Bandô
Tamasaburô và Nakamura Shidô
trong
phim Koya Hijiri (2011)
1.
" Đã nghĩ không
cần phải mở ra cái bản đồ xếp gấp có bọc bìa giấy
do bộ Tổng Tham Mưu vẽ ra xem làm chi nữa thế nhưng đường
sá khó đi quá tôi đành nâng nâng ống tay áo cà sa đang hấp
hơi nắng nóng hết chịu nổi để lại kéo nó ra. Tôi đang
đứng trên con đường độc đạo giữa rặng núi ngăn hai
huyện Hida và Shinshu xung quanh chỉ thấy nhấp nhô trập trùng,
tuyệt không có một bóng cây cho người lữ hành mệt mỏi
dừng bước lấy hơi. Có mấy đỉnh nói trông gần quá tưởng
như với tay là chạm được, nhưng xa xa vẫn còn biết bao
nhiêu núi non xếp thành tầng lớp. Trên trời không một gợn
mây, cũng chẳng có bóng chim cò nào cả. Trời đất lồng
lộng chỉ có mình tôi. Giữa trưa nắng nỏ, mặt đất bị
ánh mặt trời thiêu đốt. Cái vành mũ thầy tu là lá chắn
duy nhất che chở tôi khỏi ánh nắng gắt trong lúc dò bản
đồ."
Nhà sư lang thang
vừa kể vừa kê trán lên hai nắm đấm siết chặt trên gối,
đúng cái dáng vẻ nhà tu khổ hạnh. Từ lúc tôi đi Nagoya
qua rặng núi đến căn nhà trọ bên đường ở Tsuruga, cái
chốn quê mùa miền bắc nước Nhật này, nhà tu hành đáng
kính đây đã trở thành bạn đường của tôi. Trong lúc dọn
lại cái giường khiêm tốn trong lữ quán, tôi nhận ra trong
suốt hành trình đằng đẵng ông chưa bao giờ làm điệu làm
bộ như các nhà tu khác hay làm. Tôi cũng chưa thấy ông nằm
nghỉ đúng nghĩa bao giờ, có chăng chỉ co ro bên gối như
đang cầu khấn gì đấy như mô tả ban nãy.
Tôi đi tàu theo
tuyến đường sắt dọc bờ biển đến trạm Kakegawa thì gặp
ông bước lên. Ngay từ đầu tôi đã nhận ra đó là người
xa cách với nhân tình thế thái, ông ngồi một góc trong toa
và lúc nào cũng cúi đầu. Ông không hề gây sự chú ý, thậm
chí trong ánh mắt ông tôi chỉ thấy sự lạnh lẽo tựa tro
tàn, không còn dấu vết nào của dục vọng con người. Lúc
ấy tôi cũng không để tâm đến ông. Đến Nagoya thì những
du khách ồ ạt xuống bến như một bầy chuột chũi hối hả
không rõ lý do, bỏ mặc tôi và nhà tu hành đáng kính trong
toa tàu trơ trọi.
Con tàu này xuất
phát lúc chín giờ rưỡi tối hôm trước ở ga Shimbashi, Tokyo,
cập bến Tsuruga vào buổi tối. Buổi trưa khi tàu đỗ ở
Nagoya, tôi ghé cái quán ở ga tàu mua một suất cơm thì tình
cờ ông cũng mua một suất giống tôi. Chưng hửng bởi đó
chỉ là một suất ăn đường rẻ tiền rắc tí rong biển
chứ không có cá, tôi mới buột miệng: "Sao toàn cà rốt với
dây bầu thế này? Không có cá à?" Trông thấy vẻ mặt của
tôi, ông khẽ cười khúc khích.
Vì trong toa chỉ
còn hai người nên tôi làm quen với ông, nhờ hỏi ông đi
đâu mà tôi được biết ông đang trên đường lên Thiền
viện Eihei thăm một người bạn, nhưng ông không thuộc phái
Thiền tông mà tu ở một ngôi chùa trên núi Koya. Ông định
qua đêm ở Tsuruga trước khi đi tiếp vào sáng mai. Còn tôi
thì về quê nhà ở Wakasa, cũng có ý ngả lưng ở đây nên
quyết định đi cùng ông cho vui. Nhà sư nom đã ngoài bốn
mươi tuổi, có vẻ thân thiện. Ông mặc áo cà sa với ống
tay áo rộng, choàng khăn và đội mũ nồi trắng, tay đeo găng
len. Đôi tất của ông cũng màu trắng còn chân thì đi guốc
mộc. Cho nên mặc dù tác phong cổ lỗ nhưng ông làm tôi liên
tưởng đến một thi sĩ hay nghệ nhân trà đạo, đại khái
người theo đuổi những thú vui trần thế hơn là một nhà
sư.
"Chẳng hay thí chủ
định nghỉ chân ở đâu?" Câu hỏi của ông làm môi tôi bật
ra tiếng thở dài bởi ý nghĩ phải trải qua một đêm cô
đơn quạnh quẽ nơi đất khách. Trong tâm trí tôi hiện ra
mồn một viễn cảnh chị giúp việc phục vụ bữa tối cho
mình đang ngủ gật với cái vá xúc cơm trong tay còn trên quầy,
anh thầy ký đa nghi và mồm mép đang lăm lăm chờ tôi ra khỏi
phòng đi tắm một cái thì sẽ liên thủ ngay với mấy cô
hầu buồng khác, bám sát nhất cử nhất động của tôi với
tinh thần cảnh giác cao độ vì dễ thường ông khách này
sẽ thó tất cả mọi thứ trong tầm ngắm. Nhưng tồi tệ
hơn cả, chỉ cần tôi ăn cơm xong là nhất định người ta
sẽ đem cất luôn ngọn đèn đọc sách sáng sủa để thay
vào một cái đèn ngủ tù mù và chúc quý khách ngủ ngon, để
mặc tôi nơi căn phòng tối không ra tối sáng không ra sáng.
Tôi không có thói quen ngủ sớm nên thật khó lòng mô tả
cảm giác trống trải khi bị bỏ mặc trong căn buồng tranh
tối tranh sáng, nhất là vào cái thời điểm ngày ngắn đêm
dài này. Từ lúc rời Tokyo tôi đã suy nghĩ mông lung mãi xem
phải làm gì cho qua những đêm lê thê buồn tẻ sắp tới
nên câu hỏi của nhà sư lại khuấy lên nỗi lo ấy. Tôi bèn
hỏi ông có vui lòng ngủ cùng một phòng với tôi chăng.
Ông vui vẻ gật
đầu, bảo: "Lần nào đến vùng này bần tăng cũng phải cho
cây gậy hành hương của mình tá túc ở một cái quán tên
là Katoriya." Nhà sư dung cái cụm từ ‘cho cây gậy hành hương
tá túc’ nghe thật bảnh, ông nói quán trọ Katoriya ấy trước
kia vốn là một nhà trọ bình thường nhưng sau khi đặc trưng
hấp dẫn của quán trọ, tức là cô con gái xinh tươi độc
nhất của ông chủ qua đời, thì gia đình bèn cất bảng hiệu
đi. Được cái họ không mời chào khách mới nhưng vẫn đón
khách quen nếu có nhu cầu, hai vợ chồng chủ nhà đã già
và chỉ có tấm lòng hiếu khách giản đơn cho người lai vãng
nên nếu tôi thích thì có thể cùng ông đến đó.
Nhà sư cẩn thận
đặt hộp cơm xuống, nói thêm: "Nhưng thí chủ phải ăn tạm
cà rốt với dây bầu lấy hơi đấy" rồi bật cười. Phía
sau dáng vẻ và diện mạo khiêm tốn, ông có vẻ cũng là người
hài hước.
2.
Khi tàu lăn bánh
qua địa phận tỉnh Gifu trời hãy còn trong xanh nhưng băng
qua dãy núi xong thì thời tiết từ từ thay đổi và chúng
tôi gặp lại màu sắc u ám quen thuộc của vùng biển phía
Bắc. Ở Maibara và Nagahama, ánh nắng mùa đông yếu ớt bị
lớp mây mỏng làm cho nhợt nhạt thêm, trong tôi cái lạnh
tê tái ngấm dần vào xương. Tàu đến Yanagase giữa lúc mưa
phùn và không gian bên ngoài đã chập choạng tối, mưa dần
dần kết lại thành những bông tuyết trắng.
"Tuyết rơi kìa".
Tôi bảo. Người bạn đồng hành của tôi đáp gọn lỏn "Chắc
vậy" và hình như ông ta không hứng thú những chuyện xảy
ra bên ngoài cho lắm, thậm chí không buồn ngó lên trời. Đây
cũng không phải lần đầu nhà sư lang thang trả lời kiểu
này đâu, chẳng hạn lúc đi ngang Shizugatake tôi chỉ trỏ bãi
chiến trường xưa hay bình phẩm về quang cảnh quanh hồ Tỳ
Bà ông ta cũng chỉ gật đầu không nói.
Cái khó chịu nhất,
phiền phức nhất ở Tsuruga này là thói chèo kéo vô tội vạ
của mấy anh cò mồi nhà trọ. Đám cò mồi này tụ tập rất
nhiều ở nhà ga, từng anh một đều có chiêu trò riêng để
dụ khách. Đúng như tôi e ngại, vừa đặt chân xuống sân
ga là họ đã dàn hàng vững chãi từ nhà ga ra ngoài phố mai
phục chúng tôi. Mỗi anh đều một tay cắp ô một tay xách
đèn lồng có in tên nhà trọ bằng chữ khổ lớn, gặp ai
bước xuống là lập tức bao vây không cho thoát, miệng la
oang oang át vía để khách phải về nhà trọ của mình. Có
những anh táo tợn còn giật đồ của người ta, miệng thì
nhanh nhảu kiểu như: "Cám ơn quý khách đã lựa chọn!" và
thế là bất kể nạn nhân của hành động trên có giận dữ
đến đâu thì cũng chỉ còn nước đi theo chứ không sao lấy
lại hành lý được. Nhưng người đồng hành của tôi có
vẻ như hoàn toàn bàng quan trước cái khung cảnh lộn xộn
quanh mình, ông cúi đầu và băng qua đám đông ồn ào một
cách dễ dàng, tôi chỉ cần bám sát đằng sau. Kỳ diệu ở
chỗ không có tay cò mồi nào túm áo hay giật hành lý của
nhà sư cả, tuy nhiên khi tôi và ông thoát ra được một khu
phố vắng vẻ tôi vẫn phải thở phào một cái.
Tuyết rơi liên
tục và bây giờ không còn lẫn hạt mưa nào nữa rồi, chỉ
có hoa tuyết mịn như bông và khô ráo bay vào mặt tôi khi
hai chúng tôi bước đi. Trời tối nhưng hãy còn sớm mà phố
xá vắng tanh, cửa hiệu đều đã đóng. Chúng tôi đi qua ba
hay bốn ngã ba, tám khu nhà và những con phố đã sớm bị
che phủ bởi một lớp tuyết dày. Cuối cùng hai người cũng
dừng bước trước lữ quán Katoriya.
Ngôi nhà cũ trông
tươm tất và chắc chắn mặc dù phòng tiếp khách ở ngoài
lẫn bên trong đều đơn sơ, tuyệt không có món đồ trang
trí nào. Cột, rầm cái nào cái nấy đều kiên cố, chiếu
dệt chắc tay. Lò sưởi lớn, phần trần nhà phía trên treo
một cái móc sắt đúc hình cá chép, ngày xưa dùng để treo
nồi nấu nước.Ánh đèn tù mù làm vảy cá như thể được
đúc bằng vàng. Trong bếp có hai chiếc nồi lớn, có thể
nấu một lúc bốn giạ thóc..
Ông chủ nhà trọ
nom như một hòa thượng với mái tóc húi cua sát sạt và lúc
nào cũng giấu bàn tay trong cái áo khoác gai, tôi để ý thấy
ngay cả khi ngồi cạnh lò sưởi ông ta cũng không cho tay ra
ngoài. Đó là một người có tuổi uể oải và cáu kỉnh nhưng
bà vợ lại xởi lởi, thích giúp đỡ người khác. Nghe hòa
thượng kể chuyện cà rốt với dây bầu, bà vui vẻ cười
khúc khích và sửa soạn cho chúng tôi một bữa ăn có canh
và cá khô. Từ cách họ trao đổi có thể đoán biết rằng
đôi vợ chồng già và hòa thượng là chỗ quen biết lâu năm,
thành thử tôi, người bạn đường của hòa thượng, cũng
cảm thấy hòa nhập tự nhiên với mọi người.
Đôi vợ chồng
dẫn chúng tôi vào phòng ngủ ở tầng hai. Trần nhà được
đỡ bởi hai thanh rầm chống chéo từ sàn lên nóc, thấp đến
nỗi không cẩn thận là cộc đầu như chơi. Một trận tuyết
lở từ ngọn núi sau lưng xuống khéo cũng chẳng quật ngã
được ngôi nhà vững chãi này.
Tôi khoai khoái chui
ngay vào trong chăn vì chủ nhà bố trí lò sưởi ở một đầu
tấm nệm để sưởi chân cho khách, tấm mền bông được
trải đều cả bốn góc để ai cũng được hưởng nhiệt
lượng tỏa ra nhưng vị hòa thượng đã chối bỏ mọi sự
ấm áp, không thèm đắp mền mà chỉ nằm xuống bên cạnh
tôi.
Hòa thượng chẳng
buồn nới thắt lưng nữa là cởi áo, cứ trang phục như thế
mà vo tròn lại luồn vào dưới chăn, phủ tay áo lên vai và
cúi mặt xuống nệm - chẳng giống cách người bình thường
ngủ một tí nào. Ông ta sớm nằm im, coi mòi đã ngủ rồi
đây. Như đã trình bày với hòa thượng ở trên tàu về thói
quen ngủ muộn, tôi trót lỡ hy vọng ông ta niệm tình mà thức
với tôi một lát cho đỡ buồn, bèn lay ông dậy, đòi nghe
kể về những việc lý thú ông đã trải qua trong cuộc đời
tu hành tứ xứ nay đây mai đó, y như một đứa trẻ đòi
được kể chuyện trước khi đi ngủ.
Hòa thượng gật
đầu, bảo rằng từ khi bước sang tuổi trung niên ông đã
có thói quen cuộn tròn úp mặt xuống như tôi vừa thấy chứ
không nằm ngửa như bình thường. Cũng như tôi, hòa thượng
chưa buồn ngủ và ông đồng ý kể chuyện cho tôi nghe với
lời dặn dò: "Thí chủ đừng cho rằng cứ sư sãi thì sẽ
kể chuyện tu hành, giáo huấn nhàm chán. Xin hãy nghe cho kỹ
những gì tôi sẽ kể cho thí chủ."
Hỏi kỹ tôi mới
biết hóa ra hòa thượng đây không phải ai xa lạ mà chính
là cao tăng Shucho - nhà thuyết pháp rất nổi tiếng và cũng
là vị trụ trì đáng kính ở chùa Lục Minh.
3.
"Chủ nhà nói rằng
sẽ có một thanh niên nữa cũng đến từ Wakasa như thí chủ
ghé quán trọ ngủ một đêm cùng chúng ta. Anh này là một
thương lái đồ sơn mài, tuy ít tuổi nhưng là người nghiêm
túc, lương thiện.
Như đoạn đầu
tôi đã nói, trên chuyến du hành tôi bắt gặp một gã thanh
niên khá lạ đời lúc băng qua rặng núi Hida. Ở tiệm trà
dưới chân núi tôi đã đụng độ gã - một người buôn thuốc
dạo từ Toyama tới, tính tình ngổ ngáo, ăn nói tục tĩu.
Tôi có chủ ý trong ngày hôm ấy phải qua được con đèo nên
đã dậy từ ba giờ sáng để đi được nhiều. Lúc sáng tinh
mơ trời còn lạnh, tôi đã đi được sáu dặm nhưng không
dừng lại cho đến khi bước vào tiệm trà này. Bấy giờ
trời đã trưa và nắng gắt, không khí hầm hập lên.
"Tôi chỉ có suy
nghĩ đơn giản là làm thế nào để đi xa nhất có thể nên
lúc nghỉ chân đã khát khô cả cổ, định dừng lại ghé
qua tiệm trà uống một chén rồi lại lên đường nhưng chủ
tiệm nói vẫn sớm quá họ chưa kịp đun nước. Ngày ấy
thỉnh thoảng lắm mới có lữ khách đi qua con đường này,
chẳng có lý nào các dịch trạm lại phải mở cửa, nước
nôi sẵn sàng từ sớm. Người ta có câu "Hoa rau muống còn
nở, chưa cần phải mở hàng" mà lại. Trước mặt tiệm trà
có một con suối mát lạnh chảy từ trên núi xuống, tôi toan
múc một gáo thì nhận ra đang vào mùa nóng nực và gần đây
hình như có dịch bệnh ghê gớm nào đấy hoành hành. Trước
đó không xa tôi có gặp một làng tên Tsuji và thấy người
ta rải vôi bột khắp nơi.
"Xin lỗi thí chủ,
nước này cùng nguồn với nước giếng ạ?"
"Đâu có, nước
sông đấy."
Tôi cảnh giác hỏi:
"Nghe nói vùng này có dịch. Con sông có chảy qua làng Tsuji
không ạ?"
"Không." Cô phục
vụ dửng dưng đáp. Nghe vậy tôi lấy làm mừng nhưng thí
chủ biết sau đó thế nào không? Cái anh chàng buôn thuốc
tôi vừa nhắc đến hóa ra đã ngồi trong quán được một
lúc trước khi tôi đến. Anh này thuộc hạng bán hàng rong
lưu manh mà thí chủ có thể đoán được qua cách ăn mặc:
bộ kimono kẻ sọc không có lớp lót, dây lưng kiểu Kyushu,
tướng khệnh khạng, lúc nào cũng lăm lăm đồng hồ quả
quýt - loại người này không hiếm.
"Thí chủ biết
rồi đấy, lúc đi đường họ làm ra vẻ trầm ngâm yếm thế
nhưng bước vào nhà trọ nghỉ đêm là sẽ thay ngay quần áo
lòe loẹt, nới lỏng thắt lưng, ngả ngốn khắp nơi, nốc
rượu rẻ tiền và chỉ chăm chăm nhéo mấy cô phục vụ."
"Ê anh sư kia!" Hắn
ta cất tiếng gọi, làm tôi thấy mình như thằng ngốc. "Bộ
nói mà không biết mình nói gì, nghe mà không thấy chướng
hả? Đằng ấy đi tu rồi, đầu đã cạo trọc lốc thế kia,
xem cõi đời là vô thường mà lại lo giữ mạng à? Kể cũng
kỳ, nhưng thú nhận đi, bản chất con người là thế! Ngoài
mặt ra vẻ quay lưng lại với nhân gian nhưng bên trong vẫn
ham sống sợ chết. Thấy chưa cô em, thằng cha hòa thượng
này đâu đã hoàn toàn diệt dục đâu!" Gã buôn thuốc vừa
nói vừa ngoái đầu nhìn cô phục vụ, hai người bọn họ
cười phá lên.
