Mori Ôgai
ở tuổi trung niên
Dẫn Nhập:
Đây là một truyện ngắn
mà Mori Ôgai viết vào tháng 1 năm 1911 nghĩa là vào giai
đoạn giữa của một văn nghiệp bắt đầu khi ông du học
trở về cho đến ngày qua đời (1889-1922). Truyện có
một đoạn mở đầu mang tính cách kinh dị nhưng tác
giả đã biết lái qua một bên để đưa ra kết luận
hợp lý.
Ở đây, Ôgai mượn một
câu chuyện nhỏ không biết thực hay hư để trình bày
nhiều ý kiến riêng tư qua hình thức đối thoại, về
sự mê tín, về vai trò của y học, về tâm lý của người
phụ nữ tân học, về quan hệ mẹ chồng nàng dâu...trong
bối cảnh thời Minh Trị Duy Tân. Ý kiến của ông có
cái nay đã lạc hậu, cũng có cái hãy còn hợp thời
nhưng nói chung, ông vẫn viết với tư thế không dấn
thân của một "quan sát viên đứng bên lề" hay kẻ bàng
quan (bôkansha).
Nhà văn Higashi Masao (xem thư
mục tham khảo) – khi bình luận về ông – có nhắc đến
sự "dồn nén tình dục" của tác giả tiềm ẩn trong
tiểu phẩm này. Riêng người dịch thì chỉ thấy đôi
chút tình cảm "thù ghét đàn bà" (mysogyny) của Ôgai đã
len vào trong tác phẩm và có lẽ nó đã bắt nguồn
từ cuộc hôn nhân bất hạnh với Akamatsu Toshiko, bà vợ
đầu, đã dẫn tới ly hôn trong đời ông.
Văn Mori Ôgai khó đọc. Một
lần nữa, ông đã chứng minh rằng mình là "nhà văn
của những nhà văn" chứ không phải "nhà văn của đại
chúng độc giả" như Natsume Sôseki.
* * *
Đêm hè ngắn, trời chóng sáng
khiến tôi bực bội vì không hiểu tại sao mình đến
trọ trong ngôi nhà đầy tiếng động như thế này , lại
cứ phải xua đuổi mấy con muỗi không ngừng vo ve bên
má. Mới chợt nhận ra là ở cái hành lang hẹp có
che mái đi sang gian thứ hai, có một khu vườn nhỏ nằm
ngay bên trong, nơi đó sắp đầy những đống đá cũng
như trồng đủ loại cây cỏ.
Tôi mới đặt sát cạnh tấm
nệm con mình đang ngồi một cái thố đất nung đốt
hương xông muỗi.Từ lỗ khoét ra ở bên trên, một làn
khói xanh bốc lên từ từ và tỏa thành những vòng
tròn, luẩn quẩn bên trong phía hàng hiên vì nơi đây
không có gió. Dù được che chắn kỹ càng như vậy, lũ
muỗi vẫn tiếp tục tìm đến vo ve bên mặt tôi. Nhân
là trong bữa cơm chiều, tôi có uống hai ba chung sake hạng
tồi nên không hiểu có phải mùi men nồng trong hơi thở
của mình đã gọi đàn muỗi đến hay không. Đáng lẽ
tôi không nên uống nhưng vì thấy khô cổ, đã nhấp
một chút và bây giờ có hơi hối.
Khi được đưa vào đây, tôi
phải đi ngang qua nhiều phòng ốc và nghiệm ra ra rằng
nơi đây phải là nhà một gia đình cố cựu. Xuyên qua
những gian phòng của ngôi nhà lớn không mấy ai ở này
bỗng vọng đến bên tai tôi tiếng léo nhéo không đứt
đoạn của một người đàn bà nào đó.
Tốc độ nói chuyện của
bà ấy nhanh đến khiếp làm tôi không phân biệt được
câu chữ. Chỉ có một chỗ mà tôi nghe được rành rọt
là hư tự nii ở cuối câu, đặc điểm của phương
ngữ vùng này. Nó là bộ phận duy nhất tách rời
được chuỗi âm thanh đều đặn ấy. Nii là tiếng
nhấn giống như nêê mà người dân vùng Tôkyô dùng
để chấm câu. Phải thưa ngay là lúc đó tôi đang ở
trong ngôi nhà trạm trên một tuyến đường núi vùng
Shinshuu (Nagano).
Trong phút chốc, tôi đã lắng
tai để chực trả lời nhưng không còn nghe thấy gì nữa.
Có lẽ người đàn bà ấy đang lảm nhảm một mình.
Khi đón tôi tới, người quản
gia lớn tuổi đã báo trước khi xin lỗi: "Trong nhà có
người ốm, chắc sẽ làm phiền ông". Thế nhưng tôi đâu
ngờ người ốm đó lại là một người nói dai không
mỏi mồm như thế.
Chả lẽ bà ta điên?
Tôi không hiểu bà ấy nói
gì nhưng nếu nghe giọng, có vẻ bà đang van vỉ điều
gì đó với ai.
Có tiếng đồng hồ treo tường
gióng lên từ xa. Tôi móc cái đồng hồ quả quýt của
mình ra và kiểm tra xem. Đúng là đã 10 giờ tối.
Khu vườn có ánh trăng soi.
Đó là một thứ ánh sáng đục, xanh xao và huyền ảo.
Cơn mưa tôi phải hứng khi qua đèo ngày hôm trước nay
đã được mặt trời ban ngày làm cho khô se nên đường
sá rất tốt tuy ở đây, lớp rêu trong khu vườn nhỏ
vẫn còn ẩm ướt.
"Chỗ này có mát hơn một
tí!". Người quản gia tháp tùng tôi thăm nhà vào đầu
hôm đã nói như thế về khu vườn và lúc ấy tôi nhận
ra có một chú cóc đang ngồi bất động, lâu lâu lại
há miệng để đớp mấy con muỗi đáng ghét. Chợt
nhớ đến chuyện đó, tôi đưa mắt nhìn về phía sau
cái hõm đá chứa nước rửa tay thì không còn thấy
gì cả.
Gian phòng 8 chiếu nhìn ra cái
hành lang lợp mái mà tôi đang ở, có một khám thờ
sơn mài màu đen nằm trong hốc tường, được trang trí
bằng tranh sơn thủy kiểu bunjinga (văn nhân họa) [1]
nhưng đã sẫm màu. Trên cánh cửa cuốn đằng trước
và hoàn toàn sập kín, có thấy chép một bài thơ
Đỗ Thiếu Lăng (Đỗ Phủ) bằng đại tự với nét bút
rắn rỏi.
