Nguyễn
Du đi qua nước Sở, quê hương Khuất Nguyên nhiều lần.
Năm
1788- 1790 trong thời tuổi trẻ
đi giang hồ Trung Quốc lượt
đi và về và năm 1813-1814 làm
Chánh Sứ sang Bắc Kinh lượt đi và về đều đi theo
sông Tương từ Quảng Tây qua Động
Đình Hồ đến Hán Dương và ngược lại.
Khuất Nguyên sống thời Chiến Quốc (390-278
trước Công nguyên) khi 12 nước lớn thời Xuân Thu đã hợp
thành 7 nước lớn, tranh chấp quyền bính nhằm thống nhất
Trung Quốc. Nước Sở của Khuất Nguyên, từng là một xứ
sở hùng mạnh đang bước vào thời kỳ suy vong. Khuất Nguyên
nhà tư tưởng và chính trị lớn đương
thời được Sở Hoài Vương trọng dụng phong làm Tả
Đồ,
một chức quan thân cận với nhà vua nắm quyền Thủ
Tướng, nhưng các chủ trương cải cách chính trị ông ngày
một mâu thuẩn với quyền lợi các quan đại
thần trong triều: Thượng quan đại phu Cần Thương, Lệnh
doãn Tử Lan, Tư mã Tử Tiêu, Nam Hoàng hậu của Hoài
Vương Trịnh Tụ.. lập mưu dèm pha Khuất Nguyên hiểm độc.
Vua Sở Hoài Vương ngu muội và bất lực dần dần xa lánh
Khuất Nguyên, thậm chí còn bắt ông đi
đày. Trải qua 20 năm phiêu bạt. Khuất Nguyên vẫn trung
thành với lý tưởng của mình, không khoan nhượng, thoả hiệp
với gian thần. Ông cũng không rời xa tổ quốc nước Sở,
ngược lại ông ngày càng tha thiết với nguyện vọng, nỗi
khổ nhân dân. Thi ca ông thoát lên tận đáy lòng, nỗi khổ
đau của đất nước và nỗi
bất hạnh của mình, nhìn đất nước ngày một suy sụp lụn
bại. Từ khi bị triều đình ruồng bỏ ông viết Ly tao, Cửu
chương, Cửu ca, Thiên vấn.. Những vần thơ hùng tráng tuyệt
tác Ly tao dài 373 câu, 2473 chữ là thiên trường ca đầu tiên
lớn nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ly Tao là tác
phẩm tiêu biểu của Khuất Nguyên. Ban Cố đời Hán giải
thíchxxx xxx: Ly là gặp phải, Tao là lo âu. Tư Mã Thiên cũng
nói Ly Tao là ly ưu. Thơ Ly Tao mở đầu cho loại Sở từ cho
các tác giả nối theo Khuất Nguyên như Tống Ngọc, Cảnh Sai,
Đường Lặc.. Nếu Khuất Nguyên không bị đi
đày thì ông sẽ không viết thơ Ly tao nối theo Kinh Thi,
Quốc phong thời Xuân Thu do Khổng Tử
san định. Mã Mậu Nguyên gọi đây là ngọn hải đăng
rực rỡ rọi sáng con đường phát triển thi ca Trung Quốc
hai ngàn năm nay. Vua Sở Hoài Vương bị nhà Tần dụ
dỗ bắt làm tù binh, chết trong nhà tù nước Tần. Con trai
Sở Hoài Vương là Khoảnh Tương Vương kế vị lại còn ngu
muội hơn cha, năm 278 trước Công nguyên, đại tướng Bạch
Khởi nhà Tần chỉ huy công phá Sính
đô, kinh thành nước Sở, thiêu hủy lăng
mộ các triều đại nước Sở, cơ
đồ nước Sở hoàn toàn sụp đổ. Lúc này Khuất Nguyên
62 tuổi, trước quang cảnh đất nước
điêu linh, ông trút niềm uất hận vào bài Ai sinh và
trước khi chết lại viết Hoài sa. Ngày mùng năm
tháng năm 278 trước Công nguyên nhà thơ Khuất Nguyên
tự vẫn, cột đá trầm mình
trên dòng sông Mịch La thuộc tỉnh Hồ Nam vào giữ trưa giờ
ngọ. Từ đó nhân dân tết Đoan ngọ
mùng 5 tháng 5, dân chúng có phong tục bơi thuyền rồng
trên sông, ném bánh gói lá xuống sông mong giao long ăn bánh
mà chớ rỉa xác Khuất Nguyên. Khuất Nguyên được xem là
thủy tổ của văn học chữ Hán. Ly Tao trở thành tiếng gọi
chung của thi ca. Khuất Nguyễn được
tôn vinh là nhà văn lớn nhất trong 10 nhà văn lớn Trung
Quốc. Năm 1953 kỷ niệm 2230 ngày
mất Khuất Nguyên, Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới đã thông
qua quyết nghị xác định Khuất Nguyên là Nhân Vật Văn Hóa
Thế Giới và kỷ niệm ông.
Nguyễn Du có nhiều bài thơ nhắc đến Khuất
NguyênTrong Bắc Hành tạp lục có bài :
Tương Đàm điếu Tam
Lư Đại Phu (2 bài)
Tương Âm dạ
Phản Chiêu Hồn
Bác Giả Nghị
Trường Sa Giả Thái phó.
