Mời
các bạn cùng lật sách xem mấy cái đinh, cái đanh được
vua biết mặt, chúa biết tên.
Đinh,
đanh
là cái gì mà được vinh hạnh dữ vậy? .
Đinh,
đanh
giống nhau, là đồ làm bằng sắt, đồng hay tre,mình tròn,
đầu nhọn, dùng để đóng vào vật gì (Từ điển
Khai Trí Tiến Đức, 1931).
Từ
điển Alexandre de Rhodes (1651) chỉ có cái đanh, không có
cái đinh.
Tự
vị Huỳnh Tịnh Của (1895) ngược lại chỉ có cái đinh,
không có cái đanh.
Từ
điển Génibrel (1898) có cả đanh lẫn đinh (tiếng Pháp
là clou, pointe,
cheville) Génibrel ghi chú là
người miền Bắc gọi cái đinh là cái đanh.
Người
Đàng ngoài kị huý, sợ đụng đến tên vua Đinh Tiên
Hoàng, nên gọi đinh là đanh chăng?
Chữ
Hán, chữ nôm viết chữ Đinh
với bộ Kim. Điều này có nghĩa là cái đinh ngày xưa
được làm bằng kim loại. Đinh tre, đinh gỗ là đinh cải
tiến của đời sau.
***
Cái
đinh của vua chúa
Cái
đinh bằng kim loại được ta dùng từ bao giờ? Không có câu
trả lời chính xác.
Cuối
thế kỉ 18, John Barrow đi theo một phái đoàn người Anh đến
xứ Nam Hà. Ông viết hồi kí kể lại nhiều điều mắt thấy,
tai nghe, trong đó có dấu vết cái đinh.
-
(Nguyễn Phúc Ánh) là người quản đốc các cảng biển và
các kho quân dụng, thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ
sư trưởng trong mọi công trình; không có việc gì dự định
thực hiện mà không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của
ông. Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được
đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có
một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không
có lệnh của ông. Không những ông đi vào từng chi tiết nhỏ
nhặt nhất khi thảo ra những chỉ dẫn, mà chính bản thân
ông thực tế còn trông nom khi chúng được thực hiện (1).
Nhưng,
sách của Barrow còn được Malte Brun dịch ra tiếng Pháp.
Câu
"Không có
cái đinh nào được đóng mà không có sự
tham vấn ban đầu của ông" của Nguyễn Thừa Hỷ được Brun
dịch là "Il ne se fabrique pas une pièce sans qu'on l'ait consulté"
(Không có bộ phận nào được làm mà không có sự tham vấn
của ông) (2).
Bản
dịch của Brun không có cái đinh.
Ai
dịch đúng, ai dịch sai? Điều
này chỉ có nguyên bản của Barrow mới trả lời được.
Nhiều
nhà nghiên cứu Pháp khâm phục kĩ thuật làm nhà, ghép ván,
đóng thuyền truyền thống của ta. Ngày xưa, ta không dùng
đinh sắt, chỉ dùng các con chốt, con xỏ bằng
gỗ. Chốt, xỏ gỗ chắc, không bị gỉ, nhiều khi bền hơn
đinh sắt (3).
Tuy
nhiên, Nguyễn Phúc Ánh đã từng mua một chiếc tàu Bồ Đào
Nha, với mục đích chỉ để tháo rời ra thành từng bộ phận,
từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới
có hình dáng và kích thước tương tự như cái cũ mà ông
đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh
gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như
vậy con tàu hoàn toàn được đổi mới (J. Barrow, sđd)
Vì
vậy, cũng có thể suy diễn rằng vua Gia Long đã bắt chước
người Âu dùng đinh sắt để đóng thuyền chiến.
-
Năm 1823, vua Minh Mạng sai Chưởng cơ là bọn Nguyễn Văn Chấn
(Philippe Vannier) và Nguyễn Văn Thắng (Jean-Baptiste Chaigneau)
hiệp cùng với Vệ uý Nguyễn Tài Năng coi đóng thuyền Thuỵ
Long theo kiểu thuyền lớn Tây phương. Chấn, Thắng lấy
cớ không hiểu việc đóng thuyền từ chối (...). Sai Tài Năng
đốc suất binh thợ mà làm. Thuyền đóng xong, thưởng cho
2000 quan tiền.