Tôi cảm thấy như có tiếng
động bên tai và ngoảnh lại nhìn về phía sâu cuối
căn phòng. Dưới ánh sáng vàng vọt của cái đèn đế
bằng tre, tôi đọc được mấy chữ:"Hòa Khí Nhật Dung
Dung" (Ngày ngày thanh thản bình an). Lúc đó, người quản
gia mở cánh cửa kéo để vào phòng. Ông mặc trên người
một cái hakama (quần rộng, thẳng nếp kiểu Nhật)
và furukatabira (kimono kiểu xưa).
-Tôi đã trải đệm làm giường
cho ông đằng đó rồi. Khi nào ông muốn nghỉ thì cứ
sang đó nghỉ ạ.
-Tốt quá. Tôi chưa đi nằm
ngay đâu. Tôi thấy giọng ông không phải của địa phương
này?
-Vâng, đúng. Hồi còn trẻ,
tôi có lên Tôkyô học nghề cho nên giọng nói của tôi
hơi đổi.
Ông vừa trả lời tôi, vừa
đưa tay gãi cái trán hói.
Sự yên lặng dần dần trùm
lên căn phòng nhưng lại làm cho tôi nghe rõ hơn cái giọng
nheo nhéo của người đàn bà. Thấy tôi tuy không cố
tình mà vẫn phải vểnh tai lên, người lão bộc mới
phân bua:
-Tôi thật không biết nói
sao. Để ông bị quấy rầy quá thể.
Cách diễn tả và thái độ
của ông không phải đãi bôi: ông có bối rối thật sự.
Nhưng điều đó, ngược lại, đã làm tôi ngượng nghịu.Tuy
vậy, càng nghe tiếng nói của người đàn bà kia, tôi
càng thấy bên trong những lời than vãn ấy có cái gì
kỳ lạ. Thế rồi không ngại mình bị xem là indiscret [2],
tôi quyết định xin ông ấy cho biết người đàn bà
đó là ai.
Tuy vậy, ông quản gia không
biết gì về cái quyết định đang nẩy ra trong đầu
của tôi nên chống bàn tay phải lên mặt chiếu để đứng
dậy. Rồi quay mặt về phía tôi, ông lên tiếng:
-Ông có cần gì đặc biệt
không ạ?
-Không, tôi không cần gì cả.
Thế nhưng nếu không làm phiền ông thì cho phép tôi hỏi
một câu.
-Xin ông chớ ngại. Muốn hỏi
tôi điều chi cũng được.
Ông trả lời tôi và nán lại,
ngồi xuống chiếu.
-Này ông ạ, tôi nghĩ ở vùng
này, các ông các bà không có thói quen thức khuya vào
mùa hè. Tôi không dám giữ ông để nói chuyện lâu đâu.
-Vâng, đây không phải là một
quán trọ bình thường nên chúng tôi đi ngủ sớm. Thế
nhưng đêm nay tôi phải thức suốt đêm để dự một
"đêm tiễn đưa" người chết (thông dạ) [3].
-Thế à? "Đêm tiễn đưa"
à? Trong nhà có người vừa mới mất không lâu ư?
-Vâng, đúng. Mai đây đúng
27 ngày bà cụ mẹ ông chủ tôi qua đời.
-Chết chửa? Lại có thêm
một người ốm trong nhà như ông nói thì việc phải
tiếp khách trọ hẳn là cực nhọc cho ông. Tôi thành thực
xin lỗi. Nhưng giờ đây đã đến nơi rồi, tôi không
biết làm gì khác hơn là xin phép ông cho tôi tiếp tục
tá túc. Bên ngoài hành lang mát hơn, mình ra ngoài kia
nói chuyện chắc tiện, ông nhỉ?
-Cảm ơn ông. Ông đến đây
theo lời giới thiệu của quan tỉnh trưởng [4],
đối với chúng tôi là một vinh dự lớn. Thực ra chỗ
của chúng tôi không đủ tiện nghi để tiếp rước ông.
Nhưng chúng tôi chỉ muốn nhân cơ hội này bày tỏ lòng
tri ân về lòng ưu ái mà chính phủ xưa nay vẫn dành
cho chúng tôi.
Vừa nói chuyện, người quản
gia nhận ra là hương xông muỗi trong thố đất nung sắp
tàn, bèn mở tủ lấy một thỏi hương mới. Để trả
lời câu hỏi tôi đặt ra, ông bắt đầu kể câu chuyện
sau đây.
* * *
Gia đình họ Hozumi xưa kia được
xem như một trong ba gia đình giàu có nhất vùng.
Người cha đã quá cố của
ông chủ nhà là một trong những kẻ đóng thuế nhiều
nhất ở đây, đáng lẽ cụ đã được cử làm nghị
viên của Quí Tộc Viện [5]
nhưng vì lâm bệnh nên đã sớm lánh xa công chúng để
sống một cuộc đời ẩn dật. Cụ ngưỡng mộ những
người như Sakuma Shôzan[6],
do đó mà cho đến khi nhắm mắt, cụ luôn giữ bên mình
Seikenroku (Tỉnh Khiên Lục), tác phẩm của nhà chí sĩ.
Người quản gia diễn tả như thế này: "đó là cuốn
sách gồm những bài thơ viết toàn bằng một thứ chữ
hình vuông" (chữ Nho).
Chí sĩ
duy tân Sakuma Shôzan (1811-1864)
Tuy cụ thân sinh ông chủ là
một Phật tử nhưng theo ý cụ thì từ rày trở đi,
người Nhật bắt buộc phải tìm hiểu phương Tây tuy
không đến nỗi cải hẳn sang đạo Gia-tô. Cụ đã đọc
nhiều sách vở Gia-tô giáo nhưng lại cho rằng chúng đều
hời hợt và không thể đọ được với sự thâm sâu
của kinh điển nhà Phật. Ngay đối với người quản
gia, lúc nào cụ chủ cũng nhắc đi nhắc lại tính ưu việt
của đạo Phật. Cụ từng bảo không có gì đáng gọi
là phức tạp. Cái quan trọng là đừng bao giờ quên "tứ
ân" (aprmâna) [7].
Tôi tự nhủ, à ra thế, chắc ông quản gia nhà ta xem "ơn
chính quyền" – cũng là một nằm trong "bốn cái ơn"
đó.
Bà cụ vợ ông chủ vốn là
một người đàn bà hết sức dịu dàng, không bao giờ
làm điều gì trái lời chồng. Cụ bà lúc nào cũng
tử tế với kẻ ăn người ở và trước tiên đối
với ông quản gia. Chính cụ là người vừa mất cách
đây 27 ngày. Cụ bà sống dai, qua đời ở tuổi 80 và
cho đến lúc chết, mỗi ngày đều bố thí 25 sen (tiền
đồng) mỗi suất cho mười người ăn xin. Trong mấy năm
gần đây, chính quyền hàng tổng đã có chính sách
đi tìm những người ăn mày để gửi họ thay phiên nhau
tới xin tiền cụ. Bọn người làm trong nhà, có kẻ vẫn
nói lén, gọi họ là "những khách mời của bà cụ chủ
nhà mình" tuy không cố tình cư xử làm tổn thương danh
dự của người đến ăn xin.