Tôi còn ít tuổi
nên đã sớm đỏ mặt tía tai nhưng vẫn không dám uống gáo
nước mình vừa múc. Anh ta gõ xái thuốc rơi ra khỏi tẩu,
bảo: "Sao thế hòa thượng? Lần lữa cái gì, uống đại đi.
Uống cho cạn, ngộ nhỡ lăn đùng ra thì thằng này đã có
thuốc. Cô em thấy không, số trời run rủi cho anh đến đây
cũng vì mục đích đó mà. Ê, nhưng đừng tưởng người ta
làm phước cho không đấy nhé. Tôi có thuốc Mankitan nhưng
hòa thượng phải trả 3 sen một gói, tiền trao cháo múc. Bình
sinh thằng này chưa làm gì bậy bạ khuất tất mà phải tạ
tội bằng cách bố thí cho nhà sư cả. Thế còn cô em, có
muốn làm chuyện bậy bạ với anh không nào?" Anh ta chọc vào
mạng sườn cô phục vụ gợi ý.
Phẫn nộ trước
thái độ bỉ ổi của gã, tôi nhanh chân quay trở lại con
đường. Một hòa thượng đã có tuổi như tôi lẽ ra không
nên truyền bá những điều nhảm nhí như ghẹo gái cho thí
chủ, nhưng lần này thì châm chước được vì cái đó cũng
nằm trong chủ đề câu chuyện của tôi."
4.
"Bực mình vì thái
độ lấc cấc của tay bán thuốc, tôi đi hùng hục qua những
cánh đồng giữa rặng núi. Khi đường bắt đầu dốc tôi
mới chỉ đi được một đoạn ngắn, ngước lên thấy hàng
loạt khúc quanh hẹp. Con đường mòn càng đi càng dựng đứng
lên, cong cong như cánh cung căng ra trước mặt tôi tựa một
cây cầu lộng lẫy bắc trên thiên đình.
Tôi đang leo dốc
và hướng mắt lên nhắm đến đích, thì tay bán rong ban nãy
xuất hiện, hối hả vượt qua. Chúng tôi không chào nhau lấy
một tiếng, mà nếu hắn có chào tôi cũng không thèm đáp
lại. Hắn vẫn giữ cái mặt câng câng và ném vào tôi ánh
mắt thách thức trong lúc hùng hục tiến lên phía trước.
Hình như trong một tích tắc cái dù của hắn xòe ra trên đỉnh
đồi rồi lặn xuống phía sau.
Tôi cũng đi theo
quỹ đạo đó, lên đỉnh đồi rồi xuống dốc bên kia. Tay
bán thuốc nhanh hơn một đoạn nhưng hắn đã dừng lại dưới
chân dốc nhìn ngang ngó dọc, tôi cứ tưởng hắn như định
bày trò chơi xấu nhưng khi đến gần mới biết tại sao. Có
hai ngả rẽ trước mặt. Một ngả thẳng lên cái dốc cao,
bị che lấp bởi cỏ mọc um tùm. Chỗ ngã ba có một cây bách
khổng lồ to đến ba bốn người ôm. Lối hẹp này biến mất
sau cây bách rồi ngoằn ngoèo quanh ba, bốn tảng đá đồ sộ
phân bố đều đến đỉnh dốc. Sau khi cân nhắc, tôi kết
luận mình không hợp đi lối ấy. Cho đến thời điểm này
tôi vẫn duy trì quan điểm đã đi thì đi đường cái, ở
trường hợp này cũng vậy, cứ trông địa hình kia thì chọn
con đường lớn là hơn, thêm vài dặm nữa sẽ gặp con đèo.
Tôi dừng lại ở
ngã ba một lúc, xem xét tình hình coi nên đi đường nào. Cây
bách khổng lồ hoàn toàn choán chỗ con đường rộng hơn,
cành lá tạo thành vòm trên đồng lúa xung quanh giống như
một cầu vồng bắc qua bầu trời. Không chỉ cành lá mà rễ
cây cũng rất ư là hoành tráng, chúng trồi lên khắp nơi trên
mặt đất tạo thành những hình dạng kỳ thú như một đống
cá chình lúc nhúc. Tôi cũng nhận thấy một con suối nhỏ
chảy quanh rễ cây và lan ra xung quanh thành một vũng nước
lớn. Trên thực tế, nước chảy ra từ ngã rộng hơn trong
hai ngã rẽ tạo thành một con suối, đó chính là con đường
tôi đã nhắm để đi tiếp.
Thật là kỳ cục
vì những cánh đồng lúa xung quanh không biến thành một cái
hồ. Tôi quan sát theo chiều dòng chảy thì thấy đâu đó xa
xa phía có một lùm cây tạo thành bức tường ngăn nước.
Tuy nhiên, ở khoảng cách hai trăm thước giữa chỗ tôi đứng
với lùm cây nước chảy tràn. Đá được kê rải rác trong
lòng suối để người ta có thể sải chân bước lên, mặc
dù cách bố trí có vẻ ngẫu nhiên nhưng tôi chắc chắn những
hòn đá này ở đây là do có bàn tay của con người.
Cái ngã ba này không
lắt léo hiểm trở đến nỗi phải cởi áo khoác dài để
bước qua, nhưng nếu đây là đường lộ thì nghe chừng hơi
bị khó đi thì phải, ngựa đi còn khó qua nữa là một người
đi bộ như tôi.
Gã bán rong cũng
lưỡng lự đứng yên một lúc rồi quả quyết đi về phía
con đường hẹp bên phải dẫn lên đồi với những bước
gấp. Tôi để ý quan sát nhưng hắn đã biến mất sau cây
bách vĩ đại và một lúc sau ló ra trên triền đồi nhìn xuống
chỗ tôi.
Hắn cất tiếng
gọi: "Ê sư kia, đường đi Matsumoto đây này." Hắn đi thêm
đoạn nữa rồi dựa vào một tảng đá, lại hô lớn về
phía tôi: "Cẩn thận chứ không khéo bọn ma cây trong rừng
nó hù cho, đang là ban ngày nhưng biết đâu nhà sư lại chủ
quan." Châm chọc chán, hắn biến mất sau bóng những tảng
đá và hoàn toàn mất dạng vào đồng cỏ cao phía sau.
Một lúc trôi qua,
tôi ngẩng đầu nhìn lên dốc thấy cái dù của hắn rồi
nó lại lẫn vào những bụi cây um tùm trên triền núi.
"Ơ kìa!" Một giọng
nói vui vẻ cất lên. Tôi nhìn quanh, thì ra là một bác nông
dân đang nhảy chân sáo qua những hòn đá kê dưới sông. Bác
cuốn một cái chiếu cói quanh thắt lưng, trên vai vác cái
đòn mà không có gánh."
5.
"Khỏi nói cũng
biết từ lúc rời tiệm trà, ngoại trừ tay bán thuốc dạo
ra tôi không gặp ma nào cả. Một người bán hàng rong sành
sỏi như thế chắc chắn nắm rõ đường sá như lòng bàn
tay. Tôi nghĩ đến lời nhận xét trước của gã trước khi
đi mà trong lòng hoang mang, phải giở bản đồ ra dò lại mặc
dù ban sáng đã xem xét chán chê cẩn thận.
"Phiền thí chủ
giúp tôi một việc được không?" Tôi hỏi.
"Tôi giúp gì được
sư thầy?"
Dân miền núi quê
mùa chất phác song lúc nào cũng lịch sự trước một hòa
thượng như tôi.
"Cũng không có gì
to tát, thí chủ cho hỏi đây có phải đường cái không?"
"Sư thầy đi Matsumoto
à? Đang mùa mưa nên ông trời hào phóng nước nôi lắm, sư
thầy xem, đường lộ đã ngập thành sông rồi."
"Ngập sâu đến
thế sao?"
"À không, đây thì
ngập chứ đi ra đến dưới lùm cây xa xa kia là khô ráo. Đường
núi rộng rãi đủ để hai xe thồ tránh nhau. Cái lùm cây ấy
từng là nhà của một lương y, còn chỗ thầy với tôi đứng
ngày xưa có một ngôi làng. Hình như mười ba năm trước có
một trận đại hồng thủy đã biến khu này thành bình địa,
nhiều người cũng bỏ mạng theo. Sư thầy là người nhà Phật,
nhân việc qua đây có thể cầu siêu cho những linh hồn xấu
số đó không?
Tuy tôi không hỏi
han gì đến lịch sử vùng miền nhưng thông tin của bác nông
dân rất hữu ích. Vậy ra tôi đúng, song le điều đó có nghĩa
là tay bán thuốc đã sai.
"Thế đằng kia
thì rẽ về đâu?" Tôi hỏi, nghểnh đầu sang phía con đường
mà tay bán thuốc lựa chọn.
"À, đường ấy
là đường mòn. Cách đây hơn năm chục năm dân tình đi lối
đó, cũng hướng về huyện Shinshu như đường cái mà còn
đỡ được bảy dặm nhưng thời buổi này rẽ qua đó thì
đi dễ khó về. Năm ngoái có một gia đình du mục lỡ dại
chọn lối ấy, đến là khổ. Tuy họ vô danh nghèo hèn nhưng
mạng người quý giá nên chúng tôi cũng hết lòng hết sức
mà tìm kiếm. Ba ông cảnh binh và mười hai dân làng lập thành
một nhóm cứu hộ kéo nhau lên núi, rốt cuộc cũng tìm thấy
cả nhà nhưng thú thực với sư thầy được được hay không
do hên xui cả thôi. Sư thầy có vẻ mạnh khỏe nhưng chớ
chủ quan mà chọn đường tắt làm chi. Cứ đường cái thẳng
tiến, cùng lắm chịu khó màn trời chiếu đất một đêm.
Trời phù hộ cho thầy. Tôi đi nhé!"
Tạm biệt bác nông
dân, tôi đang tính bước lên mấy hòn đá kê bước thì đột
ngột dừng lại, đâm lo cho anh chàng bán thuốc đi lầm đường
kia.
Bác nông dân kể
chuyện nghe có tí thêm mắm dặm muối, nhưng nếu bác ta nói
thật chẳng hóa ra tôi lại để anh chàng bán thuốc bỏ mạng
oan. Thực tình tôi đúng là một hòa thượng, xem mọi thứ
trên đời là hư vô, thế thì đi đường nào cũng đâu quan
trọng. Ban đêm tôi không cần phải tìm lữ quán ấm áp tiện
nghi như lữ khách bình thường cơ mà. Với ý nghĩ này, tôi
quyết định rẽ sang lối tắt để đuổi theo anh chàng bán
thuốc dạo, nếu đuổi kịp tôi sẽ chỉ cho anh ta đường
cái mà nếu không đuổi kịp thì cứ đường mòn mà đi, chẳng
sao cả. Bây giờ không phải mùa săn của bầy chó sói, ma
cây cũng không hoạt động mấy. Tôi tự nhủ: "Cứ đi xem
thế nào." Hạ quyết tâm xong tôi đứng lại một lúc, ngó
dọc ngó ngang chẳng thấy bác nông dân đâu nữa.
"Được lắm." Tôi
tự nhủ, dứt khoát hướng về con đường hẹp lên đồi.
Không phải do tuổi trẻ nông nổi hay muốn làm người hùng
mà tôi đuổi theo tay bán thuốc. Nói như vậy thí chủ có
khi lại lầm tưởng là tôi đã giác ngộ nhưng kỳ thực tôi
chỉ là một tên nhát gan. Việc tôi sợ chết, không dám uống
nước sông chảy từ ngôi làng có dịch đã mười mươi khẳng
định điều đó, vậy thí chủ có thắc mắc duyên cớ nào
khiến tôi đuổi theo anh chàng kia để dẫn anh ta về đường
cái không?
Giả sử tay bán
thuốc dạo chỉ là một lữ khách trao đổi vài ba câu xã
giao, tôi có lẽ đã mặc cái số anh ta cho trời định đoạt.
Ngặt nỗi trong lòng tôi bây giờ lại có hiềm khích với
con người này nên nếu vì thế mà bỏ rơi anh ta thì suốt
đời sẽ phải áy náy."
Hòa thượng Shucho
tiếp lời, người vẫn cuộn lại úp mặt vào gối và chắp
hai tay như đang cầu nguyện vậy. "Thấy chết mà không cứu
thì tụng kinh niệm phật cũng chả có nghĩa lý gì."
6.
"Thí chủ biết
không, tôi đã đi theo con đường hẹp vòng qua cây bách cổ
thụ và trèo lên con dốc phía sau, len lỏi giữa những tảng
đá lớn cho đến khi gặp vách núi. Từ đây phải vượt qua
mấy khu rừng và đồng cỏ cao nữa.
Chẳng mấy chốc
tôi đã trèo xong một ngọn núi và chuẩn bị leo tiếp sang
ngọn thứ nhì. Bốn bề là thảo nguyên mênh mông. Hóa ra đường
này vừa rộng lại vừa không dựng đứng như con đường
cái ban nãy. Nhìn chung lối mòn chạy song song với đường
cái, chẳng qua một đường vòng hướng Đông đường kia vòng
hướng Tây, con đường tắt này thừa rộng cho một lãnh chúa
dắt theo cả đoàn tùy tùng ấy chứ.
Ngặt nỗi ngay cả
ở chỗ rộng rãi mênh mông thế này tôi cũng không thấy bóng
dáng hay dấu vết nào của tay bán thuốc, trên đường có
nghe động tĩnh gì thì chẳng qua là bọn côn trùng bay lên
bầu trời hoàng hôn. Tôi thấy cô độc và hơi bồn chồn
trên đồng cỏ khô cằn và trống trải một mình, quang cảnh
này không có gì thân thuộc để an ủi tôi cả. Vùng Hida này
năm thì mười họa mới xuất hiện một lữ quán hay dịch
trạm, ở lữ quán cũng chẳng có gì ăn ngoài cơm độn hạt
kê - những điều đó người ta nói nhiều rồi nên tôi đã
chuẩn bị tinh thần và sức lực đi một mạch. Nhưng đường
mỗi lúc một hẹp lại và dựng đứng đến độ có thể
vừa đi vừa dang tay chạm vào cả hai bên vách núi.
Tôi biết từ đây
là con đèo Amo khét tiếng. Mặc dù đang thở hồng hộc trong
cái nóng khủng khiếp, tôi chỉ dừng bước để buộc lại
đôi dép rơm.Nhiều năm sau tôi mới nghe nói rằng có một
lối thông gió gần đấy đem không khí mát mẻ từ trong hẻm
núi này xuống chùa Liên Đài ở Mino giúp cho khí hậu được
điều hòa. Tuy nhiên bấy giờ tôi hùng hục leo núi, chả còn
đầu óc nào để ngắm cảnh hay tìm hiểu địa hình, đại
để chuyên tâm đến nỗi không biết trời đang âm u hay nắng
ráo. Tôi chỉ tập trung vào việc leo núi thôi.
Câu chuyện tôi
muốn kể cho thí chủ nghe là sự kiện xảy ra sau đó. Tôi
chỉ có một mình, mà thứ tôi sợ đụng phải nhất khi đi
đường là rắn. Thường bọn chúng hay nằm ngay lối đi, đầu
đuôi giấu trong bụi cỏ. Gặp con rắn thứ nhất chân tôi
đã mềm như bún, sụm xuống. Tôi ngồi bệt xuống, cái mũ
rơm trên đầu, cây gậy trong tay, toàn thân tê liệt vì sợ
hãi. Nỗi sợ của tôi mang tính bệnh lý chứ không phải chỉ
đơn thuần do ghê tởm con vật đó. May mà con rắn chỉ trườn
qua, nghểnh cái đầu lên rồi biến mất trong bụi cỏ mặc
tôi ngồi trơ khấc ra đấy. Đúng là hú hồn hú vía.
Tôi chật vật đứng
dậy và tiếp tục hành trình nhưng đi được năm sáu trăm
mét lại gặp con rắn nữa. Nó nằm phơi bụng ra vắt ngang
giữa đường, chắc là đang sưởi nắng. Tôi nhảy ra sau thối
lui và la oai oái, còn nó thì trườn vào bụi cỏ một cách
nham hiểm, khẽ khàng. Con thứ ba thì không nhanh nhẹn như con
thứ nhì, cứ nhìn thân hình tròn lẳn và dáng điệu lề mề
của nó thì chắc phải năm phút mới qua đường xong. Không
còn cách nào khác, tôi đành mắm môi mắm lợi nhảy qua, lông
tóc thiếu điều dựng ngược hết cả lên thành vảy rắn,
đôi mắt dường cũng lạnh ngắt và trong suốt như thể mặt
mình đã biến thành mặt rắn vậy.
Mồ hôi lạnh chảy
đầm đìa, hai chân mềm nhũn như cao su, tôi thấy trong người
như sắp phát bệnh. "Vùng này vốn nhiều rắn, không được
mất tinh thần." Tôi vừa trấn an bản thân vừa sợ hãi chạy
thật nhanh để rồi lại đụng độ cái giống trời đánh
ấy ngay lập tức. Con rắn này bị phanh thây, chỉ còn lại
khúc giữa và đuôi. Phần thân nó ánh lam, chỗ đứt chảy
ra một chất dịch màu vàng. Nó vẫn còn thở và co giật.
Kinh hồn bạt vía,
tôi kéo vạt áo cà sa tính co giò quay lại nhưng chợt nhớ
ra là không thể, vì mấy con rắn mình đụng độ ban nãy vẫn
còn lảng vảng trên đường là cái chắc. Thà chết còn hơn
phải nhảy qua con rắn to tướng ấy lần nữa. Nếu bác nông
dân cảnh báo về bọn súc sinh này trước thì thà bị đày
xuống âm ti chứ tôi không đời nào chọn quay lại con đường
tắt để cứu gã bán rong kia."
Lấy hai tay ôm đầu,
hòa thượng tiếp lời: "Tôi sợ quá, vừa khóc vừa niệm
Phật. Bây giờ chỉ nhớ lại thôi cũng đủ rùng mình."
7.
"Đi tiếp hay quay
về thì đều không thoát khỏi bọn chúng, tôi phải cố bình
tĩnh lại. Con rắn vẫn đang nằm chềnh ềnh trên con đường
phía trước. Tôi đành đi vòng qua bãi có để tránh nó nhưng
vẫn nơm nớp sợ, biết đâu phần đầu của nó đuổi theo
mình. Chỉ một ý nghĩ này đã đủ để hai chân tôi cứng
đờ và vấp té, hình như là bị sái khớp gối.
Thế là tôi chỉ
có thể vật vã mà tiến lên trong tình trạng kiệt sức nhưng
vẫn phải bất chấp tất cả, cố sống cố chết mà đi tiếp
về phía con đèo. Bên đường cỏ mọc dày đặc và bốc mùi
thối, hình như tôi đang bước trên cái gì đó như trứng
vỡ, có lẽ của một loài chim khổng lồ nào đó.
Hai dặm tiếp theo
đường đi xoắn lại ngoằn ngoèo như rắn cuộn. Có lúc tôi
thấy mình bấu sát vào vách núi, lúc thì chật vật trèo qua
mấy tảng đá khổng lổ, lúc thì tóm dây leo, rễ cây. Rốt
cuộc tôi rút bản đồ ra xem.