Một
người Anh khác là John White cho biết:
-
(Năm 1824) Rất ít hàng hoá tự họ làm, tôi có thể kể các
thứ sau đây: chiếu tốt hay xấu, đan lá buôn làm buồm cho
tàu bè và ghe thuyền, cần xé lớn, hộp sơn vàng và đánh
véc
ni, dù, hầu bao đẹp bằng lụa mà mọi người đàn ông
lẫn đàn bà đều dùng, đinh sắt, và một loại
kéo
thô. Tất cả các đồ vật khác được
nhập khẩu từ các nước láng giềng. Đổi lại, họ
cung cấp lúa gạo mà họ có đầy dẫy, đậu khấu, hồ tiêu,
đường, ngà voi, trầu, v.v. (4).
Năm
1824, thợ thủ công của ta đã biết dùng
véc ni đánh
bóng mấy cái hộp rồi à? Véc ni là cái gì vậy? Có
phải là quang dầu của ta không?
Bên
cạnh hôp sơn vàng, dù, hầu bao bằng lụa, lại bày bán cả
đinh
sắt và kéo? Có sự nhầm lẫn chiếc kim may vá quần
áo với cái đinh sắt chăng?
-
Năm Minh Mạng thứ 6 [1825], mùa hạ, tháng 5. Định lệ hao
đi và thu thành cho Vũ Khố rèn luyện đồ sắt,
đinh sắt
(Phàm lấy sắt thoi ở Bắc Thành rèn đồ sắt thì cứ 100
cân thành khí 65 cân; rèn đinh sắt thì 100 cân thành
khí 70 cân) (5).
Thời
Minh Mạng có thợ chuyên môn rèn luyện đồ sắt, đinh sắt
cho nhà binh. Sử không cho biết đinh sắt to nhỏ ra sao, dùng
làm gì. Chỉ chắc chắn một điều là vua Gia Long, Minh Mạng
sai đóng rất nhiều thuyền chiến. Thuyền nhỏ theo kiểu của
ta và thuyền lớn theo kiểu châu Âu. Kĩ thuật đóng thuyền
của ta không dùng đinh sắt, nhưng thuyền kiểu châu Âu (kiểu
Pháp) thì có thể dùng nhiều thứ đinh sắt (clou,
vis,
boulon,
rivet).
Có
thể phỏng đoán là thời Minh Mạng có rèn đúc đinh sắt
để đóng thuyền chiến lớn. Đinh
sắt được nhà nước quản lí, chưa được dùng phổ
biến trong dân gian.
-
Dưới thời Tự Đức, tháng 6/1856, thuyền buôn của người
nước Thanh tìm mua những hàng hoá của Tây dương (đinh
đồng, đồng lá, dầu hắc ín, buồm gai) đã chở đến
dâng nộp, cho miễn thuế nhập cảng.
-
Tháng 6/1857, sắc cho tỉnh Nghệ An lấy ra 30000 cân sắt đã
nấu lọc kỹ, phát giao cho tỉnh Biên Hoà để sửa đóng thuyền.
Đinh
sắt của ta chủ yếu được dùng để đóng thuyền.
Thương nhân Pháp, Anh bắt đầu mang đinh sắt, đinh đồng
sang nước ta.
-
Ngày 15 tháng 11 năm 1867, Nguyễn Trường Tộ gửi bản điều
trần Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm
gấp) lên vua Tự Đức, trong đó có đoạn:
-Theo
tôi sắt là một vật cần dụng nhất cho quốc gia và nhân
dân. Nước ta tuy có nhiều mỏ sắt nhưng chưa biết cách đúc
sắt như họ (người Pháp) và cũng chưa có máy móc để chế
tạo ra các dạng hợp với nhu cầu sử dụng (...).
Như
việc làm đinh chẳng hạn, nếu dùng sắt của họ, một
sợi dài hoặc vuông hoặc tròn một ngày làm được một ngàn
cái đinh thì sắt ta làm không tới một trăm cái mà đinh cũng
chẳng tốt (Có máy dập đinh giá vào khoảng bốn ngàn năm
trăm quan, một tiếng đồng hồ dập ra sáu ngàn cây đinh trông
thật đẹp). Như vậy thì dùng sắt của họ đỡ tốn công
gấp bội...(6).
-
Tháng 3/1868, Giám mục Ngô Gia Hậu xin kê khai các thứ đã
mua và giao nạp:
-Sách
nói về quặng sắt, các tầng địa chất, mỏ than, quặng
đồng.
-Sách
nói về bách nghệ cơ xảo
(...)
-Thước
đo nhiệt độ)
-Bàn
xoay đinh ốc: Ba cái, giá 31 quan.
-Các
bàn dập
đinh ốc (có cái lớn cái nhỏ và đồ cưa
sắt, giá ba trăm chín mươi bảy quan) (7).
Nguyễn
Trường Tộ muốn canh tân đất nước, muốn giới trẻ học
tập các môn khoa học kĩ thuật. Tiếc rằng những lời điều
trần của ông chỉ là chuyện... nước chảy qua cầu, bèo
giạt mây trôi.