Hai ông bà cụ xưa vẫn khổ
sở than vãn là họ không được một mống con nào nhưng
đến năm đầu thời Minh Trị (1868), bà có thai ở tuổi
40. Hai vợ chồng hết sức vui mừng. Còn ông thầy thuốc
khoa sản được mời từ Nagano đến thì lại cuống lên
vì ông chưa đở đẻ cho một người đàn bà nào có
con lần đầu ở số tuổi ấy.
Tuy nhiên ông chủ trẻ bây giờ
đã ra đời một cách suôn sẻ. Thời đó, người ta
bắt đầu lập ra vài trường tiểu học và ông chủ
trẻ được kể là một trong những người học trò
ưu tú trên tỉnh mà ai cũng biết. Ông quản gia cho biết
thêm là hồi đó, mình cũng còn trẻ và muốn học nghề
buôn để giao dịch cho nhà chủ nên đã lên Tokyo và vào
học việc ở một tiệm bán sỉ ở khu Nihonbashi. Đây
là một cửa hàng mà nhà chủ của ông bấy giờ vẫn
hay đi lại. Nói chung, trong nghề này, chẳng có ai chịu
nhận một người học việc quá nhỏ tuổi nhưng nhờ
có sự bảo lãnh của nhà chủ bây giờ, người ta đã
chấp thuận cho ông vào thực tập.
Hồi đó là thời Chiến
tranh Tây Nam (1877) [8],
hãng ông giúp việc giàu có lên nhờ bán ba thứ lương
thực cho quân đội của chính phủ. Cụ chủ định bụng
một thời gian khoảng 4, 5 năm khi thấy đã thành thạo
công việc, sẽ kiếm hộ ông người vợ rồi giúp mở
tiệm con cho làm ăn riêng. Vừa lúc đó, cụ lại đột
ngột qua đời ở tuổi 65 sau một cơn tai biến não.
Khi sắp nhắm mắt cụ còn thì thào được một câu khó
hiểu mà cụ bà đoán già đoán non là: "Gọi thằng Seikichi
về giúp việc cho nhà mình".
Không chút lưỡng lự, Seikichi
đã về lại quê hương. Bà góa phụ của cụ chủ nhà
lúc đó khoảng 50 tuổi nhưng cậu con trai đã lên học
trung học ở Nagano. Từ ấy, Seikichi dành hết thời giờ
công sức để phục vụ cho gia đình Hozumi và tiếp tục
sống đời độc thân.
Cậu chủ hiện tại hồi trẻ
có vẻ là người có tương lai nhưng khi lớn lên thì
biểu lộ bản tính nhu nhược. Tuy vậy, thành tích học
hành của cậu tốt và mẹ của cậu cũng cố gắng thỏa
nguyện ước mong của chồng mình là làm sao để con
trai học xong cử nhân. Cậu đến trọ ở ngôi chùa mà
thày trụ trì là người quen biết với bố mình ngày
xưa. Thời trung học, cứ mỗi dịp nghĩ hè hay tết nhất,
cậu lại về nhà chơi và mỗi lần như thế, người
mẹ rất đỗi vui mừng.
Thế nhưng cũng vào khoảng
đó, nơi cậu chủ trẻ bắt đầu lộ ra nhiều vấn đề
sức khỏe. Mỗi lần gắng học một chút là cậu bị
chóng mặt kinh khủng, suýt ngất đến nơi. Chuyện đó
có khi xảy đến ngay giữa giảng đường và một bạn
học phải tháp tùng cậu về tận cửa chùa.
Nhưng rồi cậu cũng xong được
bậc trung học dù có khó nhọc đôi chút. Sau đó cậu
lên Tokyo nhưng trượt mấy lần khi thi vào bậc cao đẳng
các trường công lập, thành ra tính tình càng ngày càng
dễ cáu kỉnh. Để khỏi mất thời giờ vô ích, người
ta khuyên cậu ghi danh ở tư thục Waseda [9].
Cậu đồng ý ghi danh vào trường này nhưng học hành
không mấy nhiệt tình.
Ít lâu sau, đến tuổi quân
dịch, cậu định tình nguyện đăng lính một năm nhưng
bị từ khước khi khám sức khỏe vì không đủ tiêu chuẩn.
Cậu lãnh bằng tốt nghiệp Waseda đúng cái năm cuộc
chiến tranhTrung Nhật bùng nổ (1937) và lên đường về
quê.
Cậu bắt đầu được Seikichi
đánh giá như một người đàn ông trưởng thành. Người
quản gia muốn bàn với cậu chuyện nhà chuyện cửa,
điều mà xưa nay ông chỉ thưa với mẹ của cậu và hầu
như chỉ cho có lệ. Theo lời người quản gia, cậu đã
bảo ông:
-Chú Seikichi ạ! Tôi tin tưởng
chú. Chú đã quen việc cho đến nay thì cứ thế mà
tiếp tục.
Seikichi muốn tìm hiểu cậu
chủ của mình có đam mê gì đặc biệt hay chăng nhưng
dù để ý quan sát, ông vẫn không thấy. Cậu chỉ có
vẻ lo chăm sóc người mẹ nay đã ngoài 60 và để Seikichi
quản lý việc trong nhà theo ý ông ta. Seikichi nghĩ rằng
nếu cậu chủ tin cậy mà phó mặc cho mình điều hành
mọi việc thì quả là tốt nhưng thái độ đó đã
khiến cho công việc mình làm chẳng còn gì gọi là hứng
thú.
Có điều đáng ngạc nhiên
là một năm sau khi về nhà, ở cái tuổi 24, cậu chủ
đã lập gia đình với một người con gái mà nay vẫn
là vợ của mình. Cô ấy xuất thân từ một gia đình
cố cựu, tuy không giàu có bằng nhà Hozumi nhưng cũng
thuộc hạng danh giá trong vùng. Cô theo học ở một trường
cao đẳng nữ học trên Tôkyô và đã tốt nghiệp. Một
người dân Echigo [10]
có dịp gặp cô, cho biết là con gái trong vùng của họ
đều nổi tiếng xinh đẹp nhưng chưa thấy ai đẹp qua
mặt được O-toyo, tên cô gái ấy. Khi cô còn bé, cậu
chủ nhà Hozumi có lần gặp cô trong vài kỳ lễ hội.