Ngũ nguyệt quan cạnh
độ
Thương Ngô crúc chi ca.
NGUYỄN DU ĐẾN TƯƠNG
ĐÀM VIẾNG TAM LƯ ĐẠI PHU
Nguyễn Du đến huyện
Tương Đàm thuộc tỉnh Hồ Nam thời đi giang hồ năm 1789 vào
tháng 5, lúc có đua thuyền kỷ niệm tết Đoan Ngọ và lúc
đi sứ năm 1813 lại qua đây
vào tháng 7, bài thơ Đến Tương
Đàm viếng Tam Lư Đại Phu có câu: Chỉ thấy gió
thu thổi lá rụng trên sông Nguyên Tương, chứng tỏ bài
thơ này làm vào mùa thu lúc đi sứ
năm 1813.. Nơi đây Nguyễn Du làm thơ điếu Khuất Nguyên. Tam
Lư Đại Phu, chức chưởng quản các quan thuộc vương tộc
nước Sở (họ Cảnh, họ Chiêu, họ Khuất). Khuất Nguyên
cũng là người của vương tộc nưóc Sở. Khuất Nguyên là
bậc hiền lương, hiếu tu nhân, người sửa sang các đức
tính tốt. Đã hai nghìn năm bậc
hiền lương đã qua đời. Đất này còn thoang thoảng
mùi hoa lan, hoa chỉ. Bị đuổi xa tổ
quốc ba năm đau buồn. Muôn đời Sở Từ của ông vẫn
là áng văn chương tuyệt tác. Trên sông đầy cá rồng, nắm
xương tàn không còn nữa. Bên bãi cỏ sông chòm đỗ nhược
có thêm những giống hoa thơm. Nhìn hết tầm mắt đau lòng
vì chẳng biết dấu tích cũ nơi nào. Chỉ thấy gió thu thổi
lá rụng trên sông Nguyên Tương.
Hồn oan người nước Sở chôn vùi tại chốn
này đây. Trông vời khói sóng mênh mông, chẳng biết bờ bến.
Ví ông được vua Sở Hoài Vương tiếp tục trọng dụng ban
hiến lệnh trong thiên hạ. Thì làm gì có tác phẩm Ly Tao của
ông nối tiếp Kinh Thi. Nghìn xưa có ai thương người tỉnh
táo. Bốn phương có chốn nào gửi lòng cô trung. Đời
nay trang phục ham điều lạ, có đeo hoa tiêu, hoa lan nhưng
chẳng giống ông chút nào.
ĐẾN TƯƠNG ĐÀM
VIẾNG TAM LƯ ĐẠI PHU
I
Hai nghìn năm khuất bậc hiền nhân,
Thoang thoảng nơi này hương chỉ lan.
Tổ quốc ba năm buồn
bị đuổi,
Sở từ vạn thuở
tiếng văn chương.
Cá rồng sông đó
xương tàn mất
Đỗ nhược bên
bờ cỏ vẫn thơm.
Hút mắt lòng đau nhà chẳng thấy
Gió thu lá rụng vượt Nguyên Tương.
I I
Nước Sở hồn oan tán giữa dòng,
Mắt mòn trông khói sóng mênh mông.
Ví ban được lệnh
trong thiên hạ,
Nào có Ly tao nối Quốc phong ?
Nghìn thuở ai thương người một tỉnh.
Bốn phương ai gửi nỗi lòng trong.
Đời nay trang phục
ham điều lạ
Đeo một cành
lan chẳng giống cùng.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TƯƠNG ĐÀM ĐIẾU TAM
LƯ ĐẠI PHU
I
Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,
Thử địa do văn
lan chỉ hương.
Tông quốc tam niên bi phóng trục,
Sở từ vạn cổ
thiện văn chương.
Ngư long giang thượng vô tàn cốt,
Đỗ nhược châu
biên hữu chúng phương.
Cực mục thương tâm hà xứ thị,
Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương.
I I
Sở quốc oan hồn tán thử trung,
Yên ba nhất vọng diểu hà cùng.
Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ,
Hà hữu Ly tao kế Quốc phong ?
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh,
Tứ phương hà xứ thác cô trung ?
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.
