Hoa
nghệ
Chỉ
nghe đến tên mà chưa thấy mặt là chuyện thường tình
và nó không chỉ giới hạn trong thế giới của con người
thôi đâu. Nói chung, mọi vật trên đời đều như thế
cả.
Từ nhỏ tôi vẫn
được xem là đứa trẻ ham đọc sách. Thời tôi mới
ra đời, các loại tạp chí dành cho thiếu niên cũng như
các cuốn truyện cổ tích kiểu của anh Iwaya Sazanami [1]
đều chưa xuất hiện. Tôi chỉ có mấy quyển sách của
bà nội tôi [2]
như Hyakunin Isshu [3]
mà bà đã mang theo lúc về nhà chồng, những bản tuồng
người nộm Jôruri - kỷ niệm thời gian ông nội tôi [4]
đua đòi học lối kể truyện theo phái Gidayuu [5]
- cũng như một số bản tuồng Nô kèm theo tranh vẽ. Tôi
dùng hết thời gian của mình để đọc những thứ đó
chứ không đi ra bên ngoài thả diều hay bung vụ. Hầu như
tôi chẳng có dịp tiếp xúc bọn trẻ con hàng xóm để
có thể tìm hiểu tâm tình của nhau. Cứ thế, tôi càng
ngày càng đắm mình trong sách vở và trở thành một
món đồ bụi bám, trí nhớ chứa đầy những cái tên.
Điều đó đã khiến tôi không biết cái gì cho thật
đến nơi đến chốn cả vì chỉ nghe đến tên một vật
nào đó mà chưa hề nhìn nó tận mắt. Những vật
tôi mới nghe đến tên thì vô vàn, trong số đó có cả
nhiều loài thực vật.
Cha tôi [6]
– như theo cách người ta hay gọi - là một y sĩ "Lan học".
Vì cha tôi có dặn là ông sẽ dạy cho tiếng Hòa Lan nên
tôi bắt đầu tìm đến với nó từ rất sớm [7].
Tôi học tiếng ấy qua bộ Bunten (Văn Điển) [8].
Sách này gồm hai cuốn. Cuốn thứ nhất giải nghĩa
từ ngữ còn cuốn thứ hai phân tích câu văn. Để đọc
cho thông suốt, tôi thường dùng từ điển. Đó là hai
tập sách dày cộm do Nhật Bản in, có chữ Hòa Lan lẫn
chữ Nhật đối dịch song song. Trong lúc lật qua lật
lại tra cứu, đến chữ Safuran, tôi bỗng khựng
lại vì thấy có gì không ổn. Thời đó, về từ điển
thực vật, chỉ mới có quyển Shokugaku Kaigen (Thực học
khải nguyên) [9]
mà thôi , trong đó người ta dịch theo âm và chép lại
bằng những chữ Hán nào ăn khớp được với những
âm ấy. Những chữ đó, ngay bây giờ tôi vẫn cỏn nhớ
cách viết. Trong ba chữ Hán biểu âm Safuran thì
chữ đầu tiên không có trong bộ chữ in. Họ phải phân
nó ra làm hai phần để giải thích. Đó là chữ Tự
自đặt ngay sau ba chấm thủy. Sau nó đến chữ Phu夫 và
cuối cùng là chữ Lam藍.
-Bố ơi, có giống
cỏ tên là Safuran nhưng nó ra thế nào hở bố?
-Đó là loại
cây thân thảo người ta lấy hoa ép khô để nhuộm màu.
Con muốn xem không?
Bố tôi bèn mở
ngăn tủ thuốc lấy ra một vật khô se và đã thẩm
màu đưa tôi xem. Chắc bố tôi cũng chưa hề nhìn thấy
cánh hoa này khi nó hãy còn tươi. Vật mà tôi nghe tiếng
và nay được nhìn tận mắt cũng chẳng qua là thứ cỏ
khô mà thôi nhưng đó là cơ hội đầu tiên tôi nhìn
thấy hoa nghệ (Safuran).
Củ nghệ
và bột nghệ (safuran)
Chuyện sau đây
xảy ra hai, ba năm trước. Khi xe hỏa đến ga Ueno, tôi gọi
xe kéo đưa mình về nhà ở dốc Dangozaka [10].
Giữa đường, tới quãng đền Tôshôguu
[11]
trong ánh nắng chiều chập choạng của xóm Hanazono, dưới
mấy bậc thang bằng đá và trên một tấm cói bên đường,
tôi thấy người nào đó đang bày bán mấy cái củ
một loại cây thân thảo. Phần trên thân củ có đơm những
đóa hoa tím biêng biếc. Từ hồi còn là một cậu
bé con cho đến lứa tuổi trung niên, sự hiểu biết
của tôi về Safuran chẳng tiến bộ được bao nhiêu
nhưng ít nhất tôi cũng từng được dịp thấy nó qua
tranh vẽ trong sách nên đã nghĩ thầm: "Ôi chao, đúng là
Safuran
đây rồi!". Có thể là tự hồi nào đó, ở Tokyo người
đã bắt đầu chơi
Safuran như một loại hoa kiểng.
