cảm nhận vừa nắm bắt
được cái " vĩ đại " của dê.
Bà con bèn tôn dê lên
hàng " quán quân dâm dục ". Ghi tên dê vào
sổ đỏ "kỉ lục bậy bạ" !
Oan cho dê. Nhà nho không
đánh giá dê là dâm. Sách Đại Nam dư địa chí ước
biên của Cao Xuân Dục chỉ chép hươu rất dâm. Một
con cái thường giao hợp với mấy con đực, gọi là tụ lộc (6).
Nhà nho muốn nói gì
thì nói. Dân gian cứ nói theo dân gian. Cứ cho dê là
biểu hiệu của dâm.
Miền Nam, miền Bắc
có cà dái dê... Nhưng, giai thoại ca tụng cà
dái dê được bình chọn là hot nhất Việt Nam lại
là của cố đô Huế!
Thời Khải Định (1916-1925),
trong số các cung nữ mới được tuyển vào Đoan Trang viện
có hai cô thân mật với nhau như vợ chồng. Thường
ngày hai cô lại hay dặn người đi chợ mua chuối và cà
dái dê.
Lựa chuối chớ
mềm và chớ ngắn
Chọn cà không cứng
cũng không to
Một hôm ông thái giám
già tò mò rình, đẩy cửa phòng vào thì bắt gặp hai cô đang
hú hí lấy chuối lấy cà chơi trò âu yếm như là vợ chồng (7).
Râu dê
Thực dân Pháp còn mang
vào nước ta chòm
râu dê (barbe du bouc).
Có chắc râu dê là
của Pháp không? Tại sao Lãng Nhân lại kể rằng :
Trong thời gian Nguyễn
Công Trứ làm tổng đốc Hải Dương, ông có bổ Nguyễn Quý
Tân ( người tỉnh Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm 1842), đi
giáo thụ phủ Bình Giang.
Một hôm Nghè Tân sai
con đến dinh Nguyễn Công Trứ xin cầm cố lấy chút tiền
tiêu. Lại dặn con trao cho Nguyễn Công Trứ một bài thơ đường
luật, mỗi câu có tên một con vật. Hai câu cuối là:
- Bôn tẩu làm
chi cho rách gấu
Thà rằng ngồi đó
vuốt
râu dê
Nguyễn Công Trứ đưa tiền
cho người con của Nguyễn Quý Tân, kèm bài thơ hoạ với hai
câu cuối là :
- Xin đừng dở
dói văn chương nữa
Bán chó sao ngoài lại
thủ dê ? (8).
Rõ ràng các cụ nhà ta
đã có thú vuốt
râu dê từ trước khi Pháp đô hộ
nước ta. Nói có sách mách có chứng đàng hoàng!
Nói có sách nhưng
sách nói có đúng không ?
Sử nhà Nguyễn chép
:
Năm 1833, Nguyễn Công
Trứ được thăng làm tổng đốc Hải An ( Hải Dương và Quảng
An hay Quảng Yên). Năm 1836 ông bị giáng bốn cấp và bị gọi
về Kinh. Năm 1840 ông đi đánh thành Trấn Tây bên Cao Mên.
Từ đó về sau, Nguyễn Công Trứ bôn ba ở An Giang, Quảng
Ngãi, Thừa Thiên. Có lúc được thăng, có khi bị giáng. Năm
1848 ông xin về hưu trí, về sống tại quê nhà.
Nguyễn Công Trứ mất
năm 1858, thọ 82 tuổi, tại làng Uy Viễn, tỉnh Hà Tĩnh.
Thời gian Nguyễn Công
Trứ làm tổng đốc Hải Dương (1833) thì Nguyễn Quý Tân mới
19 tuổi, nếu có con thì con cũng chỉ được vài tuổi. Năm
1842, Nguyễn Quý Tân đỗ tiến sĩ, thành ông nghè thì Nguyễn
Công Trứ đã bị cách chức tổng đốc Hải An từ 6 năm trước
rồi.