Sông Tương, chi nhánh chính của sông Trường
Giang (Dương Tử) dài 856 km phát nguồn từ Lâm
Quý huyện Hưng An tỉnh Quảng Tây, chảy về phía bắc đến
huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam, có sông Tiêu, chảy vào
nên gọi là sông Tiêu Tương, chảy về đông bắc hợp với
sông Chung ( Liên Thủy), ở huyện Hành Dương thành sông Chung
Tương, lại chảy về bắc, khúc hạ lưu hợp với sông Nguyên
mà thành sông Nguyên Tương, chảy ra Hồ
Động Đình cả ba gọi là Tam Tương. Sông Tương là
con đường thủy tiện lợi đi từ
Quảng Tây đến Hồ Động Đình vào Trường Giang. Kinh
Thi có câu: Quân tại Tương giang
đầu,Thiếp tại Tương giang vĩ, Tương giang bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thủy. Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp
ở cuối sông Tương, Sông Tương không gặp mặt, Cùng
uống nước sông Tương. Sông Tương là nguồn cảm hứng
cho nhiều thi ca Trung Quốc và Việt Nam. Có nhiều thành phố
lớn trên con đường này: Toàn Châu, Vĩnh Châu, Lỗi Châu,
Hành Dương, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Vũ Hán..Các
sứ đoàn Việt Nam triều cống thường dùng con sông
này đi một mạch vào Hồ Động Đình
rồi lại theo đường sông Trường
Giang(sông Dương Tử) đến sông Giang Hán, nếu đi Tràng
An thì ngược sông Hán. Thành phố Vũ Hán thủ phủ tỉnh Hồ
Bắc ( ngày nay hơn 9 triệu dân) Sông Dương Tử và sông Hán,
chia thành phố làm 3 khu: Vũ Xương, Hán Khẩu, Hán Dương, nơi
đây có Hoàng Hạc Lâu. Ngày xưa chưa có xây cầu, đi
đường thủy tiện lợi, khỏi chuyển vận đồ cống phẩm
xuống sông đi thuyền rồi lại lên xe ngựa, mỗi lần
qua sông là mất cả ngày. Đi xuôi dòng sông Tương, chèo và
buồm đi theo dòng nước, nhưng đi ngược dòng thì chèo vất
vả, đó là lý do ngày xưa đi sứ từ Nam Quan, ở lại Bắc
Kinh chỉ 20 ngày mà Nguyễn Du mất 12 tháng rưỡi.. Đi
đường Bắc Kinh từ Vũ Hán
phải đi đường bộ phải qua sông Hoàng Hà, sông Dịch
Thủy... Hoặc phải đi xuôi dòng sông Hán bắt đường Kênh
Đại Vận Hà từ Hàng Châu đến Thiên Tân, Bắc Kinh thủy
trình dài 1800 km. Trên sông Tương và kênh Đại Vận Hà từ
thế kỷ thứ 5, thuyền buôn tấp nập. Khi đi giang hồ
Nguyễn Du đã thành nhà sư Chí Hiên, đội mũ vàng đi
nhờ các thuyền buôn : Giang Nam, Giang Bắc nhất nang không
Giang Bắc, Giang Nam một túi không; Lữ thực giang tân hựu
hải tân, Hết ở ăn nhờ biển
đến sông; Vạn lý hoàng quan tương mộ cảnh, Muôn dậm
mũ vàng chiều nắng xế( bài Mạn Hứng). Đến nơi có
chùa, thắng cảnh Nguyễn Du xin vào trú tạm và tụng Kinh Kim
Cương làm công quả để được bữa
ăn rau đậu nhà chùa. Ngã độc Kim Cương thiên biến
linh. Tôi tụng Kinh Kim Cương nghìn lượt. (bài Phân Kinh
thạch đài) Mỗi ngày tụng một
lần Nguyễn Du đã tụng kinh Kim Cương trong ba năm..
Bài Tương Âm dạ, Đêm ở Tương Âm, một huyện
thuộc tỉnh Hà Nam quảng sông Tương này gần với sông Mịch
La nơi Khuất Nguyên trầm mình, Nguyễn Du nhớ đến Khuất
Nguyên: Đầy mắt toàn là sắc
thu, khắp sông nơi nào cũng ánh trăng
sáng. Đêm nay vời trông khung cảnh hiu quạnh. Chạnh
nhớ Khuất Nguyên người xưa bị giáng chức lưu đày. Nước
thu từ phía Tây đổ lại. Mênh mang thông với Hồ Động
Đình. Đêm yên tỉnh thôi đừng ngâm nga nữa, chớ làm
cho loài giao long kiếp sợ nhốn nháo khiến cho hồn Khuất
Nguyên không yên được.
ĐÊM Ở TƯƠNG
ÂM
Sắc thu đầy đôi
mắt,
Khắp sông ánh trăng
đầy.
Đêm quạnh
hiu cảnh vắng,
Nhớ người xưa lưu
đày.
Nước thu hướng
Tây đến,
Mênh mang thông Động
Đình.
Đêm quạnh đừng
ngâm nữa,
Kẻo kinh hồn giao long.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TƯƠNG ÂM DẠ
Mãn mục giai thu sắc,
Mãn gian giai nguyệt minh.
Tịch liêu kim dạ vọng,
Thiên trích cổ nhân tình.
Thu thủy tòng tây lai,
Mang nhiên thông Động
Đình.
Tỉnh dạ túc ngâm khiếu,
Vô sử giao long kinh.
NGUYỄN DU BÁC BÀI CHIÊU HỒN CỦA TỐNG NGỌC
Tống Ngọc là học trò Khuất Nguyên người
nước Sở thời Chiến Quốc, đẹp
trai, lãng mạn và đa tình viết: Chiêu hồn, Đại chiêu,
Cửu biện, Đang đồ tử hiếu, Sắc
phú, Cao đường phú.. Trong Kiều có câu Sớm
đưa Tống Ngọc sớm tìm Tràng Khanh. Tràng Khanh là
Tư Mã Tương Như. Tương truyền một lần vua Sở hỏi Tống
Ngọc:
-" Tiên sinh hẳn có khuyết điểm trong tính hạnh
nên trong nước không mấy người khen, phải thế chăng ?".