Năm
1884 nước ta bị Pháp đô hộ. Thực dân Pháp thi hành chính
sách khai thác thuộc địa, khuyến khích dân bản xứ tiêu
thụ hàng của mẫu quốc... Đủ thứ,
từ thực phẩm đến đồ dùng.
-
Như là dân miền hạ du xứ Bắc Kỳ, ở suốt các dọc sông,
mỗi năm được hai vụ thóc, ăn không hết, thì đem bán cái
phần thóc dư đi ngoại quốc. Ngoại quốc giả tiền thóc
gạo mua ở bản xứ bằng các thứ: vải, dầu hoả, các món
khí cụ bằng thép và bằng sắt, đanh ốc, đanh thường,
các thứ máy hơi; ô-tô, xe đạp; máy khâu, đồng hồ; sữa
hộp; bột mì và bột lúa mạch (...) (8).
Cái
đinh, cái đanh của dân gian
 Tròng
trành như nón không quai
 Như
thuyền không lái như ai không chồng
 Gái
có chồng như gông đeo cổ
 Gái
không chồng như phản gỗ long đanh
 Phản
long đanh anh còn chữa được
 Gái
không chồng chạy ngược chạy xuôi
 Không
chồng khốn lắm chị em ơi.
Bài
ca có vấn đề.
Sách
Quốc
phong đệ nhất thi (soạn vào khoảng đầu thế kỉ 20)
chỉ chép hai câu đầu. Từ điển
Khai Trí Tiến Đức chỉ chép hai câu 3 , 4 và ghi là
ca dao.
Có
thể nói rằng hai câu lục bát đã được ghép vào một bài
ca khác.
Gái
có chồng như gông đeo cổ, Gái không chồng như phản
gỗ long đanh. Đây là tình
cảnh, số phận của cô gái miền Bắc, thời Tây!
-
Đồng ý cái đanh là của miền Bắc. Nhưng, cái
gì cho phép nói là thời Tây?
-
Cái cùm, cái
gông là đặc sản của thực dân
Pháp. Cùm-gông là biến âm của
Cangue (căng-gơ).Hình
cụ để khoá cổ (gông, chữ nôm) hay khoá chân (cùm,
chữ nôm) tiếng Pháp đều là cangue.
Phản
gỗ (trong Nam gọi là bộ ván) truyền thống của ta chỉ ghép
mộng, đóng chốt gỗ. Thời Tây mới bắt đầu dùng đanh.
Miền
Nam có câu hát:
 Ví
dầu cầu ván đóng đinh
 Cầu
tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Gần
cuối đời Tự Đức, cái đinh
vẫn còn làm Nguyễn Trường Tộ bận tâm. Triều đình còn
phải lo nhiều chuyện. Không có quan nào điên, mất thời giờ,
phung phí đinh, đi đóng cầu ván cho đám dân đen hưởng.
Cái
cầu
ván đóng đinh có thể đã được làm vào thời Tây, khoảng
đầu thế kỉ 20.
Cái
đanh của trẻ con
Trước
năm 1954, trẻ con Hà Nội hầu như đứa nào cũng biết, cũng
thích trò chơi Hú tim hay Ú tim.
Được
ra chơi ngoài vỉa hè sướng ơi là sướng. Chả phải
thắc mắc gì cả.
Bỗng
một hôm... Nhờ trời được ngồi nhà lĩnh lương hưu, đâm
ra dở chứng... thích đọc sách. Đọc
sách rồi thắc mắc giùm trẻ con.
Hú
tim hay Ú tim, hai cái tên nghe là lạ, hơi... chướng
tai. Có vẻ nửa tây nửa ta.
Từ
điển Hoàng Phê cho biết Hú tim hay Ú tim
chỉ
là một. Cả hai đều là trò chơi đi trốn đi tìm của
trẻ con.
Hú
là cất lên tiếng to, vang, kéo dài để làm hiệu gọi nhau.
Còn Ú (trong Ú tim)? Từ điển Hoàng Phê
chỉ
có ú ớ nghĩa là (nói năng) lơ mơ, không có gì rõ ràng.
Ú
không phải là Hú.
Tim...
là cái gì trong trò chơi đi trốn đi tìm, nếu không phải
là Tìm bị rơi mất cái dấu huyền?