Chuyện tổng đốc Nguyễn
Công Trứ bổ nghè Tân đi giáo thụ phủ Bình Giang, cũng như
chuyện nghè Tân sai con đến dinh tổng đốc Nguyễn Công Trứ
để vay tiền chỉ là tưởng tượng, hư cấu.
Xét cho cùng, nghè Tân
không đủ tư cách để xướng hoạ với một ông quan hơn
mình 36 tuổi, một người từng trải, biết hưởng lạc,
hưởng nhàn như Nguyễn Công Trứ.
Máu dê
Huỳnh Tịnh Của gọi
mấy ông dâm dục quá độ là người có máu dê.
Ngôn ngữ bình dân gọi hành động tán gái là dê gái.
- Tôi ngồi tôi nghĩ
chỉn ghê thiệt cha con thằng Bùi Kiệm là hậu tổ máu
dê trật đời (Nguyễn Văn Tròn,
Bùi Kiệm dặm, 1913).
Hễ trai ghẹo
gái
Thì gọi máu dê
Con gái ghẹo trai
Dê chăng, xin xử
!
Bùi Kiệm ghẹo Nga
Gọi là dê bấy.
Gái vậy quấy phải
?
Gái vậy dê chăng
?
Như gái đó thời,
Dê chăng xin xử
?
(Đ.T.B. và Đ.T.S., 1915)
Nguyễn Văn Tài (1916) cũng
lên tiếng yêu cầu :
Cô bác liệu
định,
Đoán tội công minh,
(...)
Luận phân cho cạn,
Huỷ án máu dê (cho
Bùi Kiệm).
Dê hạng nặng là
dê
xồm. Nghe mà phát sợ ! Oan cho mấy con dê xồm hay
dê
xờm lông dài (Génibrel).
Dê xồm, dê cỏn,
dê hoang,
Be be leo nhảy, khoe khoang...
to dài!
Băm lăm
Đặc biệt, trong Nam
còn gọi mấy ông thấy gái như mèo thấy mỡ là mấy
thằng cha băm lăm (35) (Tự điển Việt Nam,
Khai Trí, 1971).
Giới bình dân méc rằng
tên băm lăm
xuất phát từ trò cờ bạc 36 con vật
(Jeu des trente-six bêtes) nổi tiếng (tai hại) của ngày
xưa, còn được gọi là trò
chơi đề.
- Có vị cố lão kể
chuyện : Ngày nọ Trần Bá Thọ, con Bá Lộc, cháu Bá Phước
làm lễ tân quan, có người đến tặng một bức hoành đề
hai chữ "Phước tôn". Phước tôn có hai nghĩa : một là nghĩa
cháu của Phước ; hai là nghĩa con chó. (Xưa kia nhân dân thường
chơi đề ba mươi sáu con (đề là một lối cờ bạc). Con
thứ 36 là Phước tôn, nghĩa là con chó (9).
Tóm tắt trò
chơi
đề hay 36 con vật như sau :
Tuy tên gọi là
36
con vật nhưng thật ra không có tới 36 con. Mấy con còn
thiếu được thay bằng người hay đồ vật như bà vãi,
hòn đá, cái thuyền v.v. Tên các con vật được ghi
sẵn trên tờ giấy (vé) chơi đề. Mỗi con vật còn được
đánh số để giới bình dân mù chữ dễ nhận ra, còn có
thêm tên bằng chữ Hán để chiều lòng... người có học.
Con chó được gọi là con... Phước tôn. Con khỉ là Tam hộc
v.v.
Mỗi ngày nhà cái chọn
một tên, viết ra giấy, bỏ vào phong bì. Phong bì được để
trong một cái giỏ, kéo lên treo giữa trần nhà. Người chơi
lấy vé, chọn một tên, ghi số tiền đặt. Mỗi vé chỉ được
chơi một tên. Ai muốn chơi nhiều tên khác nhau thì phải lấy
nhiều vé. Buổi chiều nhà cái hạ giỏ xuống, mở phong bì,
xướng tên con vật. Ai trúng thì được ăn gấp 30 lần số
tiền đặt.