Tống
Ngọc đáp
-" Trong nước không có ai khen, hạ thần thực
lấy làm vẻ vang. Khi xưa ở kinh đô
có một nhà ca nhạc trứ danh (Sư Khoáng). Buổi đầu hát "Hạ
lý bá nhân" cả thiên hạ đều nức
nở khen hay. Rồi đến khúc "Dương a hệ lộ" thì người
khen chỉ còn vài trăm. Lại hát khúc "Dương xuân bạch tuyết"
thì chỉ còn mười người bằng lòng. Vì khúc hát càng hay,
người hiểu càng ít. Chim phụng hoàng giương cánh bay chín
tầng mây, dọc ngang trong cõi mênh mông vô tận, chim én đậu
ở hàng rào, không cùng đi không biết
đất trời rộng thế nào nên chê chim phụng là ăn nói
lung tung. Cá côn dậy sớm ở Côn Lôn, trưa nằm vườn non
Kiệt Thạch, tối bơi tới biển Mạnh Trư. Cá chép ở chốn
ao tù không cùng cá côn biết sông biển rộng lớn thế nào
nên chê cá côn là hiếu sự. Người tài, tư tưởng càng cao,
tính hạnh càng quý, thì càng ít người biết đến. Cho nên
lời chê trong thiên hạ, hạ thần xin nhận và mong thiên hạ
ngày càng chê thêm mãi lên."
Chiêu hồn là một bài từ của Tống Ngọc,
làm để viếng Khuất Nguyên. Trong bài tựa có nói Tống Ngọc
thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan, nên làm bài Chiêu
Hồn để gọi hồn về.
"Hồn hỡi hồn về
đây đừng ra bể Đông.
Ở đó hàng
chục mặt trời làm chảy đá, chảy kim loại.
Hồn sẽ tiêu tan thành nước, đừng tin cậy
vùng đó.
Hồn hỡi hồn về
đây, đừng đi về hướng Tây.
Cát mềm ngàn dậm sa mạc mênh mông.
Ngũ cốc không mọc, sông hồ cạn queo.
Hồn sẽ bị đốt
chóng khô, nên tránh hướng đó.
Hồn hỡi hồn về
đây đừng lên miền Bắc,
Băng giá như núi,
tuyết phủ ngàn dậm,
Hồn hỡi hồn về
đây đừng xuống phương Nam,
Đó là xứ
rắn mãng xà vương khổng lồ,
Bọn xâm trán, bọn
răng đen sẽ ăn thịt,
Hồn để cúng tế,
nấu xương hồn làm canh."
Nguyễn Du từ xứ " Nam Di ", nơi " xâm mình, và
ăn
trầu, răng đen, giết người hồn để cúng tế, nấu xương
làm canh ?" đọc bài phú
Tống Ngọc hẵn phải bật cười. Nguyễn Du làm bài Phản
Chiêu Hồn để bác lại bài của Tống Ngọc, khuyên hồn Khuất
Nguyên không nên trở về cõi trần đầy
kẻ gian ác. Người đời sau đầy Thượng Quan, đâu cũng là
sông Mịch La. Nguyễn Du viết : Hồn ơi hồn, sao hồn không
về. Đông, Tây, Nam, Bắc không
có nơi nào nương tựa. Lên trời xuống đất
đều không được. Còn trở về thành Yên, thành Dĩnh
(hay Sính) để làm gì ! Thành quách vẫn như cũ nhưng nhân
dân đã khác rồi. Bụi cuốn mịt mù bẩn cả quần áo. Khi
đi ra đường thì giong ruổi
xe, khi ngồi trong nhà thì vênh váo. Họ đứng ngồi bàn tán
như ông Cao, ông Quì . Cao Dao và Quì hai vị hiền thần đời
vua Ngu Thuấn. Họ che giấu nanh vuốt và nọc độc.
Nhưng cắn xé người ngọt xớt như đường. Hồn không thấy
mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao ? Chỉ có những người gầy
gò không ai béo tốt. Hồn ơi hồn ơi nếu cứ theo đường
đó. Thì sau Tam Hoàng ( Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế)
ba vị vua cổ nhất Trung Quốc không còn hợp thời nữa. Hãy
sớm thu tinh thần trở lại cõi Thái Cực, cõi cùng cực vũ
trụ bao la. Đừng trở về đây nữa
mà người ta mai mỉa. Đời sau người đời
đều là Thượng Quan. Quan Ngân Thượng kẻ dèm pha Sở
Hoài Vương dèm bỏ Khuất Nguyên. Mặt đất này đâu
đâu cũng là sông Mịch La. Cá rồng chẳng nuốt, thì
hùm sói cũng ăn. Hồn ơi, hồn ơi, hồn làm thế nào ?
Bài này Nguyễn Du làm lúc đi
giang hồ năm 22 tuổi, nhà thơ mang tâm sự đi xa Thăng Long,
không nơi nương tựa, chưa muốn về chốn cũ, vì chưa
biết tin anh Nguyễn Nể. Cảnh và người từ sau khi nhà Lê,
Trịnh sụp đỗ năm 1786 đã đổi
khác. Hai anh Nguyễn Khản, Nguyễn Điều mất. Nguyễn
Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn về một thời làm mưa làm gió,
bị Vũ Văn Nhậm phanh thây. Nguyễn Du sau khởi nghĩa cùng Nguyễn
Đăng Tiến tại Tư Nông, Thái Nguyên
thất
bại, được tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm tha chết, đi
Vân Nam rồi đi giang hồ Trung Quốc.. Tình hình Trung Quốc
cũng chẳng yên. Do cuộc chiến tranh,
để cung ứng gần 300 ngàn quân Tôn Sĩ Nghị, dân chúng
Trung Quốc phải đóng góp thóc lúa, nuôi ngựa, nuôi lính viễn
chinh, nên đời sống cơ cực nghèo đói gầy gò, phả iăn
phân nửa cám, không ai béo tốt. Thời
thế trong giai đoạn này từ Việt Nam sang đến Trung Quốc,
Nguyễn Du thấy đâu đâu cũng là sông Mịch La. Khi làm
quan dưới triều Gia Long thời thế đã ổn định, kỷ cương,
Nguyễn Du ra làm quan thăng tiến nhanh
chóng, được trọng dụng, Nguyễn Du hẳn sẽ không viết
: thấy mặt đất nào đâu đâu cũng là sông Mịch La.