Rốt
cuộc, có thể khẳng định rằng trò chơi vốn có tên là
Hú
tìm. Hú tìm được trẻ con phát âm theo... giọng
Tây
giả cầy thành Hú tim,
Tiếng
Pháp có chữ h câm (h muet). Do thói quen, nhiều ông
Tây thuộc địa không phát âm luôn cả chữ h kêu
(h aspiré) của tiếng Việt. Mấy ông gọi Vịnh Hạ Long
là Baie d'Along, Hải Vân là Ải Vân v.v. Đến lượt mấy
ông An Nam bắt chước phát âm... như Tây. Kết quả là có
nhiều tiếng Việt bị tra tấn, rơi mất chữ h.
Hú
tìm phát âm theo giọng Tây thuộc địa thành Ú tim!
Trong
Nam gọi trò chơi Hú tìm là Trốn bắt. Rõ ràng.
Dễ hiểu.
Trò
chơi Hú tìm bắt đầu bằng bài hát Chi chi chành chành
để chỉ định đứa phải bịt mắt, chờ cho những đứa
khác trốn xong, rồi đi tìm.
 Chi
chi chành chành
 Cái
đanh thổi lửa...
Không
biết
cái đanh thổi lửa của trẻ con miền Bắc là
cái gì. Bài hát Chi chi chành chành có nhiều dị bản.
Theo Nguyễn Văn Tố thì cái đanh thổi lửa là cái diêm
(quẹt), hay cái bật lửa, ám chỉ một thảm cảnh sắp xảy
ra. Bài hát Chu chí rành rành (hiệu đính của Nguyễn
Văn Tố) kể chuyện vua Hàm Nghi bị bắt năm 1885 (9).
 Xét
cho cùng thì cái diêm hay cái bật lửa không tai hại bằng
cái súng. Ngay từ thời Gia Long quân đội đã được trang
bị súng hoả mai, một loại súng trường bắn đạn bằng
mồi lửa, còn gọi là thạch cơ điểu thương(10).
Năm 1823, Minh Mạng sai Vũ Khố chế thứ súng tay thuốc nổ
mạnh theo kiểu Tây dương. Từ ngày nước ta bị Pháp xâm
chiếm, lại có thêm nhiều kiểu súng của Pháp.
Cái
đanh thổi lửa có thể là hình ảnh lính cơ, lính trấn
thủ, hay lính tẩy (tirailleur) bắn súng chăng?
-
Đầu thế kỉ 20, cái
đanh, nhất là đanh tây, được
"quần chúng hoá". Tranh Oger (1909) có tấm Đóng
đanh con quay. Đanh được
dùng làm đồ chơi cho trẻ con. Từ nay, dân gian được
dùng đanh, đinh thoải mái. Đinh đóng
cột, đóng tường, đóng bàn ghế...
Đinh
là
vật cứng. Đinh
đá là
cứng rắn, khó bảo. Đinh thép
là rắn rỏi, có lí sự (Từ điển
Khai Trí Tiến Đức). Ngày nay quen nói đanh thép,
đanh
đá hơn.
Sách
Túi
khôn của loài người có câu "lão ông đanh thép bất
như cái oanh đanh đá". Nghĩa là: các ông, các cụ ăn nói
đanh thép đến đâu cũng nên khiêm tốn, nhũn nhặn trước
các cô, các bà đanh đá.
Đinh,
đanh
rải rác trong sách vở rốt cuộc chỉ là... chuyện nhỏ! Đinh
rải rắc trên mặt đường mới đáng lo, sao không bàn?
Chuyện đinh tặc nhạy cảm, không dám xía vô.
Nguyễn Dư
(Lyon, 6/2018)
(1)-
John Barrow, Một chuyến du hành đến Nam Hà, Nguyễn Thừa
Hỷ dịch,Thế Giới, 201 1, tr. 50, 51.
(2)-
Malte Brun, John Barrow:
Voyage à la Cochinchine, BSEI,
1-6/1926, tr. 211.
(3)-
Paul Huard, Maurice Durand, Connaissance du Viet-Nam, EFEO, 1954,
tr. 213, 228.
(4)-
John White, A voyage to Cochinchina, trong
Sài Gòn Gia Định
qua thơ văn xưa, Nguyễn Thị Thanh Xuân chủ biên, Nxb TpHCM,
1987, tr. 425.
(5)-
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam thực lục, tập 2, Giáo Dục, 2004, tr. 424.
(6)-
Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb TpHCM, 1988, tr. 278.
(7)-
Trương Bá Cần, sđd, tr. 467.
(8)-
Henri Cucherousset, Xứ Bắc Kỳ ngày nay, Trần Văn Quang
dịch, IDEO, 1924, tr. 35.
(9)-
Ngô Quý Sơn, Jeux d'enfants du Viet Nam, Sudestasie, 1985, tr.101-102.
(10)-
John Barrow, sđd, tr.56.
|