Trong số 36 con vật
chơi trong Nam có lúc con dê được đánh số 20, con chó số
17 (10). Tờ vé chơi ngoài
Bắc không đánh số, không có con dê (3'').
Tên và thứ tự các
con vật trong hai danh sách của hai miền cũng khác nhau.
Hai tài liệu của ngày
xưa chứng tỏ rằng tuỳ sòng bài, 36 con vật được
chọn và đánh số không bắt buộc phải giống nhau. Trong Nam
đã có lúc con dê được sòng bạc đánh số 35. Tiếng lóng
của dân cờ bạc gọi con dê là con băm lăm. Ngoài
Bắc không ai biết con băm lăm là con gì.
Chẳng bao lâu, dê sổng
khỏi sòng bài, chạy vào xã hội. Mấy ông có máu dê
được gắn nhãn hiệu có máu băm lăm. Lại thêm một
đặc sản của miền Nam.
36
con vật / Durrwell
|
36
con vật / Courtois
|
Dê nằm trong sách
vở
Nhớ lại năm xưa cắp
sách đến trường. Học nhiều chuyện xa lạ.
Phải duyên hương
lửa cùng nhau
Xe dê lọ rắc
lá dâu mới vào (Cung oán)
Tấn thư chép: vua
Võ Đế có lắm cung nhân, mỗi khi muốn đến với cung nhân
nào, vua ngồi trên xe nhỏ khảm châu ngọc có con dê kéo, để
tuỳ ý dê muốn vào cung điện nào ; cho nên những cung nhân
thường lấy lá tre rảy nước muối, rắc ở cửa viện, con
dê ưa ăn vị ấy nó vào.
Đây dùng lá dâu, có
lẽ vì vận trên phải ép mà để chữ dâu, chính lá
tre
mới đúng (11).
Trải qua dấu
thỏ đường dê
Chim kêu vượn hú tư
bề nước non (Lục Vân Tiên)
Dấu thỏ đường dê
là đường chật hẹp, gập ghềnh và hoang vắng. Vương Duy
có câu Lộ kịch dương trường ác (Đường khó khăn
như ruột dê) (12).
Hán Việt từ điển
Đào
Duy Anh giải thích hơi khác :
- Đường
ruột dê
(dương trường) là đường quanh co. Cửu bản dương
trường là Leo chín lớp đèo quanh co như ruột dê.
Nghĩa bóng chỉ đường đời nguy hiểm.
Đường đi quanh
quẩn
ruột dê
Chim kêu vượn hót dựa
kề bên non (Dân ca)
Ruột dê gập ghềnh,
quanh co.
Chẳng cần phải mổ
bụng dê, bụng ngựa ra xem, người xưa cũng biết là ruột
dê,
ruột ngựa thậm chí cả ruột người không
có ruột nào
thẳng đuột, ngay cán cuốc cả.
Thành ngữ
Thẳng ruột
ngựa của ta chắc chắn không có nghĩa là thẳng đuột
như ruột ngựa (13).
Biết rồi, khổ lắm,
nói mãi! Dê tiếp đi !
Tự vị Huỳnh Tịnh
Của có thành ngữ Bán chó treo dê, ám chỉ người
gian tham, cuộc gian tham. Ba thế kỉ trước, thơ nôm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã có :
Lận thế treo
dê mang bán chó
Lập danh cỡi hạc lại
đeo tiền
Đinh Gia Khánh chú giải
: Treo dê mang bán chó là viết thoát ý câu tục
ngữ
Treo đầu dê, bán thịt chó, ý nói : phô phang một
đằng, làm một nẻo, khoe tốt nhưng lại làm xấu (14).