Con đường trên
này chính là con đường người nông dân bảo, trong lòng tôi
cảm thấy có chút an tâm vì bản đồ của mình đáng tin cậy
nhưng hiềm nỗi nó chỉ được vẽ bằng một nét mỏng dính
màu đỏ giữa những đường cao trình rối như canh hẹ. Nhận
thấy bản đồ vô dụng trước những nguy cơ như rắn, sâu
róm, trứng chim và cỏ mục, tôi bèn gấp lại bỏ vào hộp,
niệm phật để lấy lại can đảm. Chưa kịp thở, một con
rắn nữa ở đâu lại chui ra khỏi lùm cỏ băng qua đường.
Lúc này tôi đã chịu hết nổi, bụng bảo dạ chắc đây
là thần núi hiển linh. Tôi ném cây gậy sang một bên, quỳ
xuống đặt hai tay lên mặt đất nóng bỏng để thể hiện
lòng tôn kính. "Xin lỗi vì làm kinh động đến ngài, con sẽ
đi thật khẽ, không dám quấy rầy giấc ngủ của ngài nữa.
Ngài xem, con đã quẳng gậy đi rồi." Tôi quỳ thêm một lúc
rồi ngẩng đầu lên nghe tiếng khè của con rắn.
Con rắn đã bỏ
đi và đúng như dự đoán của tôi, nó là con rắn khổng lồ.
Chuyển động của nó làm đồng cỏ lay động theo các hướng
và lan ra mấy mét, tiếp tục rẽ thành đường thẳng xuống
thung lũng bên dưới các đỉnh núi xếp thành vòng tròn đang
lắc lư. Cơ thể của tôi cứng đờ và lạnh buốt vì sợ.
Sau khi hoàn hồn, tôi nhận thấy một cơn gió mát mẻ thổi
từ đỉnh núi xuống.
Tôi nhanh chóng nhận
ra tiếng vang của gió đập vào vách núi. Gió trên núi thổi
theo luồng không ổn định, nhưng tôi có cảm tưởng ngọn
gió này được thổi qua một địa hình tạo thành đường
thông gió tự nhiên. Phải chăng thần núi đã đáp lại lời
thỉnh cầu của tôi? Dù sao thì con rắn cũng đã biến mất
và cái nóng đã dịu xuống phần nào, tôi có thể tiếp tục
đi với tinh thần thoải mái hơn. Một lúc sau tôi đã hiểu
tại sao có gió mát, thì ra là nhờ khu rừng phía trước.
Đèo Amo vốn khét
tiếng là chốn rừng thiêng nước độc, trên trời không mây
mà vẫn có mưa, tôi đã được người ta kể lại rằng trước
nay không có tiều phu nào bén mảng vào khu rừng ở đèo Amo
nhưng đi suốt cả chặng đường đến giờ tôi thấy lèo
tèo có vài ngọn cây thôi.
Tôi bước vào khu
rừng âm u mù mịt mà hai chân lạnh ngắt vì nỗi sợ bị
cua đất hù trên đường thay vì mấy con rắn ban nãy. Trời
sẩm tối, tôi tiến sâu hơn. Dưới bóng cây tùng cây bách,
hầu như không thể nhìn thấy những tia nắng lọt qua kẽ
lá ở xa xa. Mặt đất dưới chân tôi không hẳn là đen kịt
nhưng nơi ánh mặt trời chiếu xuống đều chuyển sang màu
đỏ.
Nước nhỏ giọt
từ những chiếc lá trên cao rơi xuống bàn chân của tôi và
chảy thành dòng nhỏ trên mặt đất. Cây thường xanh rủ
những tán lá kim tạo thành tiếng xào xạc đều đặn còn
những loài thực vật lạ lẫm đang cót két rên rỉ, bất
chợt buông xuống cái mũ rộng vành hoặc con đường sau lưng
tôi. Khu rừng rậm rạp đến độ một chiếc lá rụng xuống
phải mất một năm vượt qua không biết bao nhiêu cành nhánh
mới chạm được đất."
8.
"Tôi không thể
mô tả lại được nỗi kinh hoàng của mình. Nhát gan bẩm
sinh lại không có chút từng trải nào về những chuyến hành
hương, đã trót đâm đầu vào cái chỗ tối tăm rùng rợn
thế này tôi chỉ còn biết trông vào việc cầu trời khấn
phật mà thôi. Sức nóng của con đường thậm chí còn khiến
tôi thoải mái, sự mỏi mệt chóng tan biến khỏi đôi chân
và tôi tiếp tục bước nhanh. Đi qua hơn nửa khu rừng, bất
chợt có gì đó rơi bộp một cái trên mũ tôi, vừa nặng
vừa lõng bõng những nước như trái cây chín nẫu nhưng khi
tôi lắc đầu, nó vẫn cứ bám dính không văng ra. Tôi chả
nghĩ ngợi mấy, đưa tay nhặt thứ quái quỷ trên mũ thì thấy
nó vừa lạnh vừa nhớt.
Bất
chợt có gì đó rơi bộp một cái trên mũ tôi
Tôi cầm lên để
nhìn cho rõ. Nó không có tai hay mắt, nom giống con sên và rõ
ràng là một sinh vật sống. Kinh tởm trước loài vật dị
hợm, tôi ném nó văng ra nhưng nó cứ lì lợm treo lủng lẳng
trên đầu ngón tay và khi con vật rơi xuống, từ chỗ nó bám
vào tay tôi chảy ra một giọt máu đỏ tươi. Trong khi tôi
đối phó với nó thì một con khác đã bám vào cùi chỏ, nom
như một con sên mập ú, to bằng ngón tay.
Tôi kinh ngạc sững
sờ nhìn nó đang trương lên chút một nhờ hút máu tươi từ
cánh tay tôi. Thân nó màu đen, mềm nhũn với các đường sọc
nâu bao phủ và một ít gai như trái dưa leo. Rốt cuộc tôi
cũng vỡ ra đó là một con đỉa hút máu.
Ai cũng có thể
nhận ra mười mươi nó là con gì nhưng tôi thì phải mất
một lúc vì nó quá béo. Thiết nghĩ ngoài ruộng bây giờ hay
trong những đầm lầy huyền thoại ngày xưa cũng làm gì có
con sên nào to đến thế.
Tôi quýnh quáng
vẩy tay lia lịa để thoát khỏi con vật kinh tởm này song
nó vẫn ngoan cường bám lấy để thỏa mãn cơn khát máu.
Tôi bèn dùng biện pháp mạnh giựt ra thì nó đứt làm đôi.
Không thể chịu được loài vật tởm lợm, tôi vứt nó xuống
đất, tìm cách dẫm cho nát bét nhưng không thể vì trong mảng
rừng tăm tối ánh nắng không chạm tới này, mặt đất cũng
mềm nhũn và con vật chìm ngay xuống bùn.
"Đột nhiên tôi
thấy sau cổ mình ngứa ngứa, thì ra là một con khác. Tôi
đã cố phủi nó đi nhưng không được vì nó quá nhớt. Thế
rồi mấy con đỉa nữa cũng đang vây lấy tôi, một con trên
ngực, một con đang trườn qua thắt lưng vào bụng, thêm mấy
con đang bò trên vai làm tôi mặt cắt không còn hạt máu.
Tôi hoảng hốt
nhảy dựng lên, vẫy vùng điên loạn và chạy ra khỏi tán
cây nơi lũ đỉa đang rơi xuống và gỡ từng con mình có thể
tìm thấy trong sự bấn loạn tột cùng. Tưởng đỉa chỉ
tập trung trên cành cây ban nãy, tôi dừng lại ngoái nhìn thì
hỡi ôi, toàn bộ thân cây bị bao phủ bởi một khối đen
ngòm lúc nhúc toàn đỉa là đỉa, rơi ào ào như sung rụng
khiến tôi gào lên thảm thiết.
Lúc cúi xuống tôi
thấy đỉa đã bu kín hai bàn chân, đen đặc đến nỗi không
thấy ngón chân đâu cả. Chỉ cần nhìn cảnh đám đỉa hút
máu đang co bóp và trương lên nhờ dòng máu đến chân mình
mà tôi đã muốn nôn mửa và té xỉu. Trong đầu tôi, một
ảo ảnh kinh dị hình thành.
Có lẽ từ thuở
khai thiên lập địa những con đỉa này đã chủ tâm mai phục
người đi đường, vậy không biết từ xưa đến nay chúng
đã uống bao nhiêu máu? Có bao giờ khi đã no nê máu người
chúng sẽ mửa ra lượng máu tích tụ tự cổ chí kim và toàn
bộ mặt đất sẽ bị bao phủ trong sình lầy, những ngọn
núi sẽ bị nhấn chìm bởi bùn trộn máu không? Trong bóng
tối rùng rợn hãi hùng nơi ánh mặt trời không thể xuyên
qua này, cây cối rốt cuộc cũng sẽ xiêu đổ để hóa thành
đỉa. Giữa tình thế hiểm nghèo, viễn cảnh kinh hoàng đó
đã choán lấy tâm trí tôi."
9.
"Sự diệt vong của
loài người không bắt đầu bằng ngọn hỏa sơn phun trào
thành mưa lửa hay biển dậy sóng thần cuốn phăng đất liền.
Mầm mống sự diệt vong của loài người nằm trong những
con đỉa của khu rừng huyện Hida. Vào ngày tận thế, tất
cả những gì còn lại chỉ là đám đỉa đen ngòm bơi lội
trong vũng lầy vô tận của máu và bùn. Dần dần cái viễn
cảnh diệt vong đã hình thành trong đầu tôi như thế.
Tôi đã hồn nhiên
vào rừng và chủ quan cho đến khi đi thật sâu vào trong mới
hoảng hồn nhận ra phần rễ cây ngoằn ngoèo kia kỳ thực
là những bầy đỉa lúc nhúc. Vậy rà ông trời đã định
cho mình phải bỏ xác trên đường. Những ý nghĩ như vậy
làm tâm trí tôi choáng váng - tôi chợt nhận ra tính mạng
của mình đang ngàn cân treo sợi tóc.Thôi thì sống chết có
số, trong ý tứ tôi đã định rằng chết bây giờ hay sau
đó thì có gì khác biệt, nhưng phải đi tiếp cho đến khi
ra khỏi cái đầm lầy ghê tởm ngoài sức tưởng tượng của
sình và máu này hãng hay. Với quyết tâm ấy, tôi quên đi
cảnh tượng gớm ghiếc mình vừa chứng kiến, gỡ mấy con
đỉa béo núc như tràng hạt đang bám trên người, vừa đi
chân tay vừa vùng vẫy điên cuồng như động kinh. Ban đầu
tôi thấy cả người sưng phồng ngứa ngáy không chịu nổi
còn một lúc sau thì mệt lả, đau muốn xỉu nhưng tứ bề
đều bị bao vây, không thể nào dừng lại nữa.
Hai mắt mờ đi,
tôi sắp sửa quỵ ngã và chạm đến giới hạn chịu đựng
cuối cùng nhưng lạ thay ngay lúc đó ánh trăng nhàn nhạt chiếu
vào mắt tôi như một thứ ánh sáng cuối đường hầm và
dần soi sáng khu rừng đầy đỉa. Bước ra ngoài bóng tối
và bắt gặp mình dưới bầu trời xanh thẫm, tôi đã ngã
cái rầm xuống đất đến nỗi tưởng như mình đã tan nát
thành tro. Tôi lăn lấy lăn để hòng thoát khỏi bọn đỉa
còn bám lại trên người, chẳng cần quan tâm xung quanh là
kim hay sỏi đá. Sau một thôi vật vã, tôi đứng dậy đi tiếp.
Quan sát xung quanh
tôi mới nhận thấy mình đã để nỗi sợ hại làm cho đầu
óc tê liệt. Từ những rặng núi xung quanh có thể nghe được
tiếng ve râm ran, tiếng ve phát ra từ cả cánh rừng đen tối
sau lưng mà tôi đã tưởng tượng là một vũng sình trộn
máu tươi. Mặt trời đang lặn và dưới chân thung lũng trông
đã tối rồi.
Tôi xuống cái dốc
thoai thoải, đem cái chết vì chó sói xé xác và cái chết
đỉa hút máu ra so thì bị sói ăn vẫn còn hơn. Với đầu
óc vô tư của một sa di trẻ, tôi lại thư thả tiến lên
với cây gậy vắt vẻo trên vai.
Nếu không phải
chịu đau và ngứa vì đỉa cắn khéo tôi đã vừa niệm kinh
vừa nhảy múa quay cuồng như thể chưa bao giờ tu hành trên
con đường độc đạo giữa những rặng núi huyện Hida.
Tôi nhá mấy viên
thuốc Seishintan nát đắp lên những chỗ đỉa cắn rồi một
lần nữa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thế giới quanh mình.
Quả thực tôi thấy mình như được cải tử hoàn sinh, song
cũng lo lắng không biết chuyện gì đã xảy ra với tay bán
thuốc từ Toyama. Dễ thường hắn đã bỏ mạng ở cánh rừng
phía sau và biến thành một đống máu thịt bầy nhầy. Nếu
đó là sự thật, ắt giờ này xác hắn đang vất vưởng đâu
đó trong khu rừng âm u để làm mồi cho hàng trăm con đỉa
lúc nhúc bẩn thỉu đến khi mẩu xương chả còn. Tôi có đổ
dấm lên người để xua đỉa mà quay lại cứu hắn thì cũng
đã quá muộn rồi. Nghĩ vậy tôi xuống dốc thật nhanh và
không ngoảnh đầu lại nữa.
Dưới chân đồi
tôi nghe tiếng nước chảy rào rào và nhìn thấy một dòng
suối dưới chân cầu bằng đất nung. Nghe tiếng suối reo
tôi đã muốn lao ngay xuống để rửa sạch dấu tích của
bọn đỉa hút máu. Chỉ nghĩ đến cái sướng của việc được
đi tắm, tôi không buồn lo lắng nếu chẳng may cái cầu đất
nung dưới chân sụp xuống, cứ lao đầu bất chấp hiểm nguy.
Nó có hơi lung lay nhưng tôi đã đi qua an toàn."
10.
"Bấy giờ mệt
quá tôi không biết mình còn sức mà leo lên đỉnh núi hay
không nữa. Bỗng ở đâu phía trước có tiếng ngựa hí. Đoán
mò là xe ngựa, tôi mới nhớ ra từ lúc gặp bác nông dân
tới giờ chưa thấy bóng người nào. Dường như đã mấy
năm trôi qua mà không được giao tiếp với ai cả. Tự nhủ
nếu có ngựa quanh đây thì chắc chắn làng mạc cũng gần
thôi, tôi tiếp tục rảo bước với tâm trạng phấn chấn.
Chưa bỏ mấy sức
tôi đã có mặt trước một ngôi nhà tranh đơn độc giữa
những ngọn núi heo hút. Cửa nẻo đều mở toang vì đang giữa
mùa hè, xung quanh chẳng có rào dậu nào che chắn cả. Tôi
trông thấy một thanh niên đang ngồi dưới hàng hiên cũ nát
nhưng không rõ hình hài anh ta thế nào.
"Xin lỗi, thí chủ
liệu có thể giúp tôi..." Tôi khẩn khoản lựa lời vì xung
quanh chả còn ai khác mà hỏi thăm. "Thưa thí chủ, thí chủ
có thể làm ơn..." Lần thứ hai nhắc lại, bên kia vẫn không
trả lời. Người thanh niên ngoẹo đầu sang một bên, tai chạm
vào vai, cái nhìn đầy vẻ đờ đẫn ngu độn. Anh ta ngó tôi
đứng trước cửa, uể oải đến độ chả có hơi sức mà
di chuyển hai con ngươi nằm dưới mí mắt sưng húp.
Người thanh niên
mặc áo cộc, ống tay dài chưa đến khuỷu và mang tã con nít
nhưng y phục sạch sẽ như mới giặt. Hai bên ve áo có dây
buộc qua cái bụng to như trống cái, rốn thì lồi lên như
núm quả bí ngô nhìn phát gớm. Anh ta cứ sờ mó vặn vẹo
cái rốn lồi bằng một tay, tay kia buông thõng. Chân anh chàng
duỗi ngay đơ ra trước mặt như thể với anh ta sự tồn tại
của chúng chẳng có ý nghĩa gì, tưởng như cặp mông kia đặt
xuống sàn không vững thì cả người đến lăn kềnh ra. Anh
ra nom như mới ngoài hai mươi, miệng lúc nào cũng há hốc,
môi dưới thụt vào còn môi trên trề ra, cái mũi thì to bạnh.
Vầng trán ngắn ngủn, hớt ra sau; mái tóc cũn cỡn mọc lỉa
chỉa vô trật tự xuống cả cổ áo và trùm lên tai. Anh ta
không đáp lại câu hỏi nào mà chỉ nhìn tôi trân trân như
con cóc khiến tôi thắc mắc không biết là do bị câm hay bị
thiểu năng trí tuệ. Tôi vừa lo lắng vừa ngạc nhiên vì
chưa gặp ai như thế này bao giờ, tuy không cảm thấy đe dọa
đến tính mạng nhưng anh ta hết sức quái đản và có cái
gì đó ghê ghê.
"Xin lỗi, thí chủ
cho tôi hỏi chút." Chẳng còn lựa chọn nào khác, tôi đành
gặng hỏi thêm một lần nữa hòng bắt chuyện với con người
quái gở này nhưng anh ta vẫn câm như hến, chỉ phản ứng
bằng cách ngoẹo cổ hết sức đến nỗi đầu vắt sang một
bên vai và cái miệng vẫn há ra như trước.
Phải cảnh giác
mới được, chả biết cái anh chàng ngốc này có định làm
gì mình không. Biết đâu anh ta lại đáp lễ bằng cách vồ
lấy khách và liếm lỗ rốn của họ. Tôi căng thẳng lui mấy
bước, nhưng đồng thời suy đoán rằng ở chỗ núi rừng
hẻo lánh này một anh ngốc không có lý nào lại sống một
mình được bèn nhón chân gọi to: "Xin lỗi, có ai ở nhà không?"
Lại có tiếng ngựa
hí, nghe như từ phía sau ngôi nhà tranh vọng ra. "Ai đó?" Một
giọng đàn bà cất lên từ trong nhà nghe kỳ kỳ, tôi thối
lui bước nữa. Có khi là mãng xà hay yêu quái nào đó núp
trong ấy giả tiếng phụ nữ chứ đàn bà con gái nào lại
sống nơi thâm sơn cùng cốc này. Những chuyện như vậy tôi
đã từng nghe không ít.
"À, thì ra là một
hòa thượng." Người đàn bà bước ra. Nàng có thân hình gọn
gàng, gương mặt xinh đẹp, giọng nói thanh nhã trong trẻo
như không khí vùng cao và có vẻ hiền lành. Tôi thở phào
nhẹ nhõm, mắt nhìn xuống đất và lẳng lặng gật đầu
không nói.
Người đàn bà
hành lễ, quỳ xuống sàn nhưng thực ra chỉ nhoài người ra
phía trước để nhìn cho rõ dáng vẻ đơn độc tả tơi của
tôi sau một hành trình sóng gió dưới ánh hoàng hôn ảm đạm.
Nàng hỏi: "Sư thầy cần chi?"
