Ảnh minh họa
Tôi
yêu thành phố về đêm. Tôi yêu những khu vực tràn ngập
ánh đèn của nó.
Chắc anh đã biết rằng tôi
thích cảnh hoàng hôn trên khu phố Ginza hay lúc trời về đêm
ở xóm Yoshiwara hơn là vầng trăng vùng Hakone hay những ngọn
sóng của bãi Ô-iso [1]
và đã nằm nhà một mình ở Tôkyô suốt vụ hè thay vì ra
một khu nghĩ dưỡng nào đó.
Vì vậy, không nói anh cũng
hiểu ngay là khi đặt chân đến New York, những buổi tối
của cái thành phố vĩ đại trên Tân Đại Lục này - nơi
mà không nơi đâu là không có ánh đèn - đã đem đến cho
tôi biết bao nhiêu lạc thú. Ôi, New York quả là cái "bất
dạ thành", một nơi hoàn toàn không có bóng đêm. Đó là thế
giới của những ánh điện sáng trưng, chói lòa mà lại kỳ
ảo, nếu sống ở bên Nhật thì không thể nào tưởng tượng
nổi.
Ánh mặt trời vừa tắt và
màn đêm buông xuống là cứ y như rằng tôi đã tự động
cất bước ra khỏi nhà. Nếu như tôi không thấy cái thế
giới đầy đèn đuốc đó, dù là ở ngoài phố, bên góc đường,
trong kịch trường, hiệu ăn, nhà ga, khách sạn hay phòng khiêu
vũ hoặc những nơi khác, thì tôi sẽ cảm thấy buồn bã và
cô độc đến độ rũ rượi như người không còn sinh khí.Màu
sắc của những vầng ánh sáng đó đã trở thành những thứ
tuyệt đối cần thiết giúp cho tôi tồn tại.
Tôi yêu các thứ màu sắc đó
không những ở trình độ bản năng mà cả trong lãnh vực
tri thức nữa. Chúng đỏ như máu, tinh ròng như vàng và đôi
khi xanh biếc như pha lê.... nhưng không hiểu vì sao tất cả
những màu sắc ấy, vẻ lấp lánh ấy đã lôi cuốn tôi một
cách lạ lùng. Không có cái gì khác, ngay nhan sắc một người
đẹp với đôi mắt xanh sâu thẳm hay vẻ sáng láng của những
viên ngọc quí, nếu đem ra mà so sánh, vẫn chưa thấm vào
đâu.
Dưới cái nhìn lãng mạn của
tôi thì những thứ đèn đuốc ấy đã xuất hiện để tượng
trưng cho từng dục vọng, từng hạnh phúc và từng khoái lạc
của con người. Cùng lúc, hình như chúng cũng gợi cho ta thấy
rằng chúng ta có năng lực để đi ngược lại ý chí của
Thượng Đế, chống lại được những định luật thiên nhiên.
Đám đèn đuốc ấy chính là thứ ánh sáng đã cứu chúng
ta ra khỏi bóng tối và đánh thức chúng ta dậy từ giấc
ngủ của sự chết. Phải chăng những chùm ánh sáng này mới
là cái mặt trời nhân tạo và những đóa hoa tội lỗi đã
dám khiêu chiến Thượng Đế và khoe khoang sức mạnh của
sự hiểu biết con người?
Ôi, nếu như thế thì quả
là cái thế giới chúng ta có được nhờ ở những vầng sáng
đó là một thế giới mộng huyễn của ảo thuật. Bởi vì
nhờ có ánh sáng của đám đèn đuốc kia mà những nàng con
gái hư thân trắc nết đã trở thành xinh đẹp hơn cả những
bà vợ đức hạnh cũng như những cô em trinh trắng, nhờ có
nó mà khuôn mặt của một tên đạo tặc trở nên bi tráng
chẳng thua gì khuôn mặt của Chúa Cứu Thế, lại nhờ nó
hình dáng của một kẻ ăn chơi đọa lạc cũng trở nên cao
cả không thua chi phong thái một bậc vương hầu. Một thi nhân
sa đọa không viết nổi những vần thơ ca tụng Đức Chúa
Trời hay sự bất tử của linh hồn nhưng, lần đầu tiên,
nhờ những nguồn ánh sáng như vậy, đã tìm được cái đẹp
đến từ đen tối hay tội lỗi. Chẳng hạn những câu sau
đây của Baudelaire:
Voici le soir charmant, ami du
criminel,
Il vient comme un complice, à
pas de loup, le ciel
Se ferme lentement comme une grande
alcôve,
Et l’homme impatient se change
en bête fauve.