Người ta thường trêu, xem cậu Chitaru và cô O-toyo như
một cặp đôi hoàn hảo. Gia đình hai bên lúc đó chưa
tính toán chuyện gì nhưng khi thấy O-toyo lên Tôkyô, thiên
hạ đồn thổi rằng cô lên thủ đô học là vì không
chịu thua, muốn mình phải xứng đáng với địa vị vợ
tương lai của người con trai như cậu Chitaru. Năm 18 tuổi,
cô về quê gần như đồng thời với chuyến hồi hương
của cậu con trai .Thành thử việc họ trở thành vợ
chồng được xem như là không tránh khỏi, nó là kết
quả của sự thúc đẩy bởi dư luận bao chung quanh họ.
Khi được mẹ hỏi nghĩ thế nào về đám này thì cậu
chủ trả lời là "Sao cũng được !". Phần bà mẹ, bà
cứ nghĩ con mình là người từng sống nơi đô hội
ăn chơi mà chưa hề có chuyện tình ái với một phụ
nữ nào nên vui mừng xem câu trả lời "Sao cũng được
!" của một con người kỹ tính như cậu là một sự
đồng ý. Sau đó, bà bắt đầu tiến hành mọi việc.
Bên nhà gái đang chờ đợi và không ao ước chi hơn.
Ngoài ra, những người mai mối đã báo lại cho gia đình
Hozumi biết là cô gái cũng trông mong điều đó. Khi việc
đi coi mắt giữa hai họ được dàn xếp thì trên báo
chí ở vùng Nagano, sự kết hợp này được xem như
là một mối lương duyên. Cánh nhà Hozumi đã đành nhưng
cả thiên hạ dù chẳng dính líu gì đến cũng chộn
rộn ầm ĩ, kẻ chúc mừng, người ganh tỵ với đôi
tân hôn. Riêng lão quản gia Seikichi là người duy nhất
đang lo lắng vì ông nhận ra trong phản ứng của cậu chủ
trẻ có cái gì không ổn. Có lẽ vì ông nhớ lại thời
còn ở Tôkyô, cụ chủ trước cũng từng nghĩ đến
chuyện kiếm vợ cho ông. Lúc đó, Seikichi đã 35 tuổi.
Nhân vì đang cật lực làm việc kiếm ăn, nghe nói tới
đàn bà là trống ngực đập thình thình, chỉ đến
khi mọi việc qua rồi mới lấy lại bình tĩnh. Đó là
mới nghe nói đến chuyện họ sẽ kiếm vợ cho mình
thôi đấy. Trong khi chưa biết người đàn bà ấy là
ai và từ đâu đến, ông đã hốt hoảng như vậy suốt
hai ba bữa, chẳng làm được gì nên hồn. Nay bà mẹ
của cậu chủ nghe con nói "Sao cũng được" đã vội nghĩ
là con mình đã kín đáo bằng lòng. Tuy nhiên, theo cách
nhìn của Seikichi thì cậu chủ muốn trình bày một sự
thực khác: "Việc nhà đối với tôi ra sao cũng được.
Chuyện vợ con đối với tôi thế nào cũng xong!". Tuy
Seikichi không mong nó sẽ xảy ra nhưng nghĩ chắc mỗi mình
là thấy được ý nghĩa đó đằng sau lời cậu chủ
phát biểu.
Đám cưới đã diễn ra êm
thắm nhưng một chuyện lạ đã xảy ra vào sáng hôm sau,
khi người trong nhà dọn bữa điểm tâm. Cho đến hôm
đó, bà chủ và cậu chủ trẻ thường được sắp ngồi
ở hai chỗ bên trên. Seikichi cũng ăn một lượt trong cùng
một gian với họ nhưng ông ngồi ở bên dưới. Đây là
một nghi thức cố hữu đã có từ thời ông chủ trước.
Với lời dặn dò trước khi nhắm mắt, ông đã nâng cao
vai trò của Seikichi, không coi như hàng tôi tớ và người
vợ góa của ông cứ thế mà theo. Vì là đàn bà góa
và đã ngoại 60 nên bà không ngại ngùng chi chuyện đó.
Trong thân tộc cũng có kẻ lắm mồm nhưng không thấy
ai dám mở miệng dị nghị. Sáng hôm ấy, cậu chủ trẻ
ngồi ở chính giữa mẹ và vợ, còn hai người thì
mỗi người một góc. Như bằng lòng vì tìm được
một cô dâu xinh đẹp, bà chủ vui vẻ nói chuyện với
con trai. Cậu ta cũng đáp lại. Duy cô dâu mới là cứ
cúi mặt ngồi nghe, thế rồi, sau khi gắp qua loa vài miếng,
đã lặng lẽ rời khỏi chỗ trước mọi người. Seikichi
nhìn thấy thế mới nghĩ rằng cô ta muốn rời căn phòng
vì ngại ngùng một chuyện gì. Và chắc bà mẹ lẫn
chồng cô đều chia sẻ cảm giác ấy.
Trong bữa trưa và bữa chiều,
cảnh tượng nói trên lại tiếp tục xảy ra: cô dâu rời
phòng ăn trước mọi người. Thế rồi sang ngày hôm sau,
lấy cớ phải làm nốt việc gì đó, cô ra ăn cơm trễ.
Khi cậu chủ đích thân hỏi lý do, cô mới cho biết mình
không thích đối thoại với mẹ chồng. Tuy nhiên, nói
chuyện trong bữa ăn là một tập quán của gia đình
Hozumi. Giữa bữa cơm, họ phải kể cho nhau nghe những điều
tốt đẹp hoặc những câu nói hay ho nghe thấy trong chòm
xóm. Chính ông chủ trước là người đã đề xướng
nghi thức này. Nó đi ngược lại với những tin lặt
vặt kiểu "từ thành đến tỉnh" thường thấy trong mấy
tờ báo lá cải. Những khi không có một sự kiện nào
lạ lùng xảy ra thì họ sẽ kể cho nhau nghe về một câu
chuyện được chép lại trong sách vở. Vì thế mỗi
khi nghe ai kể lại một câu chuyện hay được đọc nó
từ trong quyển sách nào hôm trước, họ đều mở mắt
giương tai để nhớ cho kỹ, chuẩn bị đề tài trình
bày trong bữa cơm.
Cậu chủ cũng lấy làm lạ
về thái độ của người vợ. Vẫn biết là có những
người không bị lôi cuốn bởi những điều hay, cái
đẹp. Nhưng đây lại là thái độ đơn thuần không muốn
nghe nói tới nó! Những câu chuyện kia nào đến nỗi
khó chịu để mà không chấp nhận. Rốt cuộc cậu
chủ đã hỏi thẳng vợ mình lý do của sự thiếu sự
bao dung này. Hình như nàng trả lời rằng mình đã không
thể nào chịu được tính cách ngụy thiện toát ra từ
những câu chuyện đó.