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)
đã đưa " tục ngữ " vào thơ hay thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã trở thành tục ngữ của đời sau ?
Các cụ thấm nhuần
chữ nghĩa thánh hiền cụ nào cũng thuộc lòng truyện
Tô
Vũ chăn dê (Tô Vũ mục đê). Đến khi kể lại cho
con cháu nghe thì hỡi ôi mặt mày đứa nào đứa nấy ngơ
ngác như chúa Tàu nghe kèn, như vịt nghe sấm. Tô Vũ
là... phim nào vậy, ngoại?
Tô Vũ là một tôi trung
của nhà Hán, bị Hung Nô bắt, đày ra đất Bắc chăn dê.
Hẹn rằng bao giờ dê đực đẻ thì cho về.
19 năm sau Tô Vũ mới
được tha, trở về với triều đình nhà Hán.
Vậy nên sinh
tử dĩ chi,
Chăn dê trải mấy nan
nguy chẳng chồn.
Kể đà mười chín
năm tròn
Mao cờ mòn hết lòng
son vẫn còn (Chính khí ca)
Chuyện dê đực
(chữ
Hán là đê) đẻ con cũng tương tự như chuyện
sừng
ngựa hẹn quy kỳ. Thái tử Đan nước Yên bị bắt làm
con tin ở nước Tần. Người Tần bảo khi nào
ngựa mọc
sừng mới được cho về.
Văn học hiện đại
của ta có Bùi Giáng lận đận chăn dê suốt 15 năm trời
ở núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú.
Những bận nào
Tràlinh qua Đádừng Hòndựng
Dùichiêng về Phườngrạnh
ngược Kherinh
Bao lần anh cùng chúng
em lận đận
Bôn ba băng rú rậm
luống rùng mình
Những bận nào Quếsơn
Rùrì con suối ngược
Nước trôi nguồn nước
lũ xuống phăng phăng
Những bận nào mịt
mùng mưa gió ướt
Đẫm thân mình co rúm
lạnh như băng...
(Bùi Giáng, Nỗi lòng
Tô Vũ)
Mười lăm năm trời! Tuy
chưa lâu bằng đoạn đời khổ cực của Tô Vũ, nhưng cũng
đã đằng đẵng bằng thời gian trôi nổi của cô Kiều :
Mối tơ vương
xảy cuộc tang thương
Người má phấn bên
trời lưu lạc
Gẫm duyên cô mười
lăm năm chếch mác
Phận hồng nhan nhiều
nỗi gian truân
Trêu ngươi thay mấy
tạo nhân.
(Chu Mạnh Trinh, Thuý
Kiều lưu lạc)
Dê là một trong ba con vật
(tam sinh gồm trâu, dê, lợn) được dùng trong việc tế
lễ ngày xưa. Ngày nay thì chín, tái, xào, lẩu... con dê hay
con nào khác đều bình đẳng trước... dzô !dzô !
Hà Nội có con dê ngộ
nghĩnh...
Năm 2013, phố Tràng Tiền
(Hà Nội) có bảng Bánh Trung Thu Bodega. Cái tên " vang
bóng một thời ". Anh bạn cười bảo Bodega là Bò Dê Gà. Nghe
vui vui. Nửa đùa nửa thật.
Lật Từ điển Hà
Nội của Bùi Thiết ra thì thấy :
Bô Dê Ga (cửa
hàng ăn) : Tại phố Tràng Tiền. Vốn là một cửa hàng ăn
với các món ăn bằng thịt bò, dê, gà ngon có tiếng từ trước.
Nay có tên là cửa hàng Bô Dê Ga (15).
Hoá ra anh bạn không
nói đùa. Nói theo sách vở đàng hoàng. Theo Bùi Thiết thì
Bò, dê, gà ngon có tiếng của ngày xưa bị " nói trại " thành
Bô Dê Ga!