Vì không được
mời vào nên tôi phỏng đoán chồng của người đàn bà đi
vắng và nàng còn e dè lưỡng lự việc cho phép một kẻ lạ
mặt qua đêm trong nhà mình. Tôi nhanh chân tiến về phía trước,
mạnh dạn xin phép ngủ nhờ một đêm trước khi mất cơ hội.
Tôi kính cẩn cúi chào và lên tiếng: "Thưa thí chủ, tôi đang
trên đường băng qua núi đến Shinshu. Thí chủ có biết quán
trọ gần nhất cách đây bao xa không ạ?"
11.
"Sợ rằng sư thầy
còn phải đi thêm tám dặm đường nữa." Người đàn bà nói.
"Có nhà cửa hay
quán trọn nào gần đây không ạ?"
"E không, thưa sư
thầy." Nàng nhìn tôi, đôi mắt trong veo.
"Đáng tiếc. Nhưng
kể cả thí chủ có cho tôi biết một nơi cách đây không
xa mấy, vừa khang trang tiện nghi vừa sẵn người hầu kẻ
hạ cả đêm đứng quạt hầu cho tôi ngon giấc thì tôi cũng
không thể tiến thêm một bước nữa đâu. Giờ tôi ngả đâu
chỗ đó là giường, ở ngoài lán hay trong kho cũng được.
Xin thí chủ tùy ý định đoạt." Sở dĩ tôi nói thế là vì
con ngựa mà tôi nghe tiếng hí ban nãy là của nhà này.
Người đàn bà
cân nhắc yêu cầu của tôi một lúc rồi quay nghiêng, lấy
cái bao vải và trút ít gạo từ đó vào cái xô gỗ để bên
đầu gối. Nàng vốc một ít gạo ra bàn tay, mắt vẫn nhìn
xuống sàn, bảo: "Thôi, sư thầy cứ ở đây một đêm. Gạo
thì nhà tôi có đủ, nhưng nệm cho sư thầy thì không. Trên
núi ban đêm trời khá lạnh nhưng bây giờ đang mùa hè, có
lẽ không đến nỗi nào. Mời sư thầy vào đây, cứ tự nhiên
như ở nhà."
Tôi đã tiến vào
trước khi người đàn bà kịp nói hết câu và ngồi nghỉ
trong hiên. Nàng bỗng đến gần tôi và vội vã bảo: "Sư thầy
là người xuất gia nhưng tôi có điều này muốn cảnh báo
nếu sư thầy muốn lưu lại đêm nay."
Người đàn bà
nói rành rọt, tôi sợ nàng sẽ đưa ra điều kiện bất khả
thi nào đó nhưng vẫn đồng ý: "Thưa vâng, thí chủ nói đi
ạ."
"Kỳ thực chẳng
có gì ghê gớm đâu, nhưng sư thầy ạ, tôi lúc nào cũng tò
mò những việc xảy ra ở kinh đô, bất kể có muốn kiềm
chế bản thân đến đâu vẫn cứ làm đủ mọi cách để
nghe ngóng cho bằng được. Thành ra xin sư thầy nhớ đừng
có nhượng bộ nếu tôi có năn nỉ sư thầy về chuyện đó.
Tôi đã cảnh báo thầy, xin thí thầy đừng nể nang gì lời
van nài của tôi mà trả lời."
Yêu cầu lạ lùng
của người đàn bà đầy uẩn khúc và ngụ ý. Lời nói của
một phụ nữ sống trong ngôi nhà đơn độc giữa những ngọn
núi cao sừng sững và thung lũng sâu hun hút có cái gì thật
bí ẩn với tôi nhưng vì điều kiện ấy chả khó khăn gì
nên tôi đơn thuần gật đầu đồng ý, đáp nhỏ: "Thưa vâng,
ý thí chủ đã quyết thì tôi sẽ không nói một lời về
những chuyện xảy ra ở kinh đô."
Tôi dứt lời thì
nàng nhận xét: "Nhà cửa dơ dáy thế này, sư thầy đâu cần
giữ kẽ. Để tôi lấy nước cho sư thầy rửa chân nhé?"
"Ấy đừng. Thí
chủ cần gì phải nhọc lòng đến thế, tôi chỉ muốn mượn
cái khăn lau, khăn ẩm thì càng tốt. Hôm nay đi đường tôi
gặp nhiều chuyện gớm ghê, từ đầu đến chân thấy nhớp
nhúa bẩn thỉu. Nếu được tôi chỉ muốn lau qua cái lưng
thôi ạ."
"Vâng, sư thầy
nom mồ hôi mồ kê đầm đìa, chắc là đang nóng lắm. Chờ
chút nhé, cái thú ở nhà trọ là người ta mời khách đi tắm
trước tiên. Tôi không thể bưng đến cho sư thầy một chén
trà chứ đừng nói đến mời sư thầy đi tắm nhưng dưới
chân đồi có một con suối rất hữu tình. Sư thầy không
ngại thì tôi đảm bảo con suối sẽ giúp sư thầy khỏe ra."
Nghe vậy tôi chỉ
muốn bay vội đến con suối để tắm: "Hay quá, được vậy
thì tuyệt vời!" "Để tôi dẫn đường nhé? Tôi cũng tiện
ra suối vo gạo luôn ấy mà." Người đàn bà kẹp cái rá vào
hông, đi dép và bước ra khỏi hàng hiên. Nàng lôi một đôi
guốc cũ nhét dưới bậc thềm ra, gõ vào nhau cho bay bớt đất
và đặt xuống trước mặt tôi: "Mời sư thầy cởi dép và
đi đôi guốc này vào ạ."
Tôi gập người
cảm tạ người đàn bà: "Cám ơn thí chủ. Xin lỗi vì đã
làm phiền."
"Người ta nói hai
người ngủ dưới một mái nhà dù chỉ một đêm cũng là
nhờ duyên nợ từ kiếp trước, xin chớ khách sáo làm gì.
Cứ tự nhiên nghe sư thầy!"
Chẳng ngờ mọi
chuyện lại có vẻ tốt đẹp mặc dù ban đầu tôi có chút
nghi ngại khi phải qua đêm ở ngôi nhà ấy."
12.
"Sư thầy theo tôi
ra đằng này." Người đàn bà đứng dậy kẹp ngang cái rá
vo gạo dưới cánh tay và nhét khăn vào trong dải thắt lưng.
Nàng vấn suối tóc dày mượt bằng một chiếc lược và trâm
cài, tóm lại tôi chỉ có thể nói rằng dáng vẻ nàng thật
đẹp.
Tôi đã cởi dép
đi đường để xỏ vào đôi guốc cũ. Khi đứng dậy liếc
trộm chàng ngốc dưới hiên nhà tôi bắt gặp chàng ta vẫn
đang trố mắt nhìn mình. Hình như chàng ngốc bị câm hay sao
ấy nhưng vẫn cố nói ra điều gì, rốt cuộc anh ta cũng thốt
nên lời nhưng chỉ bập bẹ được mấy tiếng: "Chị ơi,
a... a..." Hiếu kỳ với cái đầu cạo trọc của tôi, chàng
ngốc ngơ ngác giơ tay lên đầu hỏi "Sư? Sư?" Người đàn
bà thấy thế mỉm cười, thỉnh thoảng gật đầu vẻ đồng
tình. Chàng ngốc lẩm bẩm gì đó không hiểu nổi rồi lại
tiếp tục táy máy cái rốn lồi.
Cảm thương cho
người đàn bà, tôi nhìn ra chỗ khác vờ không để ý thấy
tình cảm thắm thiết giữa hai người bọn họ nhưng nàng
dường như chẳng bận tâm. Tôi đang theo sau nàng thì ở đâu
một ông già xuất hiện bất thần từ trong khóm tú cầu,
chắc là đi từ lưng nhà ra. Ông ta bập bập tẩu thuốc trên
miệng, chân mang loại dép buộc dây đi đường còn thắt lưng
lủng lẳng một túi da nhỏ đựng thuốc.
Ông dừng lại trước
chúng tôi và chào: "Hòa thượng, xin mời." Tôi chưa kịp trả
lời thế nào thì người đàn bà hỏi ông ta: "Chú tính được
bao nhiêu?"
"Cô biết mà, so
với la thì nó quá khôn, nhưng tôi sẽ cố cò kè và cậy thêm
một thương lái có nghề. Tóm lại, thế nào cũng đủ một
món vừa vặn trong hai, ba tháng gì đấy. Mai tôi sẽ đưa lại
đưa tiền."
"Con rất cảm kích
sự giúp đỡ của chú."
"Vâng, vâng, tôi
biết rồi. Cô đi đâu thế?"
"Con với sư thầy
ra sông."
"Thì ra là ra sông
với tiểu hòa thượng hả? Cô đừng có quá tay nhé, tôi sẽ
đợi đến khi cô về." Nói xong ông ta ngồi xuống hiên nhà.
"Sư thầy hiểu
ý ông cụ chứ?" Người đàn bà mỉm cười vẻ hiểu chuyện,
hỏi tôi.
"Có lẽ tôi tự
đi ra sông thì tốt hơn." Tôi trả lời, lui lại một chút
nhưng lão già cười hi hí vẻ tục tĩu: "Mấy người lẹ lên,
đừng có đi lâu quá."
"Chú đợi bọn
con về nhé! Hôm nay nhà ta đã đón hai vị khách, khéo lại
có ai đó nữa không biết chừng. Giả sử có người nào ghé
qua mà chỉ có Jiro ở đây thì họ chẳng biết đâu mà lần,
thành thử chú chịu khó đợi đến khi bọn con về vậy."
"Được, được."
Ông ta ngồi xuống bên cạnh chàng ngốc, thụi anh ta một phát
vào lưng thật mạnh khiến cái bụng anh chàng rung lên bần
bật nhưng ngốc ta chỉ chảy dãi, nhe răng cười. Thấy lão
già đối đãi chàng ngốc như thế, tôi nhún vai và ngoảnh
đi chỗ khác vì ngại nhưng người đàn bà không buồn để
ý.
Lão già trêu: "Tiêu
thư coi chừng kẻo tôi bắt cóc anh chồng này lúc tiểu thư
đi vắng nghe chưa!"
"Chú cứ tự nhiên.
Sư thầy, ta ra sông thôi."
Tôi có cảm tưởng
lão đang quan sát chúng tôi nhưng tôi không còn cách nào khác
ngoài theo sau người đàn bà đang dẫn đường cho mình đi
vòng quanh căn nhà. Theo lối đi từ những khóm tú cầu mà
ban nãy lão già xuất hiện, bấy giờ chúng tôi vòng ra sau,
bên trái tôi thấy một chuồng ngựa, nghe cả tiếng ngựa
dậm chân, đá vào vách nhưng lúc trời nhá nhem chẳng nhìn
rõ được cái gì.
"Chúng mình sẽ
theo đường này xuống con sông dưới kia. Đường không trơn
nhưng hiểm trở, sư thầy cẩn thận."
13.
"Có một cây tùng
thanh mảnh nhưng cao chót vót ở chỗ bắt đầu xuống dốc.
Đoạn gốc cây mảnh dẻ không chia nhánh cao chừng tám hay
mười thước. Đi qua cây tùng tôi dừng bước ngẩng đầu
nhìn xuyên qua tán lá bắt gặp trăng mười ba, có vẻ vẫn
là vầng trăng tôi nhìn ngắm mỗi ngày nhưng đêm nay nó chỉ
làm tôi nhận thấy mình đã xa cách với xứ sở quen thuộc
của con người lắm rồi. Người đàn bà đang dẫn đường
cho tôi đột nhiên biến mất. Nhờ bám lấy thân cây tùng
và dò dẫm cái dốc dưới chân mà tôi mới lại thấy nàng.
Nàng ngước lên
chỗ tôi: "Sư thầy coi chừng, dưới này dốc lắm. Đôi guốc
cũ sẽ làm vướng chân sư thầy, hay là sư thầy đổi lấy
đôi dép của tôi nhé?" Nàng tưởng tôi bị tụt lại đằng
sau vì đường khó đi, nhưng kỳ thực tôi chỉ muốn mau mau
nhảy xuống suối để gột rửa tàn tích lũ đỉa để lại
trên người. Tôi còn nông nóng tính làm liều lăn xuống cho
mau nữa kìa.
"Không sao, không
việc gì đâu ạ. Tôi đi chân đất cũng được, làm phiền
tiểu thư rồi."
"Kìa, sư thầy gọi
tôi là tiểu thư đấy à?" Nàng bật cười trong trẻo.
"Vâng, thì cụ già
ban nãy gọi thí chủ như vậy. Không được sao? Chả lẽ thí
chủ đã có chồng?"
"Không sao, nhưng
vấn đề là tôi đáng tuổi cô sư thầy ấy chứ. Sư thầy
nhanh chân lên một chút. Chắc tôi không đổi dép của mình
cho sư thầy được vì chân sư thầy to hơn chân tôi, đế
dép lại mỏng thế này thì đá sỏi trên đường sẽ làm
sư thầy đau chân cho mà coi. Mà đôi dép ướt rồi, đi vào
sư thầy lại khó chịu." Nàng vừa nói vừa nhét gấu áo kimono
vào thắt lưng, để lộ trước mặt tôi cặp đùi trắng nõn
lung linh theo từng bước chân đang mờ dần vào bóng tối.
Trong khi hai chúng
tôi đang lúc hối hả xuống dốc thì một con cóc từ bụi
cỏ ven đường nhảy ra trước mặt. Nàng kêu lên: "Ôi thấy
ghê!" rồi thoắt cái nhảy qua, quay lại mắng: "Ngươi ở đây
làm gì, không thấy ta có khách hả? Thân phận ngươi được
ăn ruồi bọ đã là phúc mà dám to gan níu chân ta." Nàng nói
với tôi: "Sư thầy qua đây, đừng để ý đến bọn chúng.
Ở chỗ chó ăn đá gà ăn sỏi này thú vật cũng bày đặt
đi ăn mày tình cảm, sư thầy thấy không, thật chả ra làm
sao nhỉ?" Nói đoạn nàng dứt khoát với con cóc: "Để ta yên
nghe chưa. Người ta tưởng ta là bạn bè với ngươi thì nhục
cho ta lắm."
Người đàn bà
quay bước, con cóc trở về núp trong bụi cỏ. Chúng tôi đi
tiếp thì bắt gặp một cây cầu là khúc gỗ bắc ngang, xung
quanh cỏ mọc um tùm. Nàng nói: "Chúng ta phải bước qua cầu
này, xin chú ý đừng dẫm vào đất sình xung quanh, sình nhão
sẽ kéo sư thầy lún xuống."
"Tôi thấy cái guốc
không gây khó khăn mấy lúc đặt chân lên khúc gỗ vì khúc
gỗ to đáng ngạc nhiên, chỉ việc phăm phăm bước qua. Sang
đến bờ bên kia thì tiếng nước chảy róc rách đã nghe thấy
rõ. Chúng tôi ở cách nhà người đàn bà khá xa, khi quay đầu
lại ngước lên vách núi nơi xuất phát tôi không còn thấy
cây tùng đâu nữa, trăng đã chìm dưới con dốc nhưng sáng
tỏ và gần đến mức tưởng như có thể chạm đến, thực
tình tôi còn không ngờ là trăng ở rất cao.
"Sư thầy đi lối
này." Người đàn bà dừng lại ở cách tôi một đoạn. Có
tảng đá chắn ngang dòng suối, nước chảy qua đó tạo thành
xoáy. Con suối rộng chừng hai thước và lúc đứng gần tôi
mới nhận ra tiếng suổi reo không đến nỗi ồn như tôi nghĩ
và dòng nước trong vắt như pha lê, nhưng từ xa vọng tiếng
nước đập vào ghềnh đá lởm chởm.
Bờ bên kia được
hình thành bởi phần dốc của chân rặng núi. Phần đỉnh
đang nằm khuất trong bóng tối nhưng sườn núi được chiếu
sáng bởi ánh trăng. Trong ánh trăng huyền ảo tôi nhìn thấy
những hòn đá cuội rải rác đủ mọi kích cỡ hình thù kỳ
thú: cái thì nom như vỏ sò, cái trong như pha lê, cái lại
tròn trịa tuyệt đối. Hình như càng nhìn thì càng thấy lắm
đá hơn, có một hòn đá to hơn cả con ngựa nhô ra giữa dòng."
14.
"Chúng ta gặp may
rồi, đang đúng lúc nước sông dâng cao. Không cần phải xuống
dưới nữa đâu, tắm ngay đây cũng được sư thầy à!" Người
đàn bà đang đứng trên tảng đá vừa nói vừa nhúng bàn
chân trần trắng muốt vào dòng nước trông hết sức gợi
cảm. Bên kia sông, sườn núi đâm thẳng xuống rìa nước
và tảng đá lớn nằm nhô ra giữa dòng tạo thành một chỗ
quan sát thuận lợi.
Tôi không thể nhìn
ra quá xa theo chiều xuôi hay ngược dòng nhưng bề ngang mỗi
khúc sông lại rộng hẹp khác nhau, uốn éo theo những tảng
đá núi đồ sộ bờ bên kia. Dòng chảy khuất sau tầm mắt
tiếp tục quanh co giữa hai bờ đá. Ánh trăng bàng bạc chiếu
lên dùng chảy ngắt quãng của con sông khiến mặt nước trông
như những vảy kim loại của áo giáp. Gần chỗ chúng tôi
nước chảy êm đềm tựa như một bó tơ trắng mềm mại
được tay ai chải mượt.
"Nhìn từ đây con
sông đẹp thật." Tôi mừng rỡ lên tiếng.
"Dạ phải. Con sông
này bắt nguồn từ dòng thác phía thượng nguồn. Lữ khách
đi ngang vùng này luôn nói về tiếng gầm nào đó mà họ tưởng
là tiếng gió. Thế sư thầy có nghe thấy cái gì tương tự
lúc đi đường ban nãy không?
Người đàn bà
nhắc tôi mới nhớ đến âm thanh tôi nghe được ngay trước
lúc đụng độ lũ đỉa. "Không phải là tiếng gió thổi qua
rừng ạ?" Tôi hỏi.
"Ai cũng tưởng
thế nhưng không phải đâu sư thầy à, có một ngọn thác
cách đây ba dặm theo lối rẽ từ cánh rừng sang. Nghe nói
ngọn thác này lớn nhất nước, nhưng hiềm nỗi đường sá
quá xấu mười người đi thì chưa được tới một người
toàn mạng. Dòng nước có tiếng là chảy xiết. Mười ba năm
về trước một cơn đại hồng thủy kinh hoàng đã nhấn chìm
vùng này, nước ngập còn cao hơn cả chỗ tôi với sư thầy
đang đứng. Đừng nói là làng mạc dưới chân đồi chứ
quả đồi cũng bị cuốn đi luôn. Trước trận lũ đếm qua
cũng được hai chục nóc nhà, sau trận lũ thì chỉ còn con
sông như sư thầy đang thấy. Mấy tảng đá lớn kia đều
do lũ quét xuống đây."