Sau khi nghe được cái chữ
cuối cùng nàng dâu đã dùng, bà chủ bèn trở nên ít
lời và giữ khoảng cách. Khi người ta không có quyền
nói thì ham muốn được bày tỏ sẽ tăng thêm và đấy
là bản chất của con người. Thế nhưng bà chủ đã
dồn nén cái khuynh hướng thông thường này. Dần dần
sự dồn nén trở thành thói quen và bà không còn muốn
trò chuyện nữa.
Từ đó, ngôi nhà của họ
Hozumi trở thành một nơi câm lặng.
* * *
Khi lão quản gia Seikichi vừa kể
đến đây thì bỗng có ai mở cánh cửa kéo – mà
từ lúc nãy, ông ấy cũng từ bên trong bước ra và
là nơi có treo mấy chữ "Hòa Khí Nhật Dung Dung" - rồi
một người đi vào phòng.
Trước mắt tôi lúc đó là
một người đàn ông ở tuổi trên 40, dáng dấp thanh
lịch. Ông mặt một chiếc kimono kiểu Satsuma-gasuri
xanh đậm có đính hoa văn và một cái áo khoác nhẹ
bằng lụa đen. Ông ta bắt đầu nói chuyện với một
cái giọng lên xuống bất chợt của một người tinh
thần không được ổn định.
"Tôi tên là Hozumi Chitari, chủ
nhân của ngôi nhà này. Xin lỗi giáo sư [11],
tôi đã không đến chào dù ông là thượng khách của
chúng tôi. Tôi lại đường đột bước vào phòng ông
giữa lúc này. Chắc ông không khỏi cảm thấy có gì
quái lạ. Nhưng vì từ hai tuần nay, cuộc sống của tôi
bị xáo trộn, tôi phải tĩnh dưỡng. Khi trên quận chuyển
thông tri của tòa tỉnh hỏi chúng tôi có thể tiếp rước
ông không, chúng tôi đã định thoái thác vì nhà đang
có tang. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, nhiều chuyện
không may dồn dập đến với gia đình chúng tôi, ngay
chú Seikichi đây cũng bị lao đao nên chú ấy mới khuyên
tôi nên lợi dụng sự có mặt của ông để được nghe
lời chỉ dạy. Vì vậy tôi mới chấp nhận lời đề
nghị ấy cho dù tôi chỉ e nó sẽ làm nhọc lòng ông.
Chú Seikichi chắc đã quấy rầy tai ông với câu chuyện
của gia đình chúng tôi rồi thì phải. Gia đình chúng
tôi đang lâm vào một tình huống bi thảm. Nãy giờ tôi
tạm lánh mặt ở phòng bên cạnh. Một người có giáo
dục không nghe lén ngoài cửa, ông nhỉ. Nhưng vì tôi đã
không ra đón khi ông vừa tới nên tôi sợ mình xuất
hiện bất chợt sẽ thiếu lịch sự nên đã chần chờ.
Chú Seikichi chắc đã kể ông nghe là từ hồi nhỏ, mẹ
tôi đã tận tụy, lao khổ vì tôi. Thế mà tôi đã để
bà chết mòn trong căn nhà u ám này. Nói về mặt vật
chất thì tôi đã hết lòng phụng dưỡng bà nhưng dù
sao trong ngày cuối đời, mẹ tôi đã phải buồn khổ
vì vợ tôi và tôi. Người chung quanh có thể nói tại
sao tôi không bỏ vợ cho xong nhưng thật ra điều ấy đâu
dễ gì thực hiện. Dĩ nhiên tôi có thể viện cớ
là vợ tôi không hề sinh đẻ trong ngần ấy năm. Tuy nhiên,
trong thời đại này, có muốn gì cũng phải dựa vào
bộ Dân Luật chứ đâu thể làm càn. Vợ tôi không làm
gì đáng tội. Cô ấy chỉ không thuận thảo với mẹ
tôi thôi nhưng đó không phải là một lý do đặc biệt
để dẫn tới ly hôn. Hơn nữa, dù tôi có đòi ly hôn,
chưa chắc cô ấy đã đồng ý. Theo cô ấy, hãy để
thời gian làm việc, mọi sự sẽ an bài thôi. Khi cô ấy
còn giữ lập trường như vậy thì gia đình ông bà
nhạc tôi cũng sẽ từ chối đề nghị của tôi dù tôi
năn nỉ họ đến đâu đi nữa. Và tại sao tôi lại phải
thúc bách họ ? Tôi không tìm ra lý do chính đáng nào
khác. Tòa án cũng sẽ không nghe tôi. Rồi còn cái gọi
là tai tiếng nữa chứ. Gia đình chúng tôi là một gia
đình cố cựu, danh giá trong toàn cõi Shinshuu này. Tôi
không muốn tên tuổi chúng tôi bị bêu trên mặt báo. Cuối
cùng, chuyện này đã kéo dài từ 15 năm nay rồi. Chú
Seikichi, tuy già yếu nhưng đã cáng đáng công việc nhà
chúng tôi, không hé môi nửa lời, cho dù trong thâm tâm,
có lẽ chú nghĩ rằng tôi bị vợ mê hoặc. Thế nhưng
điều đó là sai vì cô ấy không có quyền lực gì
trên tôi cả. Điều người ta chỉ trích mà tôi có thể
chấp nhận là việc tôi thiếu ý chí và sự quyết
đoán. Có lẽ vì tôi không lập ra được kế hoạch cho
cuộc đời mình. Tôi đã quá đau yếu để có sức
ghi danh vào Đại Học nhưng tôi cũng đã theo được một
số môn. Ví bằng tôi tìm được một đường lối nhất
quán để xây đắp một cơ sở cho cuộc sống, nếu
tôi dám hy sinh tất cả để thực hiện cho được nó
thì có lẽ tôi đã tìm ra giải pháp khắc phục được
những khó khăn của đời mình rồi. Do đó, tôi phải
bỏ ngoài tai những lời bàn tán của thiên hạ, dù oan
hay ưng.Tôi phải làm ngơ trước cái chết của người
khác và ngay của chính tôi. Chắc chỉ lúc đó tôi mới
tìm được một giải pháp đúng đắn. Nếu không như
thế, tôi còn phải lòng vòng, không thấy lối ra. Rốt
cuộc là mẹ tôi chết. Và vì cứ kéo dài mãi vấn
đề, vợ tôi cũng đã hóa điên. Riêng tôi thì không
biết từ đây mình sẽ ra sao!"
Ông chủ nhìn tôi đăm đăm
với đôi mắt đỏ ngầu. Tôi rợn người. Còn ông lão
Seikichi thì chỉ biết khoanh tay, cúi đầu. Đồng hồ
lúc đó đổ 11 tiếng.