Khen cho mấy chú thực
dân xa nhà, hòa nhập sao mà nhanh thế ! Cứ đà này thì tòa
lâu đài ẩm thực của Pháp có ngày sẽ lung lay, sụp đổ
vì 3 con bò, dê, gà của Việt Nam.
Nhìn quanh nước Pháp
chưa hề thấy tiệm ăn lớn hay nhỏ, bình dân hay sang trọng
nào lại đem khoe trên bảng hiệu là tiệm có bò, dê, gà hay
cừu, cá, cua! Quý khách, " thượng đế " muốn biết món ăn
có những gì, giá bao nhiêu, cứ xem thực đơn thì sẽ biết.
Cũng như tại Việt Nam, chẳng lẽ lại khoe trên bảng hiệu
là tiệm có rau muống, rau cải, rau cần ?
Thực ra thì Bô Dê
Ga của Bùi Thiết chỉ là một hiểu lầm.
Bodega (bô-đê-ga)
là tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là hầm rượu, là nơi tụ họp
ăn uống, ca hát, nhảy đầm.
Thời Pháp, chủ nhà
hàng Bodega muốn nhắm vào cộng đồng người Âu thích
ăn uống, ca hát, vui chơi nên đã chọn cái tên Bodega
"đậm đà bản sắc quê hương". Không dính dáng gì với Bò
Dê Gà của ta.
Bờ biển California nước
Mĩ có mũi Bodega, vịnh Bodega nằm tại phía bắc
San Francisco, nơi được Alfred Hitchcock chọn để quay phim Chim
(The birds,1963).
Bodega được Bùi
Thiết " hiểu " thành Bò Dê Gà chứ không phải Bò Dê Gà của
ta bị Tây "phát âm" ngọng nghịu thành Bô Dê Ga.
Bodega vui tươi,
lãng mạn. Tên rất thích hợp với Karaoke. Với điều kiện
là Bodega... không có mát xa (massage), đấm bóp.
Nguyễn
Dư
(Lyon,
Tết Ất Mùi, 2015)
(1)(1')
- La Cochinchine française en 1878, Challamel, 1878, tr. 110, 183-184.
(2)
- Bulletin des Amis du Vieux Hué, số 1-2, 1931, tr. 143.
(3)(3')(3'')
- Docteur Edmond Courtois, Le Tonkin français
contemporain,
Lavauzelle, 1891, tr. 255,
299, 342.
(4)
- Đại Nam thực lục, tập 8, Giáo Dục, 2007, tr. 581.
(5)
- Pierre Huard, Maurice Durand,
Connaissance du Vietnam, EFEO, 1954,
tr. 201.
(6)
- Cao Xuân Dục,
Đại Nam dư địa chí ước biên, Văn
Học, 2003, tr. 623.
(7)
- Phạm Khắc Hoè,
Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, Thuận
Hoá, 1995, tr.128-130.
(8)
- Lãng Nhân,
Giai thoại làng Nho, Nam Chi Tùng Thư, 1966,
tr. 276-279.
(9)
- Bảo Định Giang, Ca Văn Thỉnh, Thơ văn yêu nước Nam bộ
nửa sau thế kỷ XIX,
Văn Học, 1977, tr. 11.
(10)
- Dürrwell George, Ma chère Cochinchine,
Mignot Editeur, 1911, tr. 232.
(11)
- Ôn Như Hầu,
Cung oán ngâm khúc, Tôn Thất Lương chú
giải, Tân Việt, 1950, tr.52.
(12)
- Nguyễn Đình Chiểu,
Lục Vân Tiên, Nguyễn Quảng Tuân
phiên âm và chú thích,
Văn Học, 2008, tr. 315.
(13)
- Nguyễn Dư, Ngựa và... Thẳng ruột ngựa, Chim Việt cành
Nam, số 54 (1/2014).
(14)
- Đinh Gia Khánh,
Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Văn Học,
1983, tr. 157.
(15)
- Bùi Thiết,
Từ điển
Hà Nội, Văn Hoá-Thông Tin, 1993. |