Dù sao, đây cũng là lần đầu tiên tôi mới biết rằng
có những kẻ sinh sống bằng nghề bán
Safuran.
Chuyến lữ hành
lần đó của tôi không biết là để đi đâu nhưng chỉ
nhớ buổi sáng khi rời nhà trọ thì trời đang phủ
đầy sương. Mùa này, trừ các loại hoa trồng trong phòng
được sưởi ấm, không có giống nào còn có thể
mọc được. Cả hoa sơn trà lẫn hoa trà [12]
cũng vậy.
Safuran vốn
có nhiều loại. Tôi quên mất không biết đã đọc được
điều này ở đâu. Tuy nhiên, Safuran mà tôi có dịp
thấy là loại đơm bông hết sức trễ. Nhưng trễ tràng
hơn cả là cơ hội tôi được tiếp xúc với nó. Chứ
ngược lại, cũng có thể xem Safuran là giống hoa
nở sớm nhất. Sớm hơn cả thủy tiên, sớm hơn cả hyacinth
(dạ hương lan) nữa.
Cánh
đồng hoa nghệ (safuran)
Tháng 12 năm ngoái,
trong một tiệm bán hoa ở Shiroyama-shita, tôi thấy người
ta bày hai, ba mươi củ
Safuran đã khô với biển giá
20 tiền (sen) mỗi củ, phía trên hoa đã đâm chồi.
Đang tản bộ, tôi bèn dừng bước, ghé vào mua lấy
hai củ đem về. Lần đó tôi mới có trong tay củ Safuran
cho riêng mình. Mới thử hỏi thăm ông già trong tiệm:
-Ông ơi, nếu đem
mấy củ này cắm xuống đất, liệu nó có ra hoa nữa
không?
-Vâng, có chứ.
Loại này mạnh lắm. Sang năm là ông sẽ có thêm mươi củ
đấy.
-Vậy à?
Mua về xong, tôi
lấy ít đất trong vườn cho vào cái thố và chôn mấy
củ ấy xuống. Tôi đặt thố trong thư trai. Hai ba hôm sau,
hoa héo cả. Sau đó bụi bặm trong phòng phủ lên mặt thố
như rác rưởi thường đọng trong ống tay áo kimono
của người ta [13]
vì phải nói là có một thời gian, tôi không ngó ngàng
gì đến nó.
Thế rồi từ
tháng giêng năm nay, tôi thấy trên mặt chậu bắt đầu
nhú ra những chiếc lá giống như những sợi tơ xanh.
Tôi nào có tưới nước đâu mà những chiếc lá xanh
kia vẫn đâm ra thành chùm và tràn trề nhựa sống.
Cái sức mạnh của mấy củ Safuran này thật là
kinh dị. Nó đã thắng được những điều kiện bất
lợi để sống còn và vươn lên. Nếu đúng như lời
tiên đoán của ông già ở tiệm bán hoa, dần dần rồi
chắc củ của nó cũng sẽ mọc thêm nhiều.
Bên ngoài cửa
kính ngôi nhà, bao nhiêu đóa hoa phúc thọ thảo (fukujusô,
pheasant’s
eyes) không quản sương tuyết, đã nở ra vàng ối. Dạ
hương lan (hyacinth) lẫn hoa bối mẫu (baimo, Fritillaria
verticillata var. Thumbergii) cũng bắt đầu đâm qua mặt đất
để nhú lên những cái mầm xanh. Còn trong thư trai của
tôi thì cái thố đất trồng Safuran vẫn xanh um.
Tuy là trên mặt
thố đất có một lớp bụi bặm giống như rác rưởi
phủ lên nhưng khi nhìn thấy màu xanh của khóm lá, một
người chủ nhà dẫu vô tình đi nữa cũng phải nghĩ
đến việc đôi khi phải tưới cho cây ít nước. Có
phải tôi làm như thế vì lý do ích kỷ (Egoismus) [14]
nghĩa là muốn được nhìn ngắm cho vui mắt hay không.
Hoặc giả là với một mục đích không chút riêng tư
và điều đó vốn đến từ tình yêu ngoại vật (Altruismus) [15]?
Tôi không tài nào hiểu về những động cơ đã tạo
ra hành động nơi con người nếu đem so sánh với sự
bình dị của những chiếc lá Safuran đang đan qua
đan lại để vươn lên kia. Nói đúng ra, tôi không hề
muốn "làm một con nhái đi liếm nhựa cây và dùng nó
để rửa sạch ruột gan mình" [16].