Tôi hỏi ông:
-Thế thì tiếng nói tôi nghe
nãy giờ là tiếng của bà nhà đấy à?
-Vâng, ngày nào cô ấy cũng
lảm nhảm như thế đến 11 giờ đêm. Cô ta nói không ngừng
như một người đang thuyết minh về một cảnh tượng
gì hay một huyễn ảnh nào đó. Cô ấy nói không nghỉ
cho đến khi kiệt sức.
-Thế à? Theo lời bác Seikichi
thì lý do của sự việc đó đã bắt đầu từ khi bà
nhà cho rằng việc kể lại những câu chuyện hay, những
lời nói đẹp chỉ là vô nghĩa. Nhưng tại sao bà nhà
lại có ý tưởng đó chứ?
-Chuyện hết sức vô lý,
ông ạ. Thế nhưng theo vợ tôi thì cả nhân loại không
có lấy một con người chân chính. Nếu có ai được
như thế thì người đó sẽ bị mất hút trong đám đông,
hay chỉ xuất hiện một lần trong một trăm năm, hoặc
một nghìn năm. Chúng ta khó lòng gặp gỡ người ấy
trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Con người khi
nói hay làm một điều tốt đều là để phục vụ
cho tư lợi. Họ bần tiện lắm. Trong thực tế, thiên
hạ chỉ chạy theo cái ác. Không có gì để tự đắc
và tốt nhất mọi người nên câm mồm. Bởi vì con người
ta chỉ thành thật khi nói lên một điều ác: chỉ có
lúc đó họ mới không ngụy thiện và không ti tiện.
Khi nghe cô ấy và nhìn cô ấy trình bày những điều
nói trên với cái giọng nhỏ nhẹ và vẻ mặt xinh xắn,
tôi thấy những gì cô nói tuy ngờ nghệch nhưng ít nhất
có gì hết sức là đúng. Trong khoảng thời gian ấy,
đã xảy ra một sự việc lạ lùng. Năm ngoái, một người
bạn thân tôi quen ở Tôkyô hồi còn đi học, đi nghỉ mát
ở suối nước nóng gần nơi tôi ở và nhân đó, ghé
qua nhà tôi ngủ lại. Anh đã kể câu chuyện như thế
này. Số là anh đã lập gia đình và có nhiều con.
Thế nhưng vợ anh là người không chấp nhận một thứ
authority
(quyền
uy) nào cả và không chịu nghe theo những điều anh bảo
cô ta. Anh ta nhiều lần cho rằng thái độ của cô là
thất kính với bố mẹ anh, với thiên hoàng, với thần
thánh và Trời Phật, nhưng anh không làm sao để cô thay
đổi dù chỉ là một dấu phẩy. Anh ấy nghĩ các cô
tân thời theo học trong nhà trường đã nhiễm phải đầu
óc bất phục tùng của bọn chủ trương vô chính phủ
và bọn theo khuynh hướng xã hội. Khi nghe anh nói, tôi
tự nhủ anh này chưa chi đã vội rút ra những kết luận
quá cực đoan nhưng sau khi suy nghĩ, tôi cho là vợ của
tôi, cũng như cô vợ người bạn là loại người từ
chối mọi thứ quyền uy. Phải chăng ngày nay, như các
loài động vật, giới phụ nữ cũng phải tranh đấu
chống lại bất cứ cái gì để sống còn? Làm sao
họ đã phải đi đến nước này?
-Nếu chúng mình buông xuôi
thì chuyện đó sẽ xảy ra thôi. Bản chất của bọn trẻ
con khi vừa mới lọt lòng, nếu không egoiste (ích
kỷ) thì là gì nào ?
-Thế nhưng tại sao họ lại
khác đàn ông nhỉ?
-Dù nói gì đi nữa, theo tôi
thì ở nơi người đàn ông, lý trí bao giờ cũng thắng.
Có đúng không ạ? Ông vừa mới nói là ông không có
một nhân sinh quan nhưng cho dù ông bảo là mình không có
nó thì trong cuộc sống, ông vẫn biết phân biệt điều
hơn lẽ thiệt chứ. Ông biết là nếu mình để cho sự
ích kỷ dẫn đường thì sẽ đánh mất lập trường.
Không chấp nhận dogma (giáo điều) và cũng không
cần tuân thủ bất cứ sự ngăn cấm nào nhưng một
khi đã biết tính toán hơn thiệt thì con người sẽ
không làm chuyện xằng bậy. Đối với những người
đàn bà thiên về lý trí, mọi sự cũng sẽ xảy ra một
cách tương tự. Chỉ có điều là con số đàn bà như
vậy không nhiều. Nếu người đời biết tính toán
hơn thiệt họ sẽ không làm những chuyện xằng bậy.
Người ta đã nói ầm lên về Bài Giảng Trên Núi [12]
của Chúa Ki-tô nhưng thử hỏi bài giảng ấy muốn nói
lên điều gì nếu không là dạy con người phải biết
cân nhắc hơn thiệt hay sao?
-Có thể lắm. Một đứa
bé bị những vật có màu đỏ kích thích, có khi cho
tay chụp lấy lửa. Cũng giống như bọn trẻ con, phải
chăng đàn bà thường bị những ham muốn ích kỷ của
họ lôi kéo đến nỗi tự hũy diệt?
-Vâng, đại khái là thế.
Mình đành phải để mặc trẻ con khóc và làm sao cho
nó đừng đưa tay sờ vào lửa. Chúng ta không thể xử
lý chuyện trẻ con cùng một kiểu với chuyện người
lớn. Người theo chủ nghĩa vô chính phủ hay chủ nghĩa
xã hội đã nhầm khi đánh đồng những kẻ nằm tận
dưới đáy xã hội với những kẻ thông minh và có
lý trí. Do đó, việc phổ thông đầu phiếu hãy còn
lắm vấn đề. Nguyên tắc chính trị dựa trên đa số
có thể bị bãi bỏ nếu người ta tìm được một
giải pháp tốt hơn để thế vào chỗ nó. Lý tưởng
égalité
(bình đẳng) cũng sai lầm từ căn bản. Cần phải dùng
đến võ lực để ngăn ngừa không cho đám đàn bà
kia tự hũy hoại bởi vì họ là những người không
biết nhìn xa hơn đầu mũi của mình!
-Giáo sư thật bụng nghĩ như
thế sao? Tôi nghe nói ở bên Đức, thày giáo có quyền
phét đít học trò và tôi lại được biết thêm là
các ông chồng có quyền đánh vợ. Nếu suy nghĩ kiểu
như giáo sư thì chắc giáo sư cũng không chống đối
việc đó?