(Này xem, buổi tối dịu dàng,
bạn của phường gian ác,
Với những bước chân âm thầm,
đã đến làm đồng lõa với hắn ta.
Bầu trời khép từ từ thành
căn buồng tình rộng lớn,
Và kẻ đang khoắc khoải đợi
chờ sẽ hóa thân thành thú dữ)
Tối hôm qua, khi những ánh
đèn thành phố vừa mới bật lên, tôi đã ra khỏi nhà. Sau
khi ăn tối ở một quảng trường đông người tụ tập và
tiếng nhạc tuôn ra như suối chảy, tôi bèn ghé vào một rạp
hát nhưng không có dụng ý xem kịch mà chỉ để mình được
say sưa với ánh sáng của những ngọn đèn đang nhấp nháy
trên vòm cao của trần rạp mạ màu kim loại, trên cái sân
khấu rộng bao la và trong những lô ghế bày chung quanh. Do đó,
tôi đã chọn nơi đang diễn một vở nhạc kịch hài hước
với cảnh nhiều nàng vũ công nhảy múa và hát những bài
hát bình dân thật ồn ào.
Sau khi đã tiêu hết phân nửa
buổi tối ở đó, tôi theo đám đông ra bên ngoài giữa tiếng
nhạc một điệu luân vũ (Waltz) được chơi để báo hiệu
giờ đóng cửa của rạp, thì bỗng cảm thấy gió lạnh đang
thổi thốc vào mặt ...Tôi không bao giờ quên được cảm
giác dễ chịu của giờ phút này, nó luôn luôn đến với
tôi lúc vừa bước ra khỏi một rạp hát. Cảnh tượng hiện
đang bày ra chung quanh thành phố hoàn toàn tương phản với
sự xô đẩy chen lấn hồi chiều khi tôi vừa mới bước vào
trong rạp. Giờ đây, tất cả đều đã được bọc trong bóng
tối của trời khuya. Nó làm cho tôi có cảm tưởng mình đang
đứng giữa một con phố lạ. Bỗng nhiên tôi thèm được
bước đi mà không cần định hướng và trong lòng lúc ấy
là một nỗi bất an mơ hồ đi kèm với tình cảm hiếu kỳ.
Thực thế, cái duyên dáng của
một thành phố về khuya chính là tình cảm hồi hộp, âu lo
cũng như những điều bí mật mà sự nghi ngờ và trí tò mò
đã gợi cho chúng ta. Giả dụ nếu có một ai đó đang đứng
thơ thẩn ở đằng sau một cửa hiệu mà đèn đóm đã tắt
hết và cửa nẻo đóng cả rồi thì tôi sẽ lấy làm tò mò
và tự hỏi người ấy là ai, anh ta đang định làm gì thế,
đến độ có thể nghi rằng anh ta là một gã ăn trộm. Còn
như khi tôi thấy viên cảnh sát oai vệ trong bộ đồng phục
đứng ở góc một con đường hẻm thì dù không có chứng
cớ gì, tôi vẫn nghi là đang có một vụ án mạng xảy ra
đâu đây. Thấy mấy người đàn ông đội mũ chụp tới mắt
và tay thọc sâu trong túi quần, tôi thấy họ phải là những
kẻ vừa thua bạc nhẵn túi và đang tìm cách tự sát. Một
chiếc xe ngựa từ bóng tối vụt ra, chạy qua mặt tôi rồi
lao vào trong một khoảng tối khác khiến tim tôi thót lên và
tuy không duyên cớ gì cũng đâm ra hồi hộp, hình dung một
vụ ngoại tình hay một mối giao du bất chính của người
đang ngồi trong xe, đặc biệt khi lại còn nhìn thấy ở ngoài
xa, đằng trước những khách hay tiệm rượu, có bao ánh đèn
tỏ ngời như khuôn mặt một kẻ chiến thắng đang cười
lên trong bóng tối. Những hình ảnh đó như muốn nhắc tôi
rằng tất cả mọi khoái lạc của trần thế chỉ nằm ở
bên trong mấy chốn đó thôi. Bóng dáng những người đàn
ông và đàn bà lũ lượt đi qua đi lại và ra vào nơi đó
trông chẳng khác nào những cánh bướm đang bay lượn vui đùa
trong cái hoa viên của tình yêu phóng đãng. Phải chăng tiếng
cười và giọng nói của họ, đôi khi nổi lên ở chỗ này
chỗ nọ là thứ âm nhạc ngọt ngào và quyến rũ không gì
sánh được?