Giờ đây nếu tôi đem nước tưới cây thì cũng như
muốn xen vào công chuyện người khác và quấy rầy
họ. Nhúng tay vào đó là làm một hành động độc
thiện, nhằm nắm phần phải cho mình. Là tàn nhẫn. Là
lạnh lùng. Người đời sẽ đánh giá như vậy. Nếu
nghĩ đến tai tiếng có thể xảy ra, tốt hơn mình không
nên động thủ.
Đây là câu chuyện
giữa mấy củ Safuran và cá nhân tôi. Nếu quí vị
đọc bài này thì biết ngay kiến thức của tôi về
Safuran
thật ít ỏi và kém cỏi! Thế nhưng đối với bất
cứ một vật xa lạ nào, dù chỉ chạm phớt vào nhau
đi nữa, cũng khó lòng nói là giữa Safuran và
tôi không có tiếp điểm nào. Ý nghĩa luân lý của câu
chuyện chỉ có bấy nhiêu.
Trong vũ trụ này,
cho đến ngày nay, Safuran đã sống cuộc đời của
Safuran.
Tôi từng tồn tại như tôi đang tồn tại. Từ rày về
sau, Safuran vẫn sống cuộc đời của nó và tôi có lẽ
cũng sẽ tiếp tục sống cuộc đời của tôi thôi.
(Để tặng chị
Odake Kazue) [17].
MORI ÔGAI
Chú thích:
[1]
- Iwaya Sazanami (1870-1933), một người đồng thời đại
với Mori Ôgai và là nhà văn viết truyện đời xưa và
truyện nhi đồng sớm nhất ở Nhật.
[2]
- Bà Mori Kiyoko (Seiko) (1819-1906), xuất thân từ gia đình
Kijima tỉnh Yamaguchi.
[3]
- Tức "Bách nhân nhất thủ", thi tuyển 100 bài Waka
danh tiếng của 100 nhà thơ thời Heian -mỗi người 1 bài
- do thi hào Fujiwara Teika chọn lọc. Xem bản dịch toàn văn
của NNT trên mạng.
[4]
- Ông Mori Gensen (? - 1861) sau đổi tên là Hakusen, thày
thuốc cho phiên chủ phiên Tsuwano, tỉnh Shimane.
[5]
- Lối kể truyện kèm theo tiếng đàn samisen, trên
sân khấu múa rối Jôruri, tương truyền bắt nguồn vào
năm 1684 ở Ôsaka với nghệ sĩ Takemoto Gidayuu.
[6]
- Ông Mori Seitai (1836-1896), người gốc Suwa tỉnh Yamaguchi
bây giờ, vào ở rễ trong gia đình Mori sau khi cưới bà
Mineko, mẹ của Ôgai. Lan học tức là học vấn Tây phương
qua tiếng Hòa Lan.
[7]
- Ôgai học tiếng Hòa Lan từ năm lên 8.
[8]
- Safuran - tức Saffran trong tiếng Hòa Lan - có nghĩa
là nghệ, một loại cây cỏ, bên dưới có củ, ruột
màu vàng, hương thơm hắc, có thể dùng làm gia vị, thuốc
nhuộm hay thuốc chữa bệnh.
[9]
- "Thực học khải nguyên" (Sách nhập môn về cách
trồng trọt) gồm 3 quyển do Utagawa Yôan soạn ra vào năm
1834.
[10]
- Tên địa điểm nơi Ôgai sinh sống trong khu Bunkyô,
nội thành Tokyo.
[11]
- Tức Đông Chiếu Cung ở Ueno (Ueno Tôshôguu), không
phải đền thờ Tokugawa Ieyasu cùng tên ở Nikkô (Nikkô Tôshôguu).
[12]
- Hai loại cây thuộc họ tsubaki, nở những đóa hoa
nhỏ và trắng vào dịp cuối thu.
[13]
- Ông tay áo thụng của kimono thường được khâu dính
giuống như cái túi đựng đồ như ví tiền, khăn tay
vv... nên hay có rác.
[14]
- Tiếng Đức trong nguyên văn.
[15]
- Tiếng Đức trong nguyên văn.
[16]
- Có thể đến từ một thành ngữ Nhật Bản ý
nói "dùng một câu chuyện không liên quan gì đến mình
để bày tỏ nỗi lòng một cách gián tiếp".
[17]
- Bà Odake Kazue là một nữ biên tập viên của tạp
chí Bankôka (1893-1966) nơi đăng tải Safuran. Bankôka (Ban hồng
hoa) cũng là tên chữ Hán của Safuran.
Thư
mục tham khảo:
1) Mori Ôgai, Safuran
(Hoa Nghệ, 1914) , trong Takasebune, Saigo no ikku hoka (Tuyển tập
những bài văn của Ôgai được đưa vào sách giáo khoa:
Thuyền Giải Tù, Câu Nói Cuối và những truyện khác)
(2017) do Chikuma Shôbô, Tôkyô xuất bản. Nguyên tác Nhật
ngữ.
2) Hình ảnh mượn
từ Internet.
|