PHẢN CHIÊU HỒN
Sao không về hỡi hồn ! ơi hồn!.
Đông, Tây, Nam, Bắc
không nơi tựa.
Lên trời xuống đất không xong nữa.
Thành Yên, thành Sính về làm chi.
Lòng dân đã khác thành nguyên y,
Bẩn cả áo quần mờ mịt bụi,
Nhà ngồi vênh váo, xe rong ruổi.,
Lên mặt Cao, Quỳ, bàn đứng ngồi.
Họ che nanh vuốt
nọc độc thôi.
Cắn xé thịt người nhai ngọt xớt,
Hồ Nam trăm châu
thấy có được ?
Người sống gầy gò ai béo phì ?
Hồn ơi cứ theo đường
ấy đi.
Sau Tam Hoàng thói đời
chẳng hợp,
Hãy sớm thu hồn vô thái cực.
Đừng về đây nữa
người mỉa mai.
Thượng Quan một
lũ đời tương lai.
Mặt đất, đâu đâu
cũng sông Mịch.
Hùm sói chẳng ăn, rồng cá nuốt
Hồn ơi, hồn ơi làm thế nào ?
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
PHẢN CHIÊU HỒN (NGUYỄN DU)
Hồn hề ! hồn hề ! hồ bất qui ?
Đông, Tây, Nam, Bắc
vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi ?
Thành quách do thị, nhân dân phi.
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa.
Tọa đàm lập
nghị giai Cao, Quì.
Bất lộ trảo nha
dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di !
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu.
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! hồn hề!
suất thử đạo,
Tam hoàng chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi.
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan,
Địa địa xứ xứ
giai Mịch La.
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề ! hồn hề nại hồn hà ?
NGUYỄN DU BÁC BỎ LUẬN
ĐIỂM GIẢ NGHỊ
Giả Nghị (200-168 trước công nguyên) người
Lạc Dương (nay thuộc Hà Nam). Là một nhà từ phú và chính
luận nổi tiếng thời Tây Hán. Ngoài hai mươi tuổi làm Bác
Sĩ (người thông hiểu sử sự cổ kim, làm quan cố vấn cho
nhà vua) không đầy một năm, thăng
lên làm Thái Trung Đại Phu (đảm
nhiệm chức quan nghị luận, ngự sử). Nhân đó nhiều lần
dâng vua nghị luận chính trị đương thời, đề xuất chủ
trương cải cách, bị các quý tộc, đại thần bài xích, bị
biếm đẩy ra khỏi triều đình làm Thái Phó Trường
Sa, sau chuyển làm Thái Phó Lương Hoài. Bất đắc
chí chết năm 33 tuổi. Ông giỏi từ phú, sành tản văn,
nổi tiếng nhất có bài Quá Tấn luận. Khi qua sông Tương
ông có làm bài phú viếng Khuất Nguyên. Trong bài phú có câu:
Lịch
cửu châu nhi tướng quân hề, hà tất hoài thử đô dã.(Trải
chín châu mà tìm vua, hà tất ôm lấy cố đô ấy) . Có
ý chê Khuất Nguyên. Nguyễn Du bác ý ấy của Giả Nghị cho
rằng: trung thần không thờ hai vua,
liệt nữ không thờ hai chồng, lẽ đâu đi tìm vua ở
chín châu. Nguyễn Du tự cho là mình là người nghìn năm
sau hiểu rõ lòng Khuất Nguyên hơn Giả Nghị. Do
quan điểm này tôi cho rằng Nguyễn Du viết bài này khi
đi giang hồ năm 1789 khi đi qua sông
Tương. Lúc đó Nguyễn Du còn mơ tưởng đến nhà Lê
và không cộng tác với nhà Tây Sơn. Nhưng khi gặp vua Lê Chiêu
Thống bị nhà Thanh bạc đãi tại Bắc Kinh và Nguyễn Du hoàn
toàn thất vọng. Trở về Thăng Long
với anh Nguyễn Nể đang được vua Quang Trung trọng vọng,
nhưng lúc đó Nguyễn Du có mối tình với Xuân Hương
Hồ Phi Mai, nên chỉ đi hái sen và câu cá và chú tâm đến
việc diễn ca Đoạn Trường Tân thanh, nên hoàn toàn
lơ là với công danh, trong các buổi yến tiệc tại dinh Kim
Âu, nơi gặp gỡ các quan tướng nhà Tây Sơn, Nguyễn Du chỉ
đứng trong bóng tối nghe cô Cầm đàn
bài nhạc cũ cung vua Lê. Sau khi vua Quang Trung mất năm 1792,
Nguyễn Du không thấy chính nghĩa nơi Thái sư Bùi Đắc Tuyên,
hay tướng Vũ Văn Dũng trong triều
Tây Sơn đang tranh chấp quyền lực, mà chính anh Nguyễn Nể
phải hai lần tránh xa: lần thứ nhất xin ra trấn đóng thành
Bình Định và nhận làm Hành Khánh Sứ nhân lễ nhường ngôi
cho con của vua Càn Long năm 1795 và lần thứ hai năm 1797 Nguyễn
Nể xin ra xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô
ở Nghệ An. Nguyễn Du lúc đó đã tìm thấy minh chúa
nơi chúa Nguyễn Ánh, nên năm 1796 đã
toan trốn vào Nam. Khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn
Du đã tổ chức thủ hạ binh lương tiếp đón, từ Quỳnh
Hải đi đến Sơn Nam Thượng gặp nhà vua tại huyện
Phù Dung, nên được phong ngay làm tri huyện Phù Dung. Sự việc
giống như Phi Tử đời Chiến Quốc
dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung,
nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử. Cuộc
đời làm quan Nguyễn Du được thăng quan tiến chức nhanh chóng,
được trọng vọng cùng Ngô Thời Vị. Năm 1813, Nguyễn Du
làm Chánh Sứ đi sứ. Từ năm 1796 cho đến cuối đời 1820,
Nguyễn Du hoàn toàn theo vua Gia Long, và không có tâm sự
hoài Lê gì cả.