Áp-phích
phim Koya Hijiri
của
đạo diễn Takechi Tetsuya (1983)
Người đàn bà
bấy giờ vo xong rá gạo thì áo quần cũng xộc xệch đôi
chút, để lộ một bên vú. Dưới trăng tôi đã thấy sống
mũi và khuôn miệng của nàng tạo thành một đường nét thanh
tú lúc nàng nhìn lên đỉnh núi với ánh mắt lóe lên niềm
hoan lạc. Ánh trăng trên triền núi lung linh như trong chiêm
bao.
"Nhìn mấy vết
đỉa cắn này tôi vừa thấy mình dũng cảm mà cũng vừa thấy
ghê sợ." Tôi vừa rửa hay cánh tay vừa nói. Nàng bảo: "Kìa,
sư thầy cứ ngại ngùng như vậy thì quần áo sẽ ướt hết,
bất tiện lắm. Sư thầy cứ cởi áo ra tắm cho đàng hoàng,
để tôi cọ lưng cho."
Tôi hoảng hốt
lớn tiếng: "Đừng! Xin thí chú dừng lại."
"Hai tay áo đã ướt
sũng mà sư thầy còn rụt rè chi nữa." Nàng vừa nói vừa
từ phía sau túm lấy thắt lưng của tôi, thoắt cái đã cởi
xong cái áo kimono mặc tôi ra sức chống cự. Thí chủ cũng
biết tôi được học đạo giữ giới rất nghiêm, từ ngày
xuất gia chưa bao giờ cởi hết quần áo. Thế mà lúc ấy
trước mặt một người đàn bà, tôi lại để thân mình trần
trụi như con ốc sên không vỏ. Tôi cứng đờ vì hổ thẹn
và chỉ biết khom người, kẹp thật chặt hai chân trong khi
người đàn bà hồn nhiên vắt cái áo kimono của tôi lên một
cái cây gần đó.
"Tôi để áo của
sư thầy ở đây này. Bây giờ tôi giúp sư thầy cọ lưng
nhé, ban nãy sư thầy gọi tôi là tiểu thư, bây giờ tôi xin
đáp lại lời khen của sư thầy. Đứng yên đó nghe!" Nàng
lấy răng giữ một bên tay áo và đặt hay bàn tay đẹp lên
lưng tôi nhưng lưỡng lự trước tình trạng thân thể của
tôi, hỏi nhỏ:
"Ôi trời đất
ơi, sư thầy làm sao thế?"
"Chuyện gì vậy
thí chủ?"
"Lưng sư thầy đầy
vết bầm dập đây này."
"Vâng, chuyến đi
của tôi vất vả lắm thưa thí chủ." Tôi trả lời và mường
tượng lại nỗi kinh hoàng bị đỉa cắn."
15.
"Trông thấy lưng
tôi như vậy, người đàn bà sửng sốt nói: "Sư thầy vừa
một phen thừa sống thiếu chết trong rừng phải không? Người
đi đường bảo rặng núi Hida có rất nhiều đỉa. Sư thầy
hẳn đã không chọn đường vòng mà lao thẳng vào khu vực
đỉa hoành hành mới ra nông nỗi này, nhưng ngay đến ngựa
với bò còn bị hút máu đến chết thì chứng tỏ sư thầy
mạng lớn, được trời phù hộ. Vết thương chắc là đau
và ngứa lắm."
"Giờ thì đỡ rồi,
chỉ còn đau thôi ạ."
"Thế thì tôi không
dám cọ lưng cho sư thầy bằng cái khăn thô ráp này, sẽ làm
vết thương của sư thầy thêm trầm trọng." Nàng bèn cọ
lưng cho tôi bằng tay, đôi tay nàng vuốt ve từ vai xuống lưng,
mạng sườn và mông tôi, nàng vừa cọ vừa luôn tay xối nước.
Tôi cứ ngỡ nước
lạnh tê tái song không phải thế, dĩ nhiên lúc đó đang là
thời gian nóng nhất của mùa hè nhưng đấy không phải lý
do làm nước ấm. Thực tình máu me trong người tôi đang sôi
lên cộng hưởng với cái tình ý của người đàn bà đang
âu yếm tôi bằng đôi tay trần đã làm làn nước trở nên
âm ấm dễ chịu. Cái cảm giác lúc đó của tôi quá đỗi
êm đềm khoan khoái đến độ mặc dù chưa tới mức ngủ
thiếp đi nhưng tôi đã quên hết nỗi ngượng ngập ban nãy
mà để mặc cho đầu óc mơ màng không còn biết đau đớn
nữa. Thân thể ấm áp, mềm mại của người đàn bà áp chặt
vào tôi, khiến tôi tưởng như đang được ấp ủ trong một
đóa hoa lạ hết sức dịu dàng.
Đừng nói phụ
nữ miền sơn cước chứ ngay cả chốn đô thành cũng khó
lòng kiếm cho được một người đẹp đẽ thanh tú như nàng.
Người đàn bà diễm lệ như một loài hoa mong manh tinh khiết,
tuy nàng đã cố tránh không để tôi bắt gặp hơi thở của
nàng và phần tôi cũng gắng không công nhận sự hiện diện
của nàng nhưng phải thú nhận rằng tôi đã bị cảm giác
đê mê cuốn đi trong lúc nàng tắm cho tôi. Nàng còn thoang
thoảng hương thơm, tôi không rõ đó là không khí của vùng
cao hay đó là mùi thơm tự nhiên của đàn bà, nhưng tôi cảm
nhận thấy nó man mác như hơi thở nhẹ của người phụ nữ
sau lưng mình.
Kể đến đây vị
hòa thượng ngưng lại bảo tôi: "Thí chủ nằm gần đèn hơn
tôi, phiền thí chủ chỉnh cho đèn sáng hơn một chút. Tôi
sợ thí chủ nghe chuyện như vậy trong bóng tối sẽ hăng máu
lên. Nhưng dù sao tôi xin cố kể cho hết câu chuyện này."
Ánh đèn leo lét
đến nỗi mặc dù hòa thượng đang nằm ngay cạnh nhưng tôi
không tài nào nhìn ra ông trong bóng tối. Tôi nhanh tay vặn
đèn, ánh sáng chiếu tỏ khuôn mặt ông đang mỉm cười với
tôi và ông kể tiếp.
"Nói tóm lại, chuyện
xảy ra làm tôi ngỡ như mơ. Như đã nói, tôi tưởng như mình
đang nằm gọn trong vòng kiềm tỏa của một loài hoa quyến
rũ, thơm tho. Từng cánh len vào giữa chân, ôm lấy thắt lưng,
tay, vai, cổ và cuối cùng là đầu tôi. Bất chợt tôi nhận
ra mình đang nằm ngửa trên tảng đá, hai chân buông thõng
xuống suối. Trong một khoảnh khắc tôi ngỡ mình đã trôi
tuột xuống sông thì người đàn bà choàng hai cánh tay từ
phía sau kéo tôi về áp sát ngực nàng và cứu tôi khỏi dòng
nước xiết.
"Tôi ở gần sư
thầy như vậy, mùi mồ hôi của tôi có làm sư thầy khó ở
không? Tôi hay bị bốc hỏa trong người lắm." Nghe nàng nói
tôi chợt tỉnh ra, vùng mình thoát khỏi vòng tay nàng và đứng
nghiêm vì xấu hổ.
"Xin thí chủ tha
lỗi." Tôi nói.
"Đừng lo, không
ai nhìn thấy chúng mình đâu." Nàng vui vẻ trả lời. Không
biết từ lúc nào nàng đã cởi bỏ hết y phục, hoàn toàn
khỏa thân trước mặt tôi, làn da mịn như nhung. Thí chủ
chắc cũng tưởng tượng ra sự ngỡ ngàng bối rối của tôi
lúc ấy. "Tôi béo quá nên chịu không nổi mùa hè. Thời gian
này mỗi ngày tôi phải ra đây hai, ba bận tắm sạch mồ hôi
cho mát. Không có nước thì tôi chẳng biết phải làm gì.
Khăn đây thưa sư thầy, sư thầy lấy mà lau chân." Nàng vắt
khăn ráo nước, chìa ra cho tôi. Tôi chưa kịp định thần
thì nàng đã lau khô khắp người tôi rồi. Kể cho thí chủ
nghe chuyện này kể cũng hơi quái đản."
16.
"Bấy giờ tận
mắt chiêm ngưỡng nàng tôi mới nhận ra nàng khác xa lúc mặc
quần áo. Thân hình người đàn bà rất đầy đặn, làn da
nàng mịn màng.
"Ban nãy tôi vào
chuồng chăm sóc con ngựa nên người tôi bốc mùi ngựa rất
khó chịu. Tiện đây tôi cũng phải xuống tắm mới được."
Nàng điềm nhiên giải thích như thể tôi là người nhà chứ
không phải người ngoài. Nàng lấy một tay giữ tóc, tay kia
kỳ cọ một bên sườn bằng khăn lau. Người đàn bà đứng
tắm dưới trăng cứ một lúc lại vắt khăn lau cho ráo nước,
hình thể đẹp như một nữ thần. Không biết là thật hay
do tôi tưởng tượng mà mồ hôi của nàng xối đi có ánh
hồng, thậm chí là đỏ. Tắm xong nàng chải mái dóc dài ướt
át. "Ngộ nhỡ tôi trượt chân xuống sông chết đuối thì
sao? Thật là ngại quá nếu dân làng ở cuối sông vớt phải
cái xác trần truồng như vậy, không biết họ sẽ nói gì
nhỉ?"
"Rằng nàng đẹp
như đóa hoa đào. Tôi nghĩ họ sẽ nói như thế." Tôi buột
mồm nói mà không nghĩ, bất giác đã bắt gặp ánh mắt nàng.
Lúc cười nàng trẻ ra bảy hay tám tuổi, xinh đẹp rạng ngời,
nhưng ngay lập tức ánh mắt của nàng hạ xuống e thẹn như
người con gái chưa chồng. Tôi cũng lảng sang chỗ khác nhưng
tâm trí vẫn rõ ràng cái thân hình tuyệt mỹ của người
đàn bà dưới ánh trăng biến ảo, sau lưng nàng là màn sương
cuồn cuộn và cao nguyên gập ghềnh sỏi đá bờ bên kia.
Bỗng từ cái hang
nào đó một cái bóng đen tản ra mấy con dơi lượn vòng vòng
quanh chúng tôi. Người đàn bà vội quay người, mắng: "Các
ngươi cút đi. Không thấy ta đang tiếp khách à?"
Tôi đã mặc xong
quần áo và lấy lại bình tĩnh, hỏi: "Có chuyện gì thế
ạ?"
"Không có." Nàng
trả lời cụt lủn, quay lưng lại phía tôi.
Thế rồi ở đâu
ra một loài gặm nhấm nào đó nhảy phốc từ bờ sông bám
vào lưng người đàn bà, bò xuống hông nàng và cứ bấu lấy
không chịu đi. Nàng quát: "Đồ súc sinh, buông ta ra! Ta đang
có khách mà dám làm bừa à!" Con vật mon men bò lên eo lưng
người đàn bà thì bị nàng nện cho một cái vào đầu. Con
thú rít lên, nhảy lui về một tán cây gần đó nơi cái áo
kimono của tôi vắt ngang. Nó đứng đó một lúc rồi trèo
thoăn thoắt lên ngọn cây và tôi nhận ra đó là một con khỉ.
Có thể trông thấy trăng đã mọc cao đến vách núi, ngang
tầm ngọn cây qua những tán lá thưa.
Người đàn bà
nom khó chịu vì liên tục bị phá đám: đầu tiên là con cóc,
sau đó là con dơi, và con khỉ; vẻ bực bội của nàng đối
với lũ thú vật giống như thái độ một bà mẹ trẻ trước
những đứa con nghịch ngợm. Nàng hậm hực mặc kimono còn
tôi không nói một lời nào."
17.
"Tôi bồn chồn
dõi theo nhất cử nhất động của người đàn bà. Mềm mỏng
mà cũng rất cứng rắn, vừa vô tư vừa trầm mặc, dịu dàng
nhưng quyền lực, nàng là loại người có thể giữ được
bình tĩnh trong mọi trường hợp nguy cấp nên tôi tự nhủ
phải giữ kẽ và không được phép có cử chỉ nào quá trớn
với nàng. Tôi lo lắng không tả nổi, chẳng dám nghĩ đến
đoạn nàng sẽ lớn tiếng nạt nộ mình như quát con khỉ
ban nãy.
"Sư thầy chắc
lấy làm lạ lắm đúng không, e rằng những việc như vậy
không thể tránh khỏi." Nàng nói, mỉm cười trìu mến với
tôi. "Chúng mình về nhà nhé." Người đàn bà hồn nhiên thắt
lại dây lưng, một tay cầm rá vo gạo kẹp vào eo, xỏ dép
và nhanh nhẹn leo xuống dốc và cảnh báo tôi: "Sư thầy cẩn
thận, đoạn đường này khó đi đấy"
"Không sao ạ, tôi
đi được mà." Ban đầu tôi khá tự tin nhưng đi được một
lúc tôi mới nhận ra con đèo này dốc hơn so với trí nhớ
của mình. Cuối cùng chúng tôi cũng quay lại đoạn có cây
gỗ lớn bắc qua bị che gần hết bởi cỏ mọc um tùm. Tôi
thấy rờn rợn vì vỏ cây nhìn na ná như vảy của con mãng
xà đang ngụy trang, đúng ra thì độ dài và phần vỏ cây
làm tôi liên tưởng ngay đến con rắn giấu đầu đuôi trong
lùm cỏ mà tôi đã chạm trán. Tôi hồi tưởng lại màn chào
hỏi với con vật gớm ghiếc trên núi mà bủn rủn hai đầu
gối. Thỉnh thoảng người đàn bà ngoảnh lại nhìn qua vai
xem tôi có còn theo sát phía sau không. Nàng nhắc: "Khi đi qua
khúc gỗ sư thầy nhớ không được nhìn xuống dưới. Đường
xuống thung lũng hãy còn xa lắm, nhìn xuống dưới thể nào
sư thầy cũng chóng mặt cho mà xem."
"Cám ơn thí chủ."
Nén sợ thì có ích gì đâu, tôi đành biết tự cười mình
để lấy dũng khí bước đi. Trên cầu có khấc nên chỉ cần
cẩn thận để ý là có thể đi guốc mà băng qua không vấn
đề gì, song tôi vừa đặt guốc lên thì cây gỗ tự nó rùng
mình như một con rắn. Tôi trượt ngã bệt xuống, miệng hét
to, hai chân dạng ra hai bên.
"Sư thầy nhát gan
quá đi! Cũng tại đôi guốc gỗ mà ra. Đây, sư thầy đổi
lấy đôi dép của tôi. Đừng ngoan cố, cứ làm như tôi nói!"
Người đàn bà lớn tiếng.
Giọng điệu của
nàng chả hiểu sao rất có uy, khiến tôi chỉ biết mù quáng
nghe lời mà không cần biết ất giáp gì hết. Chân xỏ guốc,
nàng nắm tay tôi dẫn xuống vách núi và thí chủ biết không,
tôi thấy người nhẹ lâng lâng, chưa kịp định thần thì
đã đứng trước cửa sau nhà nàng. Chúng tôi gặp lại ông
lão.
"Hai người ra sông
cũng lâu đấy nhỉ. Hòa thượng quả thực là biết giữ mình
trong sạch."
"Chú nói cái gì
thế? Ở nhà thế nào,mọi chuyện ổn không chú?
"Ổn, nhưng trễ
rồi, ta phải xuất phát ngay kẻo để đến khuya thì không
thấy gì mà đi. Để ta dắt con Shô ra chuồng, sửa soạn cho
nó lên đường."
"Xin lỗi đã để
chú chờ."
"Cô vào xem chồng
thế nào đi. Đừng lo, anh chàng vẫn ổn, tôi không bắt cóc
chàng ta đâu mà sợ."
Lão già cất tiếng
cười khờ khạo tiến về phía chuồng ngựa. Chàng ngốc vẫn
ngồi nguyên tư thế ban nãy, không chệch một ly. Anh nắng
không bao giờ chiếu vào hiên nên chàng ngốc có vẻ cũng không
nhận thức được thời gian trôi đi, chỉ biết ngồi thẫn
thờ như vậy."
18.
Từ hiên nhà chúng
tôi nghe tiếng hí và vó ngựa lộc cộc lúc người ông già
dắt Shô từ cái chuồng phía sau nhà ra cổng trước. Ông ta
đứng yên một lúc, cầm dây cương bảo: "Tiểu thư, tôi đi
đây. Cô nhớ chăm sóc cho nhu cầu của hòa thượng chu đáo."
Trong lúc đó người đàn bà đang khom người lúi húi nhóm
lửa với cây đèn bên cạnh, trên lò có đặt một cái ấm
nước. Nghe lời dặn của lão già, nàng ngẩng đầu lên, tay
vẫn đang cầm que cời lò bảo: "Cám ơn chú. Chú sớm quay
lại nghe."
"Cô cứ tự nhiên."
Cụ già đáp rồi lại tiếp tục quay về phía con ngựa. Shô
là một con ngựa đốm bờm thưa, lưng không đeo yên. Chả
hứng thú gì với ngựa nghẽo nhưng lúc cụ già dắt Shô đi,
tôi đang ngồi sau lưng chàng ngốc dưới mái hiên cũng phải
xích ra đầu hồi để nhìn theo.
"Cụ dắt nó đi
đâu thế?" Tôi hỏi.
"Ra phiên chợ ngựa
ở hồ Suwa. Cùng con đường sáng mai sư thầy sẽ đi nhưng
xa hơn chút đỉnh."
Bỗng người đàn
bà chen vào: "Kìa, sư thầy không định tiện đường cùng
chú ấy luôn chứ?"
"Thưa không. Đương
nhiên là không. Tôi không thể vì tiện đường mà lợi dụng
con ngựa được, như thế là vi phạm đạo đức của người
tu hành. Tôi sẽ tự đi một mình."
Lão già nói thêm:
"Hòa thượng có muốn cũng chả cưỡi được con ngựa này
đâu, nó chưa thuần. Với lại hôm nay hòa thượng đã phải
đi lại vất vả khổ sở, cứ để tiểu thư ta chăm sóc một
đêm. Xin chào các vị, ta đi nhé."
"Vâng ạ" Tôi đáp.
"Đi!" Ông già hô,
nhưng con ngựa không nhúc nhích mà quay lại nhìn chúng tôi,
lắc đầu nghiến răng như thể muốn nói gì đó. "Nào nào,
bình tĩnh." Ông già giật dây cương bên tay mặt, bên tay trái,
nhưng nó vẫn trơ trơ như thể bốn chân mọc rễ. Lão tức
mình quát to, đánh con ngựa nhưng nó chỉ bước mấy vòng
loanh quanh trong lúc cơn giận của ông cụ sôi lên. Ông già
lấy vai huých mạnh vào hông Shô hòng cho nó đổi hướng,
Shô bèn nhấc hai chân trước, có vẻ sắp đi đến nơi nhưng
lại hạ xuống. Rốt cuộc lão già phải nhờ người đàn
bà đứng nấp vào đâu đó khỏi tầm mắt con ngựa.
Nàng bèn nhanh nhẹn
nép vào phía sau cây cột đen nhánh màu nhọ nồi. Từ chỗ
con ngựa chắc không thấy chứ tôi quan sát được tại vị
trí của mình một thoáng bàn chân trắng như tuyết của nàng
nổi bật bên chiếc cột đen, trông phong tình đến rợn người.