Đó là cái giờ "định mệnh"
đáng sợ đấy, bạn ạ. Những người đàn bà chợt xuất
hiện vào giờ phút đó, đúng ngay thời điểm đó, trong ánh
đèn nhấp nháy của đường phố, tà váy phất phơ theo gió
và phả làn hương của phấn sáp họ trang điểm vào trong
bầu không khí của trời đêm, chỉ có thể là những bóng
ma của đêm tối. Họ hóa thân từ tội lỗi và điều ác.
Họ là những ma nữ sống trong thế giới của ma vương đã
được Mephisto gọi đến trước ngõ nhà người thiếu nữ
có tên là Maguerite. Những ma nữ đó lại có khả năng đọc
được từng ý nghĩ của mấy chàng trai trẻ đang đi lang thang
trong đêm, rõ từ quá khứ cho đến tương lai của mỗi người.
Vì vậy mà khi một trong những
chàng trai trẻ ấy nghe họ bảo dừng chân và để họ đến
sát bên cạnh, anh ta sẽ cảm thấy rằng, qua những điềm
gỡ đang hiện ra trước mắt, anh biết những gì phải xảy
ra cho anh như đã từng xảy đến cho bao người đi trước
và anh sẽ cúi đầu chấp nhận số phận bằng cách nắm lấy
bàn tay lạnh lẽo của sự ô nhục.
Sau khi đã ra khỏi rạp hát,
tôi tiếp tục tản bộ dọc khu Broadway ngay giữa trời khuya,
đi ngang qua những ngôi nhà cao chừng hai mươi tầng hay hơn
nữa đang vươn mình lên như những cột đá trên quảng trường
Madison Square và cứ tưởng đó là một lâu đài trong mộng.
Chẳng bao lâu, tôi đã đến được một vùng cây cối um tùm
trên quảng trường Union Square và thấy có những ánh đèn
chiếu qua kẽ lá. Khi đến gần hơn nữa, tôi lại nghe có
tiếng nước róc rách từ một bồn phun nằm đằng sau thân
cây. Tiếng nước chảy trong đêm yên tĩnh nghe như tiếng ai
đang sụt sùi. Vì thế, tôi đã ngồi xuống một cái băng
dài và nhìn những tia sáng đang phản chiếu từ mặt nước,
lúc lay động lúc vỡ tan, để cho những mơ mộng viễn vông
dậy lên trong đầu.
Tôi nghe có tiếng chân ai đang
đến gần và tiếng thì thào nào đó đi vào lỗ tai mình,
và một lúc sau, tôi đã tiếp tục cuộc tản bộ...Thế nhưng
tôi đã rơi vào bẫy bằng cách nào thế nhỉ? Vì tôi nhận
ra là mình đang bước bên cạnh một "ma nữ của bóng đêm",
kẻ đang kéo tay tôi dắt vào một con đường hẻm xa lạ phía
trong.
Tôi nhìn chung quanh và nhận
ra có nhiều căn phố nằm dọc theo hai bên con hẻm ấy. Đó
là những căn nhà xây bằng gạch đỏ nhưng đã ố đen vì
bụi bặm, còn cửa nẻo thì xập xệ, bên trong cửa sổ lại
tối om om. Sau khi leo lên vài ba bậc đá để đi vào cổng
chính, bóng tối đã nằm phục sẵn ở đó khiến tôi ngần
ngại. Không những thế, từ dưới tầng hầm, một mùi ẩm
mốc dậy lên và đâm thốc vào hai cánh mũi. Người đàn bà
chợt dừng chân, kéo tôi ra trước ngọn đèn đường bên
cạnh để quan sát bề ngoài của tôi trong chốc lát rồi thoáng
nở một nụ cười, cho tôi thấy một hàm răng trắng và đôi
môi son đỏ.