BÁC GIẢ NGHỊ
Không qua đường Hồ
Nam,
Sông Tương sâu sao biết ?
Chẳng đọc phú Hoài
sa,
Lòng Khuất Nguyên sao hiểu ?
Lòng Khuất Nguyên nước sông Tương,
Nghìn thu vạn thu trông đến
đáy.
Kim cổ ai đồng tâm.
Bài thơ Giả sinh vô nghĩa lý.
Liệt nữ không ai lấy hai chồng ?
Sao tìm vua khác trong chín cõi.
Chắc gì người xưa biết đến ta,
Trước mắt sông Tương trôi mãi mãi.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
BIỆN GIẢ
Bất thiệp Hồ Nam
đạo,
An tri Tương thủy thâm ?
Bất độc Hoài
sa phú,
An thức Khuất Nguyên tâm ?
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thủy.
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
Cổ kim an đắc đồng
tâm nhân,
Giả sinh nhất phú
đỗ vi nhĩ.
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê "tướng cửu châu ".
Vị tất hữu nhân tri hữu ngã,
Nhãn trung Tương Thủy không du du !
Nguyễn Du viết không
đọc Hoài sa phú (Nhớ Trường Sa) thì không biết nỗi
lòng Khuất Nguyên. Hoài Sa phú là tên một thiên trong Cửu
Chương gồm : Quất tụng, Tích tụng, Trừu tư, Tư mỹ nhân,
Bi hồi phong, Thiệp giang, Ai sinh, Hoài sa, Tích vãng nhật. Khuất
Nguyên nói lên nỗi lòng bi phẩn của mình sinh không gặp thời,
ví mình như ngọc tốt mà không có kẻ dùng, chỉ có chết
mới mong kết thúc được nỗi đau
vô hạn. Tư Mã Thiên trong Sử Ký cho rằng Hoài Sa là
tuyệt mệnh từ trước khi gieo mình xuống sông Mịch La. Đời
Thanh, Tưởng Ký trong Sơn đái các chú Sở từ cho rằng
Hoài Sa là hoài niệm Trường Sa, Trường Sa gọi tắt là Sa.
Trường Sa là đất phong đầu tiên
của tổ tiên Sở Vương. Bài thơ này làm vào tiết mạnh hạ
tháng 4, cách ngày Khuất Nguyên tự tử một tháng, không thể
xem là tuyệt bút. Ông này cải bướng,
viết di chúc tuyệt mệnh trước một tháng hay một năm là
chuyện bình thường, điều quan trọng là nội dung thơ viết,
chứ không phải vừa viết xong, nhảy xuống sông mới là tuyệt
bút. Hoài Sa phú Khuất Nguyên viết như thế nào, chúng ta thử
đọc bài Hoài sa phú để tìm
hiểu nỗi lòng Khuất Nguyên. (Khuất Nguyên, Sở Từ. nxb Văn
Học Hà Nội 1974. Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch và chú
thích)
Tiết đầu hè
nóng bừng, cây cỏ tươi tốt xanh mượt. Lòng cứ tưởng
nhớ thương xót mãi. Rảo bước nhanh về phương Nam, trông
vời mù mịt, bốn bề lặng im phăng
phắc. Uất ức rồi đau, chỉ thấy lòng sầu khổ mà
khốn hoài. Suy tình xét chí. Oan khuất mà tự dằn lòng. Chỉ
vì mình ngay thẳng không thể đẻo
vuông ra tròn, biết sự phải lòng không thể thay đổi.