Tôi bất giác mỉm cười:
-Tôi không ăn nói quá khích
đến mức độ như vậy. Tôi nghe là trong một tờ báo
Pháp, có ai từng ca tụng hình phạt bằng roi của người
Anh đem đến hiệu quả tốt. Thấy thế, Bernard Shaw [13]
đã sử dụng quyền trả lời để phản bác ngay. Thể
phạt hay cách dạy bằng roi vọt là một giải pháp bất
bình thường và không thể nào đem chuyện đó thảo
thành luật lệ chỉ vì lý do mình đang ở trong cương
vị một ông thày hay người chồng!
-Tôi hiểu chứ! Thế nhưng
trong trường hợp của tôi, nếu tôi có quyết tâm vững
chắc là tẩn cho nhà tôi một trận mỗi khi cần thiết
thì chắc cô ấy không trở thành con người đáng thương
như bây giờ đâu. Than ôi, cái chết của mẹ tôi đã làm
tôi khổ tâm nhưng tình trạng hiện tại của vợ tôi thì...
tôi biết nói thế nào đây?
Ông chủ im lặng suy tư. Tôi
bạo dạn hỏi:
-Những diễn tiến nào đã
đưa bà nhà đến tình cảnh này vậy, thưa ông chủ?
Ông lão Seikichi nãy giờ cứ
khoanh tay, chống tay xuống chiếu và lết bằng đầu gối
đến gần tôi và bảo:
-Chúng tôi phải thưa thực
là khi biết được ông là giáo sư y khoa, chúng tôi nghĩ
mình có thể nhờ ông cố vấn cho một vấn đề trong
thời gian ông ghé qua đây. Chuyện ấy đã xảy ra vào
ngày thứ bảy sau khi cụ bà nhà chúng tôi tạ thế. Khi
cô chủ tôi đến gần bàn thờ để thắp hương, bỗng
thấy có một con rắn đang cuộn tròn, đầu hướng về
phía cô và nhìn thẳng vào mắt. Cô chủ hô hoán lên và
ngã lăn ra, rồi từ đó, cô đã ở trong tình trạng
như ông vừa thấy. Chúng tôi kinh hãi nhưng may có kẻ
trong đám giúp việc mời được một người biết bắt
rắn. Ông ta đến nắm lấy nó và ném ra ngoài cánh đồng.
Cậu chủ tôi có học môn khoa học tự nhiên nên cho biết
rằng loài rắn vốn nhạy cảm với sự thay đổi của
áp suất không khí. Có lẽ nhân lúc đó một cơn bão
sắp kéo tới nên nó đã rời hang ổ mà vào ẩn bên
trong nhà dân. Hoàn toàn là chuyện ngẫu nhiên nếu như
nó xuất hiện trên bàn thờ người chết. Thế nhưng
hôm sau buổi lễ, khi xem xét bàn thờ, chúng tôi đã
thấy nó đã trở lại nằm đúng ngay chỗ cũ. Lần
thứ hai này, phải nói là tôi vô cùng kinh ngạc. Chúng
tôi không muốn cho kẻ ăn người ở đem việc này tiết
lộ ra ngoài. Hình như từ mấy hôm trước, họ đã thì
thầm với nhau rằng cô chủ tôi có vấn đề tâm thần
vì đã bị trời phạt về thái độ ăn ở không tốt
đối với mẹ chồng. Nếu chuyện này vỡ lỡ và vào
tai người ngoài, không biết họ còn đặt điều đến
đâu! Do đó tôi muốn chắn cái lối đi vào căn phòng
có bàn thờ. Tôi đem chuyện này bàn ngay với cậu chủ
nhưng cậu cho biết là không muốn đụng vào con vật
gớm ghiếc đó và nghĩ rằng bề gì trước sau nó
sẽ tự bỏ đi thôi. Tôi lo mình sẽ bị đánh giá là
mê tín và phần khác, có hơi mắc cỡ vì lạm dụng
lòng tốt của giáo sư, nhưng tôi xin phép ông cho nghe ý
kiến của ông, giáo sư ạ.
Cậu chủ vẫn giữ im lặng,
mặt mày có vẻ khổ sở. Tôi mới hỏi ông quản gia:
-Con vật vẫn còn nằm nguyên
ở đó?
-Thưa vâng, nó còn nằm đấy,
không động đậy.
-Thế à...?
Tôi vứt điếu xì gà đang
hút trong suốt buổi nói chuyện và đứng dậy:
-Để tôi đến xem thử.
Ông ta đưa tôi đến nơi. Khi
vào bên trong gian thờ Phật ấy, tôi nhận ra một cái
bàn thờ thật hoành tráng, chiều dài hơn 3,5m, trên đó
có thắp vài ngọn nến sáng lung linh và một lò hương
bằng đồng đang tỏa khói. Ở giữa bàn thờ là tấm
linh vị màu trắng của người vừa khuất. Nhìn ra đằng
sau chỗ cắm hương, tôi thấy đúng là có một con rắn.
Ấy là một con aodaishô
(mà tên khoa học là) elaphe climacophora[14].
Người nó thật béo tốt nếu không nói là phì nộn.
Thân mình dù đã cuộn tròn mà vẫn còn kéo lê ra một
cái đuôi dài khoảng 15 cm.
Tôi đưa mắt nhìn lên trần
nhà phía trên bàn thờ. Bàn thờ này rất rộng, được
đóng bằng những thanh gỗ hinoki [15]
thật đẹp. Tuy vậy, vì dùng mãi lâu ngày, nó đã đổi
sang màu đen sậm.
Ông lão quản gia ngồi xuống
và lẩm nhẩm niệm Phật. Ông chủ nhà bước đi như
somnambule
(kẻ mộng du) vào trong phòng và đứng sau lưng chúng tôi,
thần trí như để đâu đâu.
-Trong nhà này có kho gạo nào
không nhỉ?
-Có ạ, nó nằm ở cuối
hành lang, chỗ nhìn sang phòng bên cạnh đấy, thưa ông.
Aodaishô
-Thế thì con rắn đã đến
từ chỗ đó. Các loài động vật hay hành động theo
thói quen. Khi đã từng ở một chỗ nào rồi, chúng
thường trở lại nơi đó. Có đuổi bao nhiêu lượt,
con rắn cũng sẽ trở lại "ngôi nhà", nơi nó đã quen
thuộc. Chẳng có gì đáng gọi là lạ lùng.Tôi sẽ bứng
nó đi cho các ông coi.
Ông lão quản gia tròn xoe đôi
mắt, kinh ngạc:
-Nếu vậy, cho phép tôi gọi
đứa nhỏ nào đó tới.
-Không, các ông đã xử sự
đúng đắn khi không cho những em trẻ nhìn lại con rắn.