Lão già dừng lại
để kéo một tấm giẻ rách bẩn thỉu đẫm mồ hôi từ thắt
lưng ra lau cái trán nhăn nheo. Ông ta lại tiến lên trước
đầu con ngựa, tay giữ dây cương thật chắc và gồng mình
giật thật mạnh. Thí chủ đoán xem chuyện gì xảy ra nào?
Con ngựa hí vang,
nhún hai chân sau xuống và hất lão già ngã lăn kềnh ra đất
làm một đám bụi bay lên mịt mù dưới ánh trăng. Ngốc ta
thấy vậy lấy làm khoái chí, ngửng đầu há cái miệng dày
để lộ hàm răng to bè mọc san sát. Anh chàng vừa vung vẩy
hai cánh tay vừa cười hô hố.
"Đồ chết tiệt!"
Người đàn bà xỏ dép, chạy ra khỏi nhà để giúp một tay.
"Không phải tại
tiểu thư, từ đầu tôi đã để ý thấy con ngựa nhìn hòa
thượng. Chắc là kiếp trước họ quen nhau, nó muốn được
hòa thượng cầu nguyện cho đấy."
Tôi nghe cụ già
nói mình và con ngựa có liên hệ từ kiếp trước mà giật
mình, song người đàn bà bỗng hỏi: "Sư thầy à, trên đường
đến đây sư thầy có gặp ai không?"
19.
"Thưa có, ở chỗ
ngã ba đường ngay chân núi tôi có gặp một người bán thuốc
dạo từ Toyama, anh ta đi trước tôi nhưng cũng men theo đường
mòn."
"À, ra thế." Người
đàn bà mỉm cười như thể tôi vừa giải thích cho nàng điều
gì đó. Khi đưa ánh mắt về phía con ngựa, nụ cười của
nàng sắc bén hơn, gần như tự mãn và khinh khỉnh. Thái độ
của người đàn bà coi mòi cởi mở nên tôi đánh bạo hỏi:
"Thí chủ có thấy anh chàng bán thuốc không? Con đường mòn
dẫn lên đây, chắc chắn anh ta phải ghé nơi này chứ."
"Không hề, tôi
chẳng thấy bóng dáng ai." Nàng lấy lại vẻ trịnh trọng
nên tôi không dám hỏi thêm nữa. Nàng đang nhìn lão già đứng
loay hoay phủi bụi trước mặt con ngựa. "Xin lỗi chú vì con
ngựa dở chứng. Không còn cách nào nữa rồi." Người đàn
bà dứt khoát cởi thắt lưng và nhấc dải thắt lưng lên
khi nó đang lơ lửng chạm đất.
"A, a," Chàng ngốc
cất tiếng khô khan, với tay ra dợm nắm lấy dây lưng đang
buông thõng của người đàn bà. Nàng đưa cho chàng ngốc,
anh ta bèn trải vật đó lên đùi rồi gấp lại, trân trọng
giữ gìn như bảo bối. Trong khi đó, người đàn bà đang nắm
lấy vạt áo dưới bầu ngực và thoăn thoắt tiến về phía
con ngựa.
Hành động sau đó
của nàng khiến tôi sửng sốt. Người đàn bà kiễng chân
lên, dịu dàng xòe tay vuốt ve cái bờm ngựa. Nàng đứng trước
cái mõm bị rọ của con Shô, bất thần hình dáng nàng to lớn
hơn rất nhiều so với trí nhớ của tôi. Đôi mắt người
đàn bà trở nên vô định, chân mày dãn ra như thể hồn lìa
khỏi xác đi vào một cõi hư vô. Vẻ hòa nhã tinh nghịch vốn
có của nàng hoàn toàn biến mất, không biết là nàng đã
hóa thành nữ thần hay yêu quái nữa.
Màn đêm của núi
rừng buông xuống dày đặc. Những đỉnh núi xung quanh như
ngả nghiêng hòng nhìn ngắm vị nữ thần trắng muốt dưới
ánh trăng ma mị, quỳ dưới chân nàng là một lão già và
trước mặt nàng con ngựa đang chờ đón niềm hoan lạc.
Cơn gió nhẹ ấm
áp mơn man thổi qua chúng tôi khi người đàn bà để vạt
áo rơi xuống từ vai trái, để lộ bầu vú dưới lần áo
lót mỏng tang mà nàng đang giữ bằng tay phải. Một tích tắc
sau nàng đã hoàn toàn khỏa thân.
Con ngựa run lên
từ lưng đến tận hông, cả thân mình mồ hôi ướt đẫm.
Đôi chân vững chãi của Shô bắt dầu lẩy bẩy, cái mõm
dần dần hạ xuống đất và sùi bọt lên. Hai chân trước
của con ngựa coi có thể sụp xuống bất cứ lúc nào. Người
đàn bà một tay vuốt nhẹ dọc theo hàm con ngựa, tay còn lại
hất vạt áo phủ lên mắt nó. Nàng nhanh nhẹn luồn qua một
bên con ngựa như chú mèo con nghịch ngợm, trên người chỉ
phủ một lớp ánh trăng huyền ảo. Nhẹ nhàng trườn xuống
dưới hai chân trước của nó, nàng tóm lấy chiếc áo đang
phủ lên mắt con ngựa và né sang bên sườn con vật.
Chớp lấy thời
cơ, lão già kéo dây cương và Shô khởi sự rảo vó về phía
con đường. Chẳng mấy chốc đã không còn thấy bóng dáng
họ nữa.
"Người đàn bà
nhanh nhẹn mặc áo và quay về hiên nhà, giật phắt cái thắt
lưng chàng ngốc đang mân mê. Chàng ta say sưa nâng niu cái của
ấy, giữ rịt không buông và còn định giơ tay đẩy người
đàn bà ra. Nàng cộc cằn xô chàng ngốc một cái với ánh
mắt khinh bỉ, chàng ngốc đành bỏ cuộc, gục đầu xuống
ngồi thu lu. Trong ánh đèn leo lét và quái dị, tôi đã chứng
kiến tất cả. Vừa hay cái chổi trong lò bắt lửa cháy rực
và người đàn bà vội vã ra coi bếp.
Tôi tưởng như
nghe phong thanh tiếng cụ già dắt ngựa, nhưng âm thanh kỳ
dị này dường như đến từ đâu đó bên ngoài vòm trời
của đêm trăng."
20.
"Sau khi cụ già
dắt con ngựa đi khỏi, chúng tôi ăn điểm tâm mấy món vùng
cao: gừng muối chua với ớt, rau luộc, canh miso và nấm, không
phải những thứ xoành xĩnh như cà rốt, dây bầu. Được
một nấu nướng và sửa soạn bởi một người đàn bà xinh
đẹp nên những thức ăn bình thường trở nên thơm ngon. Nàng
nhìn tôi ăn và mỉm cười, cằm tựa lên mu bàn tay còn khuỷu
tay đang đặt lên một cái khay bằng gỗ trên đầu gối. Chàng
Ngốc đang một mình ngoài hiên có vẻ khó chịu nên lật đật
lết cái thân hình tàn phế vào nhà trong nơi chúng tôi đang
ngồi và ngả cái uỵch vào bên cạnh người đàn bà. Anh ta
cứ nhìn lăm lăm vào cái khay của tôi, trỏ trỏ tay và rên
rỉ gì đó.
Người đàn bà
nhiếc: "Làm cái gì thế? Ăn sau cũng được mà. Mình không
thấy nhà ta có khách sao?" Chàng Ngốc mếu máo, cái miệng
méo xệch, lắc đầu. "Sao? Không muốn đợi hả? Thế thì
mình ngồi ăn với hòa thượng nhé. Sư thầy chớ để bụng
anh ta." Nàng nói với tôi. Tôi không nghĩ ngợi gì thêm, lập
tức buông đũa. "Xin cứ tự nhiên. Thí chủ đừng để ý
tôi, tôi không muốn gây phiền hà đâu ạ."
"Có gì mà phiền."
Nàng quay sang phía Chàng Ngốc, bảo: "Mình nếu không muốn
tự biến mình thành trò cười thì chịu khó ăn với tôi sau
vậy." Người đàn bà vô tư nói vậy chứ sau đó nàng bưng
lên cho Chàng Ngốc một khay thức ăn giống hệt của tôi,
cái cách nàng phục vụ chàng ta rất ra dáng một người vợ
đảm nhưng đồng thời dáng vẻ của nàng lại vô cùng đài
các, trang nhã và quý phái.
Chàng Ngốc hướng
ánh mắt ngơ ngáo về đĩa thức ăn, lẩm bẩm: "Đấy cơ.
Cho cái đấy cơ." Người đàn bà nghiêm khắc nhìn anh ta: "Hôm
nào mà mình chẳng ăn, hôm nay nhà ta có khách thì ăn món khác
đã sao."
"Ứ ừ, đi mà!
Đi mà!" Chàng ngốc thút thít, người run lên còn người đàn
bà rõ ràng đang bối rối, tôi cảm thấy tội nghiệp cho tình
cảnh khó xử của nàng.
"Thí chủ, tôi không
biết anh ta đòi hỏi gì nhưng thí chủ hãy chiều anh ta thì
hơn. Thí chủ chu đáo với tôi quá làm cho tôi rất áy náy."
Tôi lịch sự đề nghị. Người đàn bà cố thuyết phục
lần nữa: "Đằng ấy không thích ăn món này sao? Không ngon
à?" Nàng lườm Chàng Ngốc đang rưng rưng nước mắt rồi
đến chỗ cái tủ xập xệ lấy món gì đó bỏ vào bát, để
lên cái khay của anh chàng. "Đây này, ăn đi." Giọng nàng có
vẻ bực dọc nhưng khuôn mặt lại đang mỉm cười.
Tôi vừa quan sát
vừa kinh sợ xen lẫn ngạc nhiên trước món ăn của Chàng
Ngốc, không biết anh ta ăn rắn luộc, khỉ có mang hấp, hay
là món nào đó đỡ ghê gớm hơn như thịt ếch khô chăng?
Trước sự dò xét của tôi, chàng ngốc cầm bát lên, tay kia
nhấc ra một miếng dưa muối khô chẻ dọc to tướng. Chàng
ngốc cạp cạp miếng dưa như người ta ăn bắp vậy.
Trước chàng ngốc,
người đàn bà dường như đã hết cách và nàng liếc trộm
tôi, mặt đỏ ửng lên. Nàng cúi đầu, miệng cắn góc chiếc
khăn phủ trên gối. Những hành động ấy đủ cho thấy nàng
ngượng đến mức độ nào. Có vẻ như món dưa muối vàng
vọt này phù hợp với chàng ngốc hơn cả vì thân hình anh
ta ục ịch, màu da bủng beo y như miếng dưa. Trong phút chốc
chàng ngốc đã ngấu nghiến xong xuôi, mặc dù món ăn đó
có vẻ mặn chát nhưng anh chàng chẳng hề há miệng xin cốc
nước mà chỉ quay đi và thở dốc.
"Tôi thấy hơi đầy
bụng làm sao đó, tôi sẽ dùng bữa sau." Người đàn bà nói,
dọn cả hai cái khay vào mà không buồn động đũa."
21.
"Nàng ngồi buồn
bã một lúc rồi bảo: "Chắc sư thầy đã mệt rồi, sư thầy
có muốn đi ngủ luôn không?"
"Đa tạ tấm lòng
hiếu khách của thí chủ, nhưng tôi không buồn ngủ chút nào.
Hình như tắm xong sức lực của tôi đã hồi lại rồi ạ."
"Con sông ấy nổi
tiếng vì có khả năng hồi phục sinh lực, có thể trị được
bách bệnh. Tôi phát hiện ra rằng những lần làm lụng quá
vất vả chỉ còn da bọc xương, chỉ cần ngâm mình dưới
sông nửa ngày là sẽ hoàn toàn khỏe mạnh như trước. Mùa
đông, tứ bề núi non chìm trong tuyết duy chỉ có chỗ nhà
sư vừa tắm là bốn mùa đều bốc hơi và không bị đóng
băng. Bọn khỉ bị thợ săn sát thương, con chim con cò nào
sảy chân hay những súc vật khác đều tìm đến con sông này
cả. Nếu sư thầy không mệt xin hãy ở lại đây nói chuyện
với tôi một lát cho tôi đỡ cô đơn. Ở nơi thâm sơn cùng
cốc lâu ngày e rằng tôi không còn nhớ phải nói chuyện ra
làm sao nữa, thật là ngại quá. Tuy nhiên, sư thầy buồn ngủ
xin cứ nói, ngôi nhà nghèo khó này không có phòng riêng cho
khách nhưng được cái là không có muỗi. Nghe nói người vùng
cao xuống làng ngủ thấy người dưới xuôi mắc màn thì chẳng
biết chui vào thế nào, bèn xin một cái thang để trèo lên
màn ngủ đấy sư thầy ạ! Vùng này không có chùa chiền,
không có gà trống gáy sáng, không có chó nên sư thầy có
thể ngủ thoải mái không lo bị quấy rầy."
Quay sang chàng ngốc,
nàng tiếp lời: "Anh chàng này được sinh ra và lớn lên ở
đây nên chẳng biết gì về thế giới bên ngoài. Sư thầy
cứ an tâm, anh ta là người tốt, anh ta biết lúc nào nhà có
khách và biết mua vui cho khách tới chơi nữa cơ - ấy, anh
ta còn chưa làm lễ chào sư thầy đã ghé chơi. Mình ơi! -
nàng bảo chàng ngốc - Dạo này mình làm biếng quá nghe!" Nàng
nới tiếp với tôi: "Sư thầy đừng nghĩ là anh ta khờ khạo
không biết gì, anh ta nhận thức được hết đấy."
"Kìa mình, có sư
thầy đến chơi, mình chào sư thầy đi. Sao thế, mình quên
phép lịch sự rồi à?" Nàng đến bên chàng ngốc, ghé mặt
sát vào anh ta và nhìn thật trìu mến, cố gắng khích lệ
anh chàng. Chàng ngốc đặt tay lên tấm chiếu nhưng thay vì
cúi đầu chào thì anh ta đổ gục xuống sàn như một con rối.
"Cám ơn thí chủ!" Tôi gật đầu đáp lại, trong lòng chợt
thấy xót xa.
Chàng ngốc đang
cuộn người úp mặt xuống chiếu chuẩn bị mất thăng bằng,
vật sang một bên thì người đàn bà nhẹ nhàng đỡ anh ta
ngồi dậy. Nàng có vẻ hài lòng với cử chỉ ban nãy của
anh chàng, nói: "Mình làm giỏi lắm." và bảo tôi: "Thực ra
chúng ta nói gì thì anh ấy hiểu cả, nhưng sư thầy thấy
không, căn bệnh của anh ấy không thầy thuốc hay thứ nước
thần nào chữa nổi. Từ ngày bé hai chân nhà tôi đã bị
tê liệt hoàn toàn, không còn cảm giác gì. Sư thầy xem, tôi
đã dạy anh ấy cúi chào nhưng chỉ được đến vậy. Tôi
không sai bảo gì nhà tôi phần vì dạy hoài mà ảnh không
nhớ, phần vì cử động chân tay làm anh ấy đau. Dần dần
anh ấy không nói được và hai tay cũng chẳng làm được việc
gì nữa. Nhưng nhà tôi biết hát đấy sư thầy, anh ấy hát
được hai, ba bài gì đó. Kìa mình, mình hát cho khách quý
nghe đi!"
Chàng ngốc nhìn
người đàn bà rồi lại nhìn tôi, sau đó lắc lắc cái đầu
tỏ ý từ chối."
22.
"Người đàn bà
phải vừa dỗ vừa nịnh chàng ngốc đủ điều anh ta mới
ngoẹo cái cổ sang một bên và hát, tay vẫn đang nghịch cái
rốn:
"Kiso, trên đỉnh
OntakeMùa hè sao vẫn lạnh ghê!
Có manh áo kép
và đôi tất
Tôi tặng cho mình,
mình đừng chê."
(Dịch nghĩa: Ngay
cả mùa hè cũng lạnh/Trên núi Ontake ở Kiso/Hãy để ta tặng
cho em/Bộ kimono kép và đôi tất nữa.)
"Đã bảo sư thầy
là anh ấy hát hay mà." Nàng mỉm cười.
Thật lạ lùng thí
chủ ạ, qua lời kể của tôi thí chủ không thể tưởng tượng
được bài hát của chàng ngốc như thế nào đâu, rõ ràng
là một trời một vực so với dự đoán của tôi. Những đoạn
lên bổng xuống trầm và thanh âm trong trẻo như thế không
thể nào phát ra từ miệng một con người như vậy. Bài hát
có cái gì đó siêu phàm, thoát tục đến nỗi tôi nghĩ lẽ
nào nó được phát ra từ tiền kiếp nào đó của chàng ngốc,
phải băng qua mấy tầng địa ngục mới được cất lên nhờ
một cái ống vô hình trong bụng anh ta.
Tôi ngồi kính cẩn
lắng nghe chàng ngốc hát và khi anh ta kết thúc, tôi vẫn để
hai tay trên đầu gối, chẳng hiểu vì lẽ gì mà không thể
nhìn thẳng vào hai con người trước mặt mình, thấy cổ họng
nghèn nghẹn và đôi mắt rưng rưng. Hình như nàng đã trông
thấy những giọt nước mắt của tôi nên mới hỏi: "Sư thầy
làm sao thế?"
Tôi không thể trả
lời ngay, mãi mới run run đáp lại: "Thí chủ, tôi không sao.
Tôi không dám tò mò chuyện riêng của thí chủ, xin thí chủ
đừng bắt tôi bình phẩm gì về tiếng hát của anh ấy."
Mấy lời tôi nói
được chỉ có thế nhưng rõ ràng người đàn bà này xứng
đáng hưởng một cuộc đời giàu sang quyền quý cùng với
mọi sự xa hoa tao nhã của chốn cung đình. Tuy tôi đã xuất
gia, từ bỏ mối dây ràng buộc với nhân tình thế thái nhưng
vẫn bị dáng vẻ nhu mì, âu yếm của nàng khi đối xử với
chàng ngốc làm cho cảm kích, cảm kích đến nỗi không cầm
được nước mắt. Chắc hẳn đã nhận thấy những tình cảm
nơi tôi nên nàng nói: "Sư thầy quả là người đa cảm, nhân
hậu", vừa nói vừa dõi theo ánh mắt tôi và cái nhìn của
nàng hết sức khó tả, phản ánh một thứ mà tôi chỉ có
thể hiểu là dục vọng. Tôi liếc sang chỗ khác thật nhanh
và nàng cũng vậy.
Nhà sư tiếp tục:
"Ngọn đèn cầy
đã hõm xuống, ánh lửa leo lét. Tôi tự hỏi có phải do chàng
ngốc không, vì anh ta ngáp một cái to đến nỗi như muốn
hút cả ngọn lửa đèn cầy trước mặt vào mồm. Chàng ngốc
ngúng nguẩy khó chịu bảo: "Nệm, ngủ."