Đổi
đầu bỏ gốc, người quân tử lấy làm hổ thẹn. Vạch
rõ đúng mực, ý trước sau cũng không
đổi. Tính tình trong dày thẳng thắng, bậc đại nhân
ưa thích. Lòng như gỗ thẳng, thợ khéo không cần đẽo,
ai xét được là thẳng cong. Màu sắc không thể nhìn
thấy trong bóng tối. Người mù bảo rằng
không đẹp, lim rim đôi mắt. Kẻ loà bảo rằng mắt
anh ta không sáng. Không thể lấy trắng làm đen, lấy trên
làm dưới. Phượng hoàng bị nhốt trong lồng, để gà vịt
múa may. Ngọc lẫn với đá, không thể cùng sánh nhau. Nghĩ
người bè đảng, chật hẹp ngoan cố, chẳng biết lòng ta
như thế nào ?. Lòng như gánh nặng chỡ nhiều nên sa lầy
không qua được. Mang ngọc cẩn, cầm ngọc du không biết giơ
lên để ra hiệu lệnh cho ai. Chó trong ấp sủa cả bầy, vì
con này sủa con khác cũng sủa. Sủa vì thấy quái dị. Chê
tuấn ngờ kiệt vốn là thói của kẻ hèn. Văn thì sơ mà
chất thì chắc, chúng chẳng biết tài vẻ lạ của ta. Tài
năng bỏ xó vì chúng không biết ta có gì. Ta trọng nhân theo
nghĩa, lấy cẩn thận trọng hậu làm sự giàu có. Ta chẳng
gặp được minh quân như vua Thuấn,
ai biết được ta ung dung đúng đắn. Thánh hiền xưa nay vốn
chẳng sánh cùng nhau. Há biết là vì cớ gì. Vua Thang,
vua Vũ đã xa từ lâu. Xa xôi rồi không ai mến biết tài ta,
nên ta nuốt tủi nhịn hờn, tự gắng dằn lòng. Gặp đau
khổ chẳng thay đổi. Nguyện ý chí làm mẫu mực. Đường
tiến về Bắc, ngày xâm xẩm tối rồi, khuây buồn thương
nguôi. Đời có hạn ở cái chết. Nhìn mênh mông sông Nguyên
Tương, cuồn cuộn sóng dồi, khúc cuối sông chia hai nhánh
chảy vào Động Đình Hồ. Đường
dài tối tăm, nẻo xa mù tít mù. Mang tâm sự một mình,
cô đơn chẳng thổ lộ cùng ai. Bá
Nhạc đã mất, ngựa ký chạy ngàn dậm ai xem được.
Đản sinh đều có mệnh, mỗi người yên một chỗ.
Lòng vững chí rộng ta có sợ hãi gì. Sau cứ xót thương nhiều
than thở mãi.. Đời đục ngầu chẳng
ai biết đến ta. Lòng người không thể phó cho thiên
hạ. Biết chết mà không thể tránh được. Nguyện chớ yêu
tiếc thân mình. Các bậc quân tử sáng suốt. Ta lấy làm mẫu
mực.
HOÀI SA (KHUẤT NGUYÊN)
Đầu hạ chừ nóng
ran,
Cây cỏ xanh rờn.
Đau thương chừ không
ngớt,
Rảo vội bước về Nam.
Trông vời chừ mênh mông,
Bốn bề lặng lẽ,
Uất ức chừ quặn lòng.
Nỗi sầu bi vướng mãi.
Xét chí chừ suy tình.
Oan khuất thôi đành
vậy,
Chuốt vuông chừ cho tròn,
Tính ta chẳng đổi
thay.
Theo đời chừ lìa
gốc,
Quân tử tính không thích,
Mực thước chừ thẳng ngay,
Giữ lề dù có rách,
Lòng trung chừ chính trực,
Thánh nhân mới dùng,
Thợ khéo chừ không
đẽo,
Ai biết thẳng cong !
Sắc màu không trong tối,
Kẻ mù bảo không đẹp.
Ly Lâu chừ lim dim.
Mù bảo mắt không sáng,
Lấy trắng chừ làm đen,
Đảo trên làm
dưới.
Phượng hoàng nhốt trong lồng,
Gà vịt khoe múa lông,
Ngọc chừ lẫn với
đá,
So nhau một lứa,
Bè đảng chừ ghét ghen,
Biết gì lòng ta đó.
Lòng nặng chừ chỡ nhiều,
Sa lầy qua khó.
Mang châu chừ cầm ngọc,
Cùng ai tỏ ra.
Bầy chó chừ sủa la,
Sủa vì thấy quái
Chê tuấn chừ ngờ kiệt,
Kẻ hèn thói hẹp,
Văn ta chừ
chắc chắn,
Cao đẹp ta ai tường.
Tài năng chừ bỏ xó,
Của riêng ta ai màng ?
Đầy nhân chừ nặng
nghĩa,
Thận trọng mà giữ đức.
Vua Thuấn chẳng gặp
được,
Ai biết ta trung trực ?
Thánh hiền chừ không cùng thời !
Há biết vì cớ gì,
Vũ Thang chừ xa vắng,
Để lòng ta
ước chi.
Nén tủi chừ nuốt hờn,
Dằn lòng mà gắn sức,
Gặp khốn chừ chẳng buông,
Nguyện chí làm mẫu mực.
Đường đi chừ về
Bắc,
Ngày xâm xẩm tối rồi,
Khuây sầu chừ thương nguôi,
Đời cũng đến chết
thôi.
Mênh mông Nguyên Tương,
Cuồn cuộn chừ sóng dồi,
Đường xa man mác,
Ngất tạnh chừ mù khơi.
Ôm tình giữ chí,
Đành phải
lẻ loi.
Bá Nhạc đã
mất,
Ngựa ký chừ ai coi ?
Nhân sinh có mệnh,
Đều đã chừ định
rồi.
Vững lòng, rộng chí chừ ta chẳng sợ.