Tôi thừa sức bắt nó mà! Nếu như nó có nọc độc,
tôi phải dùng một cây gậy đầu nhọn. Tôi sẽ dùng
đầu gậy để chận cần cổ rồi từ đó, cuộn
lấy thân nó chung quanh gậy, lấy tay bóp ngay dưới cổ
mà bắt. Nhưng con rắn này chẳng qua là một con aodaishô
hiền lành, vô hại, tay không thôi cũng đủ. Này, ở chỗ
để hành lý của tôi, có một cái xách tay của dân
đi câu. Trong đó tôi có cái giỏ con người ta mới cho
hôm qua để đựng cá. Cảm phiền ông đi lấy nó đến
đây, được không ạ?
Ông lão bèn đi lấy ngay và
đem về cho tôi.
Tôi nắm lấy con rắn, đưa
lên cao và chìa nó ra cho hai người thấy. Con vật ngỏng
đầu , thân hình vặn vẹo như một sợi giây thừng bị
xoắn lại nhưng không cách gì mà cắn được tôi. Tôi
bèn bỏ con rắn vào trong giỏ và đóng lại.
Thì vừa lúc đó, có tiếng
đồng hồ đánh mười hai tiếng, báo hiệu nửa đêm.
* * *
Ngày hôm sau, trước khi ra đi,
tôi có nghĩ đến việc hỏi thăm ai là người thày thuốc
đang chữa trị cho bà vợ ông chủ. Họ bảo đó là một
bác sĩ từ Nagano, thế nhưng chuyên môn của ông không phải
là khoa tâm thần. Nhân gia đình chủ nhân khá giả, tôi
mới khuyên họ phải mời ngay một bác sĩ chuyên khoa từ
Tôkyô lên.
Tháng 1/ 1911
M.O.
Dịch xong
tại Tôkyô ngày 21 tháng 8 năm 2018 (NNT)
Chú Thích:
[1]
- Bunjinga: Văn nhân họa, còn gọi
là Nam (tông) họa, một thú tiêu khiển của văn nhân, có
nguồn gốc từ Trung Quốc. Thường là loại tranh thủy
mặc. Chú trọng đến thần khí, sự phong nhã hơn là
kỹ xảo. Cuối đời Minh có Đổng Kỳ Xương là người
nổi tiếng.
[2]
- Indiscret: Nguyên văn tiếng Pháp
trong tác phẩm, có nghĩa là tò mò, thiếu tế nhị.
Kể từ đây, các chữ có nguồn gốc Pháp, Anh, Đức...đều
viết bằng nguyên văn và chua âm katakana như thế cả.
[3]
- Thông dạ: Thức trắng đêm để
ở bên cạnh và tiễn đưa người mới chết. Một tập
tục Nhật Bản (tsuuya)
[4]
- Tỉnh trưởng: Ôgai được sự
hỗ trợ của chính quyền địa phương vì bấy giờ
ông đã đóng một vai trò lãnh đạo trong ngành quân y.
[5]
- Quí Tộc Viện: Giống như
Tham nghị viện (Senate) tức viện trên, không do dân bầu
(như Mỹ) nhưng được tuyển từ những nhà quí tộc
hay người đóng thuế nhiều. Dĩ nhiên định chế này
ngày nay đã bị thay thế.
[6]
- Sakuma Shôzan (1811-1864):Một chí
sĩ duy tân tên tuổi, một nhà khoa học, rành về binh
pháp, quốc phòng, người vùng Shinshuu, đồng hương với
nhân vật trong truyện. Chết vì bị ám sát. Ông có tác
phẩm Seikenroku (Tỉnh Khiên Lục), ghi chép những điều
ông phản tỉnh.
[7]
- Tứ ân: Chữ nhà Phật nói
về 4 cái ơn lớn mà con người thụ hưởng: ơn cha mẹ,
ơn vua, ơn chúng sinh (xã hội), ơn tam bảo.
[8]
- Chiến tranh Tây Nam:Trận chiến
tranh đánh dẹp cuộc nổi dậy của giới sĩ tộc vùng
Kagoshima năm 1877, lãnh đạo bởi một cựu công thần thời
Duy Tân, Saigô Takamori (1827-1877). Saigô thua quân triều đình
và phải tự sát.
[9]
- Waseda: Đại học nổi tiếng
ở Tôkyô ngày nay. Trước 1902 thì nó chưa được gọi
là đại học.
[10]
- Echigo: Tên cũ của vùng Niigata,
tiếp giáp với phía bắc Shinshuu (tên cũ của Nagano).Như
thế, vợ của cậu chủ là người vùng bên.
[11]
- Sensei trong nguyên tác có nghĩa
là Tiên sinh / Giáo sư./ Bác sĩ, nói chung là một người
đáng kính trọng. Hình như Ôgai đã được trên tỉnh
giới thiệu với nhà chủ như một giáo sư hay người
có thẩm quyền về ngành y.
[12]
- Bài Giảng Trên Núi (Sermon on
the Mount): Bài giảng dài về luân lý cơ bản trong sinh hoạt
của người tín hữu bởi Đức Chúa Jesus trên một ngọn
núi trước đoàn dân đông. Được nói đến trong Kinh
Thánh Tân Ước (Tin lành theo Thánh Ma-thi-ơ, các đoạn
5, 6 và 7).
[13]
- Bernard Shaw (1856-1950): Nhà văn,
kịch tác gia, phê bình gia gốc Ái Nhĩ Lan, giải Nobel văn
chương, một bộ óc khôi hài và tinh tế.
[14]
- Aodaishô: (Japanese rat snake). Một
loại rắn có thể dài từ 1,5m đến 2 m và không nọc
độc. Chủ yếu là màu đen nhưng đôi khi pha thêm vằn
xanh hay vàng. Nuôi sống bằng ếch, nhái, trứng chim, chuột.
Thường chui vào nhà dân. Một giống rắn quen thuộc đối
với người dân Nhật.
[15]
- Hinoki: cây bách Nhật Bản, một
thứ gỗ quí có hương thơm thoang thoảng, dùng vào việc
xây cất, lát sàn và đóng đồ dùng trong nhà.
Thư mục tham khảo:
-
Mori Ôgai, Mori Ôgai-shuu - Bungô kaidan
kessakusen - (Tuyển tập truyện kinh dị của văn hào Mori
Ôgai), Higashi Masao chọn lọc, Nxb Chikuma (Tokyo, 2006) từ trang
261 đến trang 280.
-
Mori Ôgai, Chimères (Vọng tưởng),
tuyển tập 5 truyện ngắn Mori Ôgai dịch sang tiếng Pháp
bởi Ryôji Nakamura và René de Ceccaty, Collection Rivage Poche,
Petite Bibliothèque, Paris 2012. Le Serpent (Con Rắn) từ trang 119
đến trang 148.
|