"Mình buồn ngủ
rồi à? Có muốn đi nằm luôn không?" Người đàn bà đứng
dậy nhìn quanh quất như thể đầu óc còn đang mông lung về
chuyện khác. Bên ngoài trăng sáng như ban ngày, rọi qua cửa
nẻo trong nhà đều đang mở toang vào phòng trong và chiếu
tỏ màu xanh biếc của hoa tú cầu ngoài vườn.
"Sư thầy đã muốn
nghỉ chưa?" Người đàn bà quay sang hỏi tôi.
"Rồi ạ, nhưng
chỉ sợ làm phiền thí chủ."
"Tôi sẽ đưa nhà
tôi đi ngủ bây giờ, còn sư thầy nếu muốn thức thì cứ
tự nhiên. Phòng này ở trước nhà nhưng mùa hè rất thoáng
mát, sư thầy ở đây sẽ dễ chịu hơn. Vợ chồng tôi sẽ
vào phòng trong ngủ, sư thầy có thể thoải mái ở đây một
mình như ở nhà." Dứt lời nàng nhanh chân bước vào hành
lang, bước nhanh đến nỗi mái tóc búi rung rinh tuột xuống
vai. Một tay đỡ lọn tóc, nàng mở cửa nhìn ra ngoài lẩm
bẩm, "Ban nãy cao hứng chắc là đánh rơi cả lược rồi."
Tôi biết "cao hứng"
ở đây là khoảnh khắc nàng trườn xuống con ngựa ban nãy."
23.
"Đang lắng nghe
câu chuyện của vị hòa thượng trong ngôi nhà trọ giữa đêm
khua ở Tsuruga, tôi bắt gặp tiếng bước chân ngoài hàng lang
nhà dưới. Ai đó đang bước những bước dài khẽ khàng nhưng
giữa đêm hôm khuya khoắt nghe vẫn rất rõ, chắc là tỉnh
dậy đi vệ sinh. Một lúc sau có tiếng mưa rơi lộp độp
kèm tiếng dội nước rửa tay, tôi nhận ra giọng nói ông
chủ nhà: "Ôi, đêm nay tuyết rơi dày đấy."
"Có vẻ như người
lái buôn ở Wakasa mà chúng ta đang mong đã nghỉ đêm ở nơi
khác rồi. Hi vọng ông ta được an giấc." Hòa thượng nói.
"Tiếp đi ạ, sư
thầy kể tiếp đi!" Lúc này tôi đang háo hức với phần sau
câu chuyện mà không muốn bị việc khác làm xao nhãng, bèn
giục vị hòa thượng kể tiếp.
"Và thế là tôi
đã ở trong căn nhà trơ trọi giữa núi rừng, đêm muộn dần,
thí chủ có thể mường tượng ra hoàn cảnh lúc ấy. Tôi
rất mệt nhưng khó lòng chợp mắt giữa một căn nhà hẻo
lánh heo hút như vậy. Đã thế có quá nhiều việc xảy ra
khiến tôi bị kích động và trằn trọc, song khi nằm xuống
và nhắm mắt lại tôi bắt đầu thấy buồn ngủ. Tôi nằm
lơ mơ chờ bình minh.
Ban đầu tôi bắt
gặp mình mong đợi tiếng chuông chùa trong vô thức, nhưng
đợi mãi, đợi mãi mà không thấy gì tôi bắt đầu bồn
chồn, rốt cuộc mới nhớ ra ở gần đây chẳng có ngôi chùa
nào và càng thấm thía cái quạnh hiu, cô độc.
Đêm đã khuya lắm
và tiếng ngáy khò khò của chàng ngốc từ phòng trong đã
thôi không nghe thấy nữa; tôi chợt nhận ra cái gì đó đang
di chuyển bên ngoài nhà. Hình như là tiếng chân động vật
đang ở rất gần, thoạt tiên tôi cố trấn an bản thân rằng
vùng này có nhiều khỉ, ếch, nhưng khốn thay điều đó không
thể giải thích được những tiếng ồn tôi nghe thấy. Lúc
đó, tôi nhận ra cái tiếng be be của con cừu ngay cửa trước.
Đầu tôi quay về
hướng ấy nên tôi có cảm tưởng như nó đang đứng ngay
bên gối vậy, tiếp đến lại có tiếng chim vỗ cánh ngay
dưới khóm hoa tú cầu bên phải cửa nhà. Thế rồi trên mái
có tiếng gì nghe như tiếng của con sóc bay, và một con vật
nặng nề nào đó tiến đến ngôi nhà làm tôi lạnh gáy đang
kêu như tiếng bò kêu. Chưa hết, còn tiếng chân của một
con vật nhanh nhẹn ở xa tiến đến nghe loẹt quẹt như mang
dép rơm vậy. Một đám thú vật liên tiếp vây hãm và tấn
công ngôi nhà. Tổng cộng phải đến hai, ba chục con đang
thở phì phò, vỗ cánh phành phạch như thể cảnh tượng thú
vật bị tra tấn trên những bức bình phong vậy. Dưới ánh
trăng tôi đã thấy bóng hình quái đản của chúng đang múa
may nhảy nhót bên ngoài trong cơn điên loạn nghe như tiếng
lá rụng xào xạc liên hồi trong gió, tôi tự hỏi chúng là
loài yêu tinh ma quỷ nào.
Nhưng điều khủng
khiếp nhất còn chưa dừng lại. Tôi hoàn toàn nín thở khi
nghe tiếng thổn thức não nề vọng ra từ nhà trong mà ban
đầu cứ ngỡ là do người đàn bà gặp ác mộng. Nhưng rồi
nàng lên tiếng, "Nhà ta đêm nay có khách, các ngươi muốn
ta nhắc lại đến lần thứ mấy đây?" Một lúc sau tôi lại
nghe tiếng nàng than: "Đêm nay nhà ta có khách." Và lần thứ
ba, lần này giọng nàng rất trầm, khản đặc như tiến rên:
"Không phải đêm nay, ta xin các ngươi. Ta có khách." Đi kèm
những lời rên rỉ ai oán này tôi nghe thấy cả tiếng nàng
đang trở mình liên tục làm ngôi nhà chao đảo. Bất lực,
tôi ngồi dậy cầm tràng hạt và bắt đầu niệm chú Đà
La Ni [2].
Tôi dồn hết tâm
trí tụng niệm liên hồi, bất chợt gió ngừng thổi và bên
ngoài lại yên tĩnh. Buồng trong của hai vợ chồng cũng im
lặng như tờ."
24.
"Khoảng giữa trưa
tôi đi đến một thác nước gần ngôi làng thì gặp lại
cụ già hôm nọ dắt ngựa đi bán. Khi ấy tôi đã toan từ
bỏ cuộc sống tu hành lang thang khổ hạnh để quay lại ngôi
nhà tiêu điều trơ trọi trên núi, nơi tôi sẽ sống nốt
phần đời còn lại cùng người đàn bà kia.
Thưa thí chủ, phải
thật lòng thật dạ mà nói rằng cái suy nghĩ ấy đã ám ảnh
tâm trí tôi từ lúc cất bước ra đi khỏi căn nhà nọ. Rất
may sáng hôm ấy tôi không chạm trán loài rắn rết hay gặp
phải khu rừng đầy đỉa hút máu nào nhưng đường đi rất
hiểm trở, mồ hôi tôi vã ra như tắm và trong người vô cùng
bức bối đến nỗi tự hỏi cuộc đời tu hành này có nghĩa
lý gì. Tôi liệu có thể sống cuộc đời của một vị chân
tu đến lúc mặc áo cà sa tím, ngồi trong am trụ trì chăng?
Ngay cả khi người ta tôn tôi làm Phật sống, tôn kính sùng
bái tôi đến đâu, trong thâm tâm tôi vẫn là kẻ đã phá
giới và mê đắm nhục dục như những người đàn ông bình
thường khác.
Có lẽ tôi phải
nói rõ cho thí chủ điều đó có nghĩa là gì, cũng như phần
câu chuyện đang bỏ lửng. Thưa thí chủ, đêm hôm ấy sau
khi đưa chàng ngốc vào buồng nằm nghỉ, người đàn bà ấy
đã đến chỗ tôi ngồi bên lò sưởi. Nàng thủ thỉ rằng
ở lại bên nàng nơi có dòng sông thần bí đông ấm hè mát
có phải là tốt hơn nhiều việc làm một hòa thượng lang
thang trong cõi đời đầy rẫy bất trắc, đau thương này hay
không? Chỉ cần tôi đồng ý, thì thí chủ có thể xem như
tôi đã bán linh hồn cho quỷ dữ, nhưng thưa thí chủ, tôi
muốn tự minh oan rằng lúc ấy tôi chỉ thấy bùi ngùi thương
cảm vô hạn cho nàng. Một người đàn bà thui thủi nơi thâm
sơn cùng cốc chẳng có ai bầu bạn ngoài một chàng ngốc
ăn không nên đọi nói không nên lời, có đáng thương không
cơ chứ!
Buổi bình minh khi
từ biệt người đàn bà tôi đã vô cùng xúc động. Nàng
nói nàng rất buồn vì từ nay về sau có lẽ không còn hy vọng
gặp lại tôi, chẳng còn biết trông đợi gì ngoài tuổi già
ở nơi hẻo lánh này. "Mỗi khi bắt gặp con suối với những
cánh anh đào trôi lững lờ trên hành trình của mình mong sư
thầy hãy nhớ đến tôi, vì cảnh ngộ của hoa cũng là cảnh
ngộ của tôi." Khi từ biệt, người đàn bà tuy quyến luyến
nhưng vẫn chu đáo dặn dò tôi men theo con sông để tìm đến
ngôi làng. Nàng nói muốn biết có đi đúng hướng về làng
hay không thì cứ để ý tốc độ dòng chảy, càng nhanh là
càng đến gần thác nước và khi nào gặp thác nước thì
có thể an tâm được rồi. Nàng vừa tiễn tôi vừa ân cần
chỉ dẫn như vậy cho đến khi ngôi nhà đã ra ngoài tầm mắt.
Mặc dù tôi và
nàng không thể nên vợ nên chồng nhưng tôi đã vẽ ra viễn
cảnh về cuộc sống chung: từ sáng đến tối chúng tôi sẽ
chẳng rời nhau nửa bước, chuyện trò bên mâm cơm đạm bạc
và cùng húp canh nấm rừng. Tôi nhóm lửa còn nàng nấu nước,
tôi lượm trái cây rừng đưa nàng bóc vỏ. Tôi và nàng, một
người ngồi trong nhà người kia ở ngoài sân, cười cười
nói nói qua cánh cửa dán giấy bồi. Rồi chúng tôi sẽ lại
cùng ra sông tắm, nàng trút bỏ quần áo để âu yếm tôi
trong vòng tay ấm áp, dịu dàng như những cánh hoa còn tôi
sẽ cảm nhận hương thơm từ hơi thở của nàng trên lưng
mình. Vâng thưa thí chủ, tôi đã từng mơ tưởng như vậy
và sẵn sàng vứt bỏ cuộc đời này để chạy theo giấc
mộng ấy!
Bị những ảo ảnh
này mê hoặc, tôi thẫn thờ nhìn dòng thác cuồn cuộn đang
sôi lên trước mắt. Bây giờ nghĩ lại giây phút ấy tôi
vẫn còn toát mồ hôi lạnh. Cả thể chất lẫn tinh thần
của tôi đều ở tình trạng thảm hại sau một buổi sáng
trèo đèo lội suối, và mặc dầu cảm thấy may mắn khi cuối
cùng đã đến gần hơn với môi trường cộng đồng, tôi
không sung sướng gì với ý nghĩ quay trở lại thế giới văn
minh. Ở trạm dừng chân cho khách qua đường tôi có thể mong
đợi gì ngoài một chén trà nhạt nhẽo được bưng ra bởi
một bà già hôi miệng. Tôi bèn ngồi trên tảng đá, để
cho đầu óc rối bời giữa tình cảm và lý trí và nhìn đăm
đăm vào thác nước mà sau này tôi mới biết người ta gọi
tên là "Thác Vợ Chồng."
Mỏm đá to lớn
màu đen án ngữ giữa con sông, nom như đầu của một con cá
mập khổng lồ rẽ nước ra làm hai ngành thác. Ngọn thác
không cao lắm, áng chừng năm hay sáu mét nhưng dòng nước
trải rộng như hoa văn thổ cẩm xanh trên nền trắng và dòng
sông tiếp nối dưới chân thác cuồn cuộn chảy như một
mũi tên xuyên qua làng. Trong hai ngành thách bị chia cắt mởi
mỏm đá, một ngành rộng hơn đổ thẳng xuống trong như thủy
tinh còn ngành kia nhỏ hẹp, khúc khuỷu uốn quanh rất nhiều
sỏi đá làm mạch nước gián đoạn và tung bọt trắng xóa
như một bức rèm châu phủ lên vách núi."
25.
"Ngành nhỏ hơn,
Thác Vợ, dường như đang vật vã quằn quại vì đau khổ.
Dòng nước mỏng manh yếu ớt phát ra âm thanh tựa tiếng kêu
khóc của một người đàn bà ghen tuông cùng cực đang vươn
ra nhờ một tia nước nhỏ vượt qua mỏm đá để chạm đến
bên Thác Chồng song một tảng đá vững chãi đã chia cắt
lứa đôi đến tận chân thác nơi bọt nước tung trắng xóa.
Phải mất một đoạn dài thì hai ngành mới nhập làm một.
Người
đàn bà dịu dàng xòe tay
vuốt
ve cái bờm ngựa
Thác Chồng trái
ngược với Thác Vợ, hùng dũng và uy nghiêm với dòng nước
xiết đủ để nghiền nát sỏi đá mà đi thẳng vào lòng
đất. Một nỗi buồn sâu sắc, mênh mang tràn ngập trong lòng
khi tôi ngắm nhìn con sông đổ xuống vách núi tạo thành hai
ngọn thác này. Đường nét Thác Vợ như run rẩy trong nỗi
bi thương như hình ảnh một người đàn bà xinh đẹp nép
vào lòng một người đàn ông mà khóc. Đang đứng an toàn
trên bờ song những gì trước mắt khiến tôi không thể kìm
lòng và ký ức về cái đêm hôm trước đã tắm cùng nàng
ở phía thượng nguồn con sông khiến đôi chân tôi run rẩy.
Có lẽ do óc tưởng tượng đi quá xa nhưng trong một khoảnh
khắc tôi đã thấy Thác Vợ biến thành người đàn bà ám
ảnh tâm trí mình bị nuốt chửng bởi màn sương, bị xuyên
thủng bởi ghềnh đá lởm chởm và nát vụn, rơi lả tả
như những cánh hoa anh đào rồi lại hiện ra bồng bềnh từ
gương mặt, cổ, ngực, cánh tay, đôi chân... để tiếp tục
tan biến và vụn vỡ. Cứ thế, sự hiện diện và tiêu tan
của nàng làm tôi không chịu thấu, suýt nữa đã buông mình
xuống dòng nước để ôm thật chặt lấy Thác Vợ.
Cũng may tôi kịp
bừng tỉnh, ý thức sự hiện diện quyền uy của Thác Chồng
bên cạnh đang tuôn nước xối xả làm rung chuyển mặt đất
và vang vọng khắp núi rừng. Song tôi tự hỏi nếu Chồng
thực sự oai nghiêm mạnh mẽ thì tại sao, tại sao anh ta không
thể cứu được Vợ, không thể làm cho nàng bớt khổ sở?
Thay vì nhảy xuống thác quyên sinh, tôi quyết định quay lại
ngôi nhà trên núi song bước chân vẫn lưỡng lự vì tự đáy
lòng hiểu rằng động cơ của mình không trong sạch. Tôi rắp
tâm trở lại để nhìn mặt nàng, nghe giọng nói của nàng,
để được trải nệm nằm ngủ bên cạnh tấm nệm của vợ
chồng nàng thay vì tiếp tục cuộc đời tu hành khổ hạnh.
Đang ngồi trên tảng đá, tôi bật dậy dợm theo dấu chân
quay về thì ai đó vỗ vào lưng bảo: "Ơ kìa, không phải là
vị hòa thượng đấy à?"
Tôi mải mơ màng
nhưng nói đúng ra kiểu như bị bắt quả tang nên giật thót,
cũng may đó là lão già đêm hôm trước chứ không phải tên
đầu trâu mặt ngựa nào Diêm Vương cử đến. Lão đã bán
con ngựa thì phải, nom có vẻ phấn khởi, trên vai vác một
cái túi nhỏ còn tay cầm một sợi dây xỏ vào miệng con cá
chép tươi sống dài chừng hai thước vảy vàng lấp lánh,
đuôi búng tanh tách. Tôi ngỡ ngàng chẳng biết nói gì trước
lão già mà chỉ đứng thẫn thờ trong khi đối phương nhìn
tôi từ đầu đến chân. Tôi có cảm tưởng ông già đã đi
guốc trong bụng mình nên mới nhe răng cười một cách kém
thân thiện:
"Hòa thượng làm
gì ở đây vậy? Cứ tưởng người tu hành thì phải dấn
thân chịu khổ, ai đời lại ngồi vắt vẻo nhàn nhã bên
bờ sông thế này? Trời đâu đến nỗi nóng quá, hòa thượng
mới đi được có năm dặm đường từ nơi tối qua vừa nghỉ
đêm thôi ạ, nếu chịu khó thì giờ này đáng lý ra hòa thượng
đã về đến làng, ngồi tụng kinh dưới tượng Địa Tạng
bồ tát rồi. Ngươi đang mơ tưởng đến cô chủ ta trên núi
là cái chắc. Hòa thượng ơi đừng hòng qua mặt lão đây,
ta tuy già nua, mắt mũi kèm nhèm nhưng vẫn phân biệt được
trắng đen nhé. Nói cho mà nghe, nếu ngươi giống như những
gã đàn ông tầm thường khác thì sau khi được cô ta mơn
trớn dưới sông đã không còn giữ được hình dạng con người.
Ối giời, ngươi sẽ biến thành trâu bò, dơi chuột, thành
cầm thú, suốt đời nhảy nhót chuyền cành. Lúc ngươi từ
dưới sông về đây ta đã hết sức ngạc nhiên vì ngươi
vẫn còn là người, rõ ràng ngươi là kẻ có ý chí kiên định,
điều đó đã cứu ngươi."
"Chắc tiểu hòa
thượng còn nhớ con ngựa ta đem bán hôm qua. Trên đường
ngươi hẳn gặp một tên buôn thuốc đến từ Toyama. Tên này
háo sắc nên ngay lập tức bị biến thành ngựa, ta đem hắn
ra chợ bán lấy tiền, đem tiền đi mua con cá chép này. Đây
là món mà cô chủ yêu thích. Ngạc nhiên lắm à, thế ngươi
nghĩ cô ta là gì?"
Tôi buột miệng
ngắt lời nhà sư: "Thế cô ta là gì?"
26.
Hòa thượng gật
đầu như đã hiểu rõ suy nghĩ của tôi và thì thầm: "Thí
chủ hỏi người đàn bà ấy là gì, xin lắng nghe tôi giải
thích. Hóa ra tôi đã được nghe về người đàn bà trên núi
trước khi gặp nàng. Thí chủ còn nhớ quãng đường lầy
lội tôi đi qua trước khi băng đèo, nơi tôi gặp một nông
dân kể câu chuyện về ngôi nhà trên cây của một thầy thuốc
từng sinh sống trên ấy không? Người đàn bà nọ chính là
con gái ông thầy thuốc."