Tôi không khỏi rùng mình một
cái nhưng vẫn không đủ ý chí gỡ bàn tay nàng ra để tháo
chạy. Thay vào đó là một sự thèm khát bỏng cháy đang lôi
kéo, biến tôi thành một kẻ tự nguyện tiến lên để sa
vào trong một hố đen.
Thật lạ, không hiểu sao con
người lại thích cái ác. Tại sao hương vị của trái cấm
mới thơm ngon? Sự cấm cản nhân đôi cái ngọt ngào, sự
phạm tội làm gia tăng hương vị. Cũng như dòng nước trên
núi không thể chảy xuống như điên cuồng nếu không bị
đá chắn, con người sẽ không thể nào khám phá được sự
hào hứng do tội ác đưa tới hay những khoái lạc yêu ma trừ
phi anh ta có lương tâm và đạo đức.
Tôi để cho mình được dắt
đi từ cái cửa vào tối tăm đó để leo lên một cầu thang
cũng tối mù. Nhân vì trên mặt cầu thang không trải thảm
cho nên tiếng bước chân của chúng tôi âm vang suốt ngôi
nhà vắng lặng như tiếng những tảng băng bị đạp lên đang
vỡ rụm và rồi một luồng hơi lạnh và ẩm không biết từ
đâu đến, quệt lên trên cổ áo tôi như mái tóc của một
người chết.
Chúng tôi leo lên tầng hai rồi
tầng ba và cuối cùng, tôi nghĩ là tầng năm. Người đàn
bà bèn ngoáy lỗ khóa đánh cách để mở cửa phòng và đẩy
tôi vào bên trong.
Phòng cũng tối tăm như bên
ngoài nhưng khi người đàn bà bật ngọn đèn khí đốt lên
thì đám mây của sự bí mật đã tiêu tan. Và ngay sau đó,
như nhờ phép lạ của cây đũa thần, một quang cảnh đã
hiện ra trước mắt tôi với cái ghế xô-pha rách nát, cái
giường cũ, tấm kính soi đã mờ, bồn rửa tay đầy nước
và vài thứ tủ bàn tạp nhạp nằm rải rác. Hình như căn
phòng này sát mái và dù trần thấp và bốn vách đều loang
lổ, vẫn có vẻ là nơi chủ nhân có thể sinh hoạt thoải
mái nếu ta nhìn những bộ quần áo ngủ nàng đã thay ra, mấy
bộ đồ lót và bí tất cũ nàng vứt đó. Nhưng dù sao, đây
chỉ là sự thoải mái mà bạn thấy được khi ghé mắt dòm
vào một cái chuồng chó với mớ rơm rạ bày bừa dùng làm
ổ cho nó nằm hay một tổ chim ngập đầy phân chim.
Trong khi tôi còn đang nhìn quanh
quất thì người đàn bà đã gỡ nón xuống và cỡi quần
áo, rồi, chỉ mặc mỗi một cái sơ-mi ngắn màu trắng, nàng
ngồi lên chiếc ghế bên cạnh tôi và bắt đầu hút thuốc.Tôi
khoanh hai tay thật gọn và chăm chú nhìn nàng trong im lặng
như một nhà khảo cổ đang ngắm nghía bức tượng Sphinx (Nhân
Sư) giữa sa mạc Ai Cập.
Hãy nhìn xem cái cách nàng bày
nguyên đôi chân đi tất kéo đến tận đùi, ngồi tréo ngoảy
một chân lên đùi bên kia rồi ưỡn người cho phần trên
của thân hình ngả ra đằng sau để lộ đôi vú dưới lần
áo lót cổ khoét thật trễ, rồi giữ cái gáy với hai cánh
tay trần đang vươn lên và ngữa mặt, nhả khói lên trần
nhà...Ôi chao! Phải gọi nó là gì đây nếu không phải là
một bức tượng đá vừa tàn nhẫn vừa can trường, tượng
trưng cho sự thách thức và ô nhục, vừa chẳng sợ Trời
vừa chẳng sợ Người và dám lăng nhục tất cả mọi thứ
đạo đức tốt đẹp trên đời? Có phải khuôn mặt này đang
tìm cách biểu lộ cái đẹp đầy kịch tính của một mặt
trời hoàng hôn đang chìm dần trên một ngôi thành cổ đơn
côi. Nó muốn chiến đấu chống lại sự tàn phá của "Thời
Gian" bằng những phương tiện như phấn, son, tóc mượn và
đồ trang sức giả. Màu của mắt nàng - dưới đôi mi nặng
nề, không thể biết là còn thức hay đang ngũ - có thể xem
như bề nổi của cái đầm lầy rộng lớn chứa một thứ
hơi ngạt độc địa. Không hiểu nhà thơ Baudelaire, người
cha của trường phái Đồi phế (Decadence) có ám chỉ về đôi
mắt của loại đàn bà ấy không khi ông viết:
Quand vers toi mes désirs
partent en caravane,
Tes yeux sont la citerne où
boivent mes ennuis.