"Ngày xửa ngày
xưa ở huyện Hida này không có chuyện kì lạ nào xảy ra,
ngoại trừ sự ra đời của một thiếu nữ đẹp như ngọc
ấy là con gái của ông thầy. Bà vợ ông ta má bánh đúc,
mắt hí mũi tẹt, hai vú chảy xệ, ai cũng lấy làm thắc mắc
tại sao đứa trẻ được nuôi bằng dòng sữa chảy ra từ
bầu ngực gớm ghiếc ấy lại lớn lên thành một tuyệt sắc
mỹ nhân. Cô bé khả ái đến nỗi người ta đồn đại hết
sức ly kỳ rằng nàng chính là hiện thân của những người
con gái nghiêng nước nghiêng thành trong truyền thuyết, khiến
vị thần nào đó bắn một mũi tên trắng lên mái nhà làm
điềm báo là ngài muốn nàng phải được dâng cho ngài, hay
một vương tôn săn bắn ở miền quê bắt gặp nàng bèn đưa
nàng về làm công nương.
Ông thầy thuốc
râu kẽm má hóp là loại người kiêu ngạo và ưa làm bộ
nhưng cũng biết tí chút về nhãn khoa vì người ta hay gọi
ông này đến chữa cho những nông dân bị bui hay vỏ trấu
bay vào mắt trong mùa gặt. Có điều về khoa nội ông ta mù
tịt, còn khoa ngoại thì bạ thương tích gì ông thầy cũng
chỉ biết bôi vào tí thuốc mỡ được chế bằng dầu trên
tóc mình pha với nước. Phần vì trên đời có những người
cả tin vô điều kiện; phần vì bệnh nhân của ông ta, ai
còn toàn mạng thế nào đấy lại phục hồi; cũng phần vì
quanh vùng chả còn ông thầy thuốc nào khác nên tất yếu
ông ta trở thành một vị danh y.
Năm cô con gái lên
mười sáu, mười bảy tuổi, ở độ tuổi tươi đẹp nhất
của người thiếu nữ, thì ai nấy bất kể là mê tín hay
không cũng đều nườm nượp kéo đến nhà ông thầy, nhất
trí tôn nàng lên làm Quan Âm Bồ Tát đầu thai xuống nhân
gian cứu khổ cứu nạn. Từ đó, ngày ngày đủ loại bệnh
nhân đến gặp cô con gái mà gặp rồi thì ai cũng phải mê.
Người nào bị đau tay cô chỉ cần hỏi han, lấy ngón tay
xoa mấy cái là hết đau. Một thanh niên tên Jisaku bị thấp
khớp nặng vừa được nàng chạm vào một cái đã khỏi,
người khác uống nước bị ngộ độc chỉ cần nàng xoa bụng
là mạnh khỏe bình thường. Ban đầu cô gái chỉ chữa được
cho nam thanh niên, dần dần phép lạ của nàng hiệu nghiệm
với các ông già và cuối cùng là phụ nữ. Nếu không làm
cho người bệnh hết đau thì nàng cũng phần nào khiến họ
đỡ đau. Ông lang băm thường xỉa mũi dao rỉ sét vào chỗ
bị phỏng của người bệnh làm họ la toáng nhưng chỉ cần
được cô con gái áp ngực vào lưng và ôm lấy vai thì họ
sẽ chịu đau đớn dễ dàng hơn.
Lần nọ có một
đàn ong bắp cày làm tổ trên cây sơn trà cổ thụ trước
lùm cây bao quanh nhà ông thầy thuốc. Có cậu nọ tên Kumazo
tuổi ngoài hai mươi, ở nhà ông thầy học việc kiêm luôn
chức người ở, làm hết những việc từ chế thuốc đến
lau nhà, đào khoai, kéo xe. Kumazo ăn trộm trong đống thuốc
của ông thầy một lọ axit clohidirc trộn nước đường, giấu
vào ngăn tủ đựng lễ phục vì biết ông thầy mình vốn
là loại người bần tiện, nếu phát hiện chai thuốc bị
mất cắp thế nào cũng cho mình một trận. Tuy nhiên, vì ghiền
uống thứ hỗn hợp ấy nên cậu ta không kìm được thói
ăn cắp vặt. Một hôm trong lúc dọn vườn cho thầy Kumazo
phát hiện ra tổ ong bắp cày.
Cậu chạy vào hiên
nhà, bảo cô chủ ra xem cậu vừa phát hiện được cái này
hay lắm. Kumazo nói chỉ cần cô gái nắm tay cậu một lúc,
cậu sẵn sàng cho cả bàn tay vào tổ ong cho chúng bâu vào
vì ngay cả khi bị đốt thì phép màu từ bàn tay cô sẽ giúp
cậu không cảm thấy đau. Bằng không nếu cậu dùng chổi
tre đập tổ ong, nhất định chúng sẽ bay tứ tung và bu lấy
cả người cậu đốt cho tới chết. Trước chàng anh hùng
rơm, cô gái chỉ mỉm cười nhưng rốt cuộc cô cũng chịu
nắm tay cậu sau một hồi năn nỉ. Kumazo tiến đến tổ ong
đang vo ve đầy giận dữ, một lúc sau quay lại hiên nhà với
bảy hay tám con ong đậu trên tay trái còn đang đập cánh,
rung chân và bò loanh quanh những ngón tay đang nắm chặt. Kết
quả của sự vụ này là tiếng tăm cô nàng vang dội khắp
làng trên xóm dưới, thậm chí còn có lời đồn rằng bàn
tay kỳ diệu của nàng có thể bảo vệ được người ta khỏi
vết thương do súng đạn.
Từ đấy về sau
ai cũng công nhận phép thuật của cô con gái và suốt chừng
ấy năm xa lánh cuộc đời, sống với chàng ngốc trên núi,
cô ta đã tu luyện nội công đạt mức thượng thừa. Ban đầu
cô ta phải áp cả thân mình vào nạn nhân để làm phép, sau
đó là dùng chân, dùng tay còn bây giờ thì một hơi thở của
cô ta cũng đủ mê hoặc những du khách lạc đường, biến
họ thành bất cứ thứ gì cô ta muốn."
Đó là câu chuyện
cụ già đã kể cho tôi bên thác nước. "Tiểu hòa thượng,
ngươi hẳn đã thấy bọn khỉ quanh nhà và đám cóc nhái,
rắn, thỏ, dơi trên đường đi. Bọn thú vật ấy chính là
những kẻ lai vãng bị cô chủ quyến rũ, đưa đi tắm sông
rồi làm phép biến ra."
Cụ già nói đến
đây tôi nhớ lại con cóc bám theo người đàn bà cũng như
con khỉ và con dơi đã nhảy lên người nàng, cả bọn thú
vật gớm ghiếc đã công kích ngôi nhà trong cái đêm kinh hãi
vừa rồi. Cuối cùng tôi đã hiểu ra sự thật phía sau sự
lạ lùng đó. Ông cụ kể tiếp rằng, chàng ngốc mà người
đàn bà lấy làm chồng kia từng là bệnh nhân của ông thầy
thuốc vào thời điểm danh tiếng của người con gái huy hoàng
nhất. Lúc ấy chàng ngốc còn nhỏ, được người anh trai
tóc dài cõng từ trên núi xuống cùng ông bố quê mùa để
chữa một cục u ở chân làm cản trở việc đi đứng.
Ông lang băm bố
trí cho gia đình họ một gian phòng để chăm con trong thời
gian chữa trị nhưng khối u diễn biến phức tạp, phải rút
đi một lượng máu đáng kể. Vì còn ít tuổi, thể trạng
phải có sự chuẩn bị trước khi đưa lên bàn mổ nên cậu
bé được bồi dưỡng mỗi ngày ba quả trứng sống và đắp
một ít thuốc lên chỗ u để giảm đau. Mỗi lần lớp thuốc
khô bị bóc ra thường dính luôn cả da thịt cậu bé nên cậu
khóc rất dữ, ông anh và ông bố đều không tài nào dỗ được
nhưng chỉ cần người gỡ thuốc là cô con gái thì cậu tuyệt
đối không khóc.
Thật ra ông thầy
chẳng biết phải chữa trị cho cậu bé thế nào, cứ lần
lữa nói thằng bé còn yếu quá không thể mổ được hết
ngày này sang ngày khác. Sau ba hôm ông bố quay khúm núm dập
đầu xuống sàn cáo từ quay về ngôi nhà trên núi, để cậu
lớn ở lại trông em. Đến lúc xỏ giày mà ông vẫn cứ cúi
đầu đến chạm cả vào sàn đất, năn nỉ lương y hãy làm
tất cả mọi việc có thể để cứu mạng cậu con trai thứ
của tôi. Một tuần lại trôi qua không có chuyển biến khả
quan nào, lần này cậu anh trai được cắt cử cử ở lại
chăm sóc em nước mắt ngắn dài giải thích với cậu em trai
bệnh tật là mùa gặt đã tới rồi, nhà mình bận lắm, trời
mấy bữa nay âm u như sắp mưa mà nếu không thu hoạch trước
khi mua xuống thì thóc lúa sẽ hỏng hết, anh lại là đứa
gặt giỏi nhất nhà nên anh cũng phải về thôi.Từ lúc ấy
cậu bé bị bỏ lại một mình. Trên sổ hộ tịch thì cậu
mới lên sáu nhưng chính ra cậu đã mười một tuổi. Ông
bà cụ ở nhà tính rằng nếu thằng bé lên hai mươi tuổi
lúc họ đã ngoài sáu mươi thì sẽ không bị bắt đi lính,
thành thử cứ đợi năm năm hãng đi đăng ký khai sinh. Cậu
bé đầu óc cũng sáng sủa thông minh, ngặt nỗi lớn lên ở
nơi rừng rú hoang vu nên chẳng hiểu người dưới xuôi nói
gì. Ở nhà ông thầy thuốc mỗi ngày cậu đều ăn ba quả
trứng sống, tưởng là làm thế sẽ giúp cơ thể sinh sản
thêm máu bù cho chỗ máu sẽ mất khi phẫu thuật. Thỉnh thoảng
cậu cũng khóc nhưng trước đó bị anh trai la rầy nên giờ
chỉ dám sụt sịt chứ không òa lên. Theo yêu cầu của cô
con gái, cậu được dùng bữa cùng lúc với gia đình ông thầy
thuốc nhưng lại chỉ thích rúc vào xó nhà cạp dưa muối.
Cái đêm hôm trước
ngày phẫu thuật cuối cùng cũng đến, ngôi nhà ông thầy
thuốc chìm trong yên lặng. Cô con gái đi vệ sinh thì bắt
gặp tiếng khóc thút thít của cậu bé, thấy mủi lòng, bèn
vào giường ôm cậu đi ngủ. Sáng hôm sau ca mổ bắt đầu,
cô gái như thường lệ ngồi sau lưng bệnh nhân và ghì cậu
bé vào ngực mình. Mặc dù mồ hôi chảy ròng ròng nhưng khả
năng chịu đựng của cậu quả thực đáng ngưỡng mộ - có
điều ông thầy thuốc đã lỡ tay thế nào mà máu tuôn xối
xả không sao cầm nổi, thần sắc cậu bé bắt đầu tái nhợt,
khéo phen này không giữ nổi tính mạng. Ông thầy thuốc cũng
thất sắc, lo như ngồi trên đống lửa song sau ba ngày phép
màu nào đó xảy ra, máu đã cầm được và mạng của bệnh
nhân cũng vì thế mà giữ được. Chỉ có điều đôi chân
cậu bé từ đây trở thành tàn phế.
Cậu bé chỉ có
thể lết đi và nhìn vào đôi chân vô dụng của mình với
ánh mắt thất vọng tràn trề. Mỗi lần ngồi khóc, trông
cậu như con châu chấu tha cái chân cụt trong mồm, chẳng ai
có thể cầm lòng trước vẻ mặt đáng thương vô cùng của
cậu. Ông thầy lấy làm giận dữ, e tiếng khóc ai oán của
cậu bé lan ra thì uy tín của mình gầy dựng sẽ đổ bể
nhưng cô con gái vì lòng thương người vẫn ôm lấy cậu,
để cậu gục vào ngực mình. Trước cảnh ấy, ông lương
y dỏm – cha cô gái chỉ biết bất lực mà bó tay, khịt mũi
trong sự bất bình.
Cha của cậu bé
rốt cuộc đã quay lại đón con, coi tình trạng thể chất
của cậu như số trời đã định mà không hề oán trách nửa
lời song cậu bé một mực không muốn xa cô con gái ông thầy
thuốc. Ông bố nhân việc đó bèn sắp xếp cho con đi cùng
gia đình cậu bé về nhà, xem như một cách tạ tội với gia
quyến người bệnh sau ca phẫu thuật thất bại. Cô con gái
chỉ có ý định sang bên ấy một hay hai hôm nhưng gia đình
cậu bé cứ van nài ỉ ôi thành thử ở lại tới ngày thứ
năm thì mưa to chưa từng thấy, cứ như ông trời tuôn nguyên
một dòng thác xuống. Ở trong nhà mà vẫn phải mặc áo tơi
vì mái tranh dột nát không chống đỡ nổi và sửa chữa là
chuyện không tưởng. Chẳng ai dám đi đâu và muốn biết hàng
xóm quanh mình còn sống hay đã chết thì chỉ có cách gọi
nhau thật to. Có lẽ mưa của tám trăm năm đã được tích
tụ vào tám ngày, để đến đêm ngày thứ chín một cơn cuồng
phong đã cuốn sạch và nhấn chìm tất cả trong bùn.
Vô tình mà những
người duy nhất còn sống sót sau trận lụt kinh hoàng chỉ
có cô con gái, cậu bé và một cụ già ngẫu nhiên có mặt
cùng họ. Gia đình ông thầy thuốc đã bỏ mạng ở chân núi.
Người ở vùng lân cận kháo nhau rằng sự ra đời của một
tuyệt sắc giai nhân ở nơi hẻo lánh ấy chính là điềm báo
cho biến cố to lớn này. Cô gái không chốn nương thân và
cậu bé tàn phế côi cút rốt cuộc cùng nhau sống đời cô
độc trên núi từ khi ta biết đến họ cho tới hôm nay, tính
ra cô chủ ta đã chăm sóc chàng ngốc được mười ba năm
ròng kể từ trận lụt."
Câu chuyện của
cụ già đến đây là hết, cụ nở nụ cười thiện ý nham
nhở và gớm ghiếc: "Tiểu hòa thượng nghe xong chắc hẳn
rất bùi ngùi cho thân phận người đàn bà ấy, muốn được
đỡ đần cô ta những việc như bổ củi, gánh nước rồi
lại tự huyễn hoặc bản thân rằng điều đó xuất phát
tính thương người, lòng trắc ẩn nhưng kỳ thực động cơ
của ngươi là nhục dục không hơn không kém. Ta biết ngươi
đang có ý đồ quay về ngọn núi nhưng ta cảnh báo ngươi:
Cô chủ ta có thể không màng thế sự mà an phận làm vợ
chàng ngốc nhưng cô ta cũng có cách tiêu khiển để bù lại
chỗ thiệt thòi ấy là hễ gặp gã đàn ông nào vừa mắt
thì phải quyến rũ bằng được. Một khi đã chán chê, cô
ta sẽ biến hắn thành cầm thú. Con suối trên núi sinh ra sau
trận lũ kia chính là món quà trời ban cho cô ta, và con sông
thần kỳ nọ tiếp sức cho cô ta trong việc quyến rũ đàn
ông - kỳ thực ngoài ngươi ra thì trước nay chưa hề có kẻ
nào thoát khỏi nanh vuốt cô ả. Ngươi là người đầu tiên
đó!"
"Hòa thượng biết
đấy, luyện công chẳng phải việc thoải mái dễ dàng, có
những lúc cô chủ ta đầu bù tóc rối, mặt mày xanh xao tiều
tụy nhưng hễ xuống sông tắm là lại xinh đẹp mơn mởn
như xưa. Cô ta chỉ cần vẫy tay là gọi được cá, nháy mắt
là quả trên cây rụng vào lòng, phẩy tay áo thì mưa như trút
nước, nhíu cặp mày thì gió bão nổi lên. Bản chất cô chủ
là ham mê nhục dục vô độ và đặc biệt ưa thích những
chàng trai trẻ, chắc hẳn ngươi đã nghe cô ta tỉ tê mấy
lời ngọt ngào tình tứ nhưng kỳ thực một khi cô chủ đã
thỏa mãn thì tai ngươi sẽ vẫy, đuôi ngươi sẽ mọc, hai
tay chạm đất, than ôi, thành súc vật lúc nào không hay. Tiểu
hòa thượng, ngươi có thể tưởng tượng ra cảnh cô chủ
ta đánh chén con cá này, ngồi xoạc cẳng dạng háng mà uống
máu nó, ái chà, chân tướng của cô ả đích thị là yêu
quái hiện hình! Thôi, hòa thượng biết điều thì cuốn gói
đi khỏi đây, đừng có mê gái mà hão huyền ảo tưởng nữa,
giữ được hình dạng này là tốt phước lắm đấy. Ngươi
xem, cô chủ ta dù gì cũng động lòng chiếu cố cho ngươi.
Trời đã phù hộ ngươi, ngươi còn trẻ, phải chuyên tâm
vào việc tu hành." Nói xong cụ già vỗ mạnh vào lưng tôi
rồi tiến về con đừng lên núi với con cá lủng lẳng trên
tay, không hề ngoảnh lại.
Tôi nhìn theo bóng
ông cụ nhỏ dần và xa khuất vào sau rặng núi chút vót, vừa
hay trời nổi giông, sấm chớp giật đùng đùng từ phía đỉnh
núi nơi cụ già đang hướng đến. Tiếng sấm rền vang, át
cả âm thanh của thác nước nơi tôi đang đứng. Tôi bất
chợt tỉnh ngộ, hướng về phía cụ già lạy một lạy để
thể hiện lòng biết ơn lời dạy bảo ban nãy và nhét cây
gậy vào dưới tay áo. Kéo sụp mũ để che chắn cơn bão sắp
kéo đến, tôi nhanh chân tiến về phía đường cái. Về đến
làng, tôi thấy rặng núi đã bị che lấp bởi một màn mưa
dày đặc. Chắc hẳn con cá chép dành cho người đàn bà mà
trong tay ông cụ gặp cơn mưa lớn như thế vẫn còn sống
và giãy dụa được cho đến khi cụ về nhà."
Nhà sư từ núi
Koya kể chuyện đến đây là hết, không rút ra bài học luân
lý gì nhưng sáng hôm sau lúc chúng tôi từ biệt nhau mỗi người
một ngã, tôi đứng trông ông đi về phía những ngọn núi
tuyết phủ trắng xóa và hình dáng ông cũng nhòa theo cơn mưa
tuyết. Tôi có cảm tưởng rằng ông đã tan biến vào những
đám mây.
HẾT
Nam
Tử
|