(Khi thèm muốn của tôi tiến
về phía em như đoàn xe thương đội.
Đôi mắt em sẽ làm dịu cơn
khát của hồn tôi đang khốn đốn...)
Hoặc như;
Tes yeux où rien ne
révèle
De doux ni d’amer
Sont deux bijoux où se mêle,
L’or avec le fer.
(Đôi mắt em nơi không gợi
lên sự dịu ngọt hay cay đắng,
Vì là hai món nữ trang trộn
cả vàng lẫn sắt).
Hỏi ai là người con gái nào
có được đôi mắt lạnh lùng như thế?
Từ đây tôi không còn có thể
thỏa mãn với vẻ yêu kiều của một nàng Koharu (nhân vật
trong vở tuồng "Chết chung vì tình ở Amishima" (Shinchuu Ama
no Amishima) của soạn giả Chikamatsu Monzaemon) hay nét u sầu
của nàng Violette [2]
hoặc Trà Hoa Nữ (Tsubaki-hime) Marguerite nữa. Họ quá yểu điệu,
yếu ớt. Họ là những đóa hoa sẽ tan nát bẻ bàng dưới
những trận mưa có tên là tập quán và luân lý, họ thiếu
sự bất khuất của một loài độc thảo vốn không bao giờ
tàn héo trước cơn bão của trừng phạt hay kỷ luật mà luôn
luôn vươn về phía bầu trời của sự chết và sự hủy diệt
như những chùm dây leo độc hại và những chiếc lá tội
lỗi.
Hỡi nữ vương của điều
ác! Khi tôi cúi cái trán chất chứa đầy phiền não xuống
đồi ngực của nàng nơi mà dòng máu lạnh kia vọng lên âm
thanh của những giọt vang đang nhỏ tí tách dưới đáy hầm
chứa rượu tối tăm, tôi không cảm thấy cái tình yêu đến
từ một người tình nhưng là sự thân mật ruột rà của
một cô chị cô em, sự che chở và đằm thắm của một bà
mẹ hiền.
Cuộc sống phóng đãng thường
gắn liền với cái chết. Thế thì bạn cứ việc cười cho
sự rồ dại của tôi đi. Chẳng là tối hôm qua tôi vừa ngủ
với một cô gái làng chơi và chúng tôi đã nằm ngủ say bên
nhau như "một thây chết kề bên thây chết khác".
(New York, tháng 4 năm 1907)
......
Dịch
ngày 26/08/2021
Thư mục tham khảo:
1 - Nagai Kafuu, Yoaruki trong Amerika
Monogatari (Truyện Bên Mỹ), tùng thư Iwanami Bunko, Nxb Iwanami,
Tôkyô.Sơ bản năm 1952, tái bản lần thứ 4 năm 2005. Nguyên
tác Nhật ngữ.
2 - Nagai Kafuu, Night Stroll trong
American Stories do bà Iriye Mitsuko dịch Yoaruki từ Zenshuu (Toàn
tập) về Nagai Kafuu , tập 18 của nhà Iwanami ra đời năm 1964.
Columbia University Press (London, New York) xuất bản năm 2000. Bản
ngoại văn tham chiếu.
__________
[1]
- Xưa là bãi biển để tắm đầu tiên của Nhật, được
mở ra vào thời Minh Trị (1885), nằm gần Yokohama. Có nhiều
biệt thự nghỉ mát.
[2]
- Nhân vật nữ trong vở nhạc kịch Traviata của Ý.
|