Xót thương chẳng dứt chừ mãi than thở.
Đời đục ngầu
không biết ta.
Lòng người chừ khó qua.
Biết chết không
tránh được,
Nguyện chừ không
tiếc đời,
Thánh hiền minh chính,
Ta mong chừ theo đòi.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HOÀI SA
Thao thao mạnh hạ hề,
Thảo mộc mụ mụ.
Thương hoài vĩnh ai hề,
Cốt tư Nam thổ,
Thuấn hề diểu diểu,
Khổng tỉnh u mặc.
Uất kết vu chẩn hề,
Ly mãn nhi trường cúc.
Phủ tình hiệu chí hề,
Oan khuất nhi tự ức,
Ngoan phương dĩ vi viên hề.
Thường độ vị
thế.
Dịch sơ bản dịch hề,
Quân tử sở bỉ.
Chương hoạch chí mặc hề.
Tiền đồ vị cải,
Nỗi hậu chất chính hề.
Đại nhân sở thịnh.
Xảo thùy bất trác hề.
Thục sát kỳ bát chính,
Huyền văn sử u hề,
Mông tẩu chi vi bất chương.
Ly lâu vi đệ hề,
Cổ dĩ vị vô minh,
Biến bạch dĩ vi hắc hề,
Đảo thượng dĩ
vi hạ.
Phượng hoàng tại nô hề,
Kê vụ tường vũ.
Đồng nữu ngọc
thạch hề,
Nhất khái nhi tương lượng,
Phù duy đảng nhân chi bỉ cố hề.
Khương bất trí dư chi sở tàng.
Nhiệm trọng tái thịnh hề,
Hãm trệ nhi bất tế.
Hoài cẩn ác du hề,
Cùng bất tri sở thị.
Ấp khuyển chi quần phệ hề,
Phệ sở quái giã.
Phi tuấn nghi kiệt hề,
Cố dung thái giã,
Văn chất sơ nội
hề.
Chúng bất tri dư chi dị thái,
Tài phác ủy tích hề,
Mạc tri dư chi sở hữu.
Trọng nhân tập nghĩa hề,
Cẩn hậu dĩ vi phong.
Trùng hoa bất khả ngỗ hề,
Thục tri dư chi thung dung.
Cổ cố hữu bất thịnh hề.
Khởi tri kỳ hà cố giả.
Thang vũ cửu viễn hề,
Mạc nhi bất khả mộ giã.
Trừng vi cải phấn hề.
Ức tâm nhi tự cường.
Ly mãn nhi bất thiên hề,
Nguyện chi chi hữu tượng.
Tiến lộ Bắc thứ hề,
Nhật muội muội kỳ tương mộ.
Thư ưu ngu ai hề,
Hạn chi dĩ đại
cố.
(Loạn viết)
Hạo hạo Nguyên Tương,
Phân lưu cốt hề,
Tu lộ u tế,
Đạo viễn cốt hề.
Hoài chất bảo tình.
Độc vô thất hề.
Bá Nhạc ký một,
Ký yên trình hề.
Dân sinh bẩm mệnh,
Các hữu sở thố hề.
Định tâm quảng
chí, dư hà sở úy cụ hề.
Tăng thương viên
ai, vĩnh than khoái hề.
Thế hỗn trọc mạc ngô tri,
Nhân tâm bất khả vị hề.
Tri tu bất khả nhượng.
Nguyện vật ái hề.
Minh hạo quân tử,
Ngô tương dĩ vi loại hề.
Bài Giả Thái Phó ở Trường Sa. Giả Nghị là
bậc hiền tài, muốn cải cách nhưng gặp bọn võ tướng nắm
giữ triều chính chẳng biết gì, nhà vua Hiếu Văn,
tính cũng ngại mọi sự đổi thay nên Giả Nghị bị đày
ra làm Thái Phó Trường Sa . Được
ba năm, bất đắc chí vì tài không chổ dùng ông chết
năm 33 tuổi. Nguyễn Du so sánh Giả Nghị với Khuất Nguyên
hai người ở cách nhau ngàn năm, nhưng
Tương Đàm và Trường Sa cách nhau không xa mấy. Hai người
cùng gặp gỡ nhau chổ này. Nguyễn Du viết Giáng Hầu (tước
Chu Bột) và Quán Anh đều là võ tướng, có công khai quốc
nhà Hán được Hán Văn Đế trọng
dụng, nhưng là bọn võ biền chẳng biết gì. Vua Hiếu
Văn tức Hán Văn Đế Lưu Hằng (179-159
trước CN) tính đạm bạc nên ngại mọi sự thay đổi. Đứng
mà luận bàn không thể bày tỏ hết cái học một đời
mình. Lo tròn chức phận có hại gì mà đến
nỗi phải nhận cái chết đáng thương tâm (Giả Nghị bất
đắc chí chết năm 33 tuổi). Do câu thơ khen Giả Nghị: Cố
nhân sự nhất chức, khởi cám cấu nhiêu vi nghĩa
là người xưa giữ chức vụ gì không dám làm cẩu thả .Trời
ban cho tài lạ mà không có chổ dùng. Trong bóng chiều tà có
lúc chim lạ đến. Giả Nghị ở Trường Sa ba
năm, một hôm có con chim lạ đến đậu chỗ ngồi, lòng
rất lo, cho là điềm gỡ. Tương Đàm
với đây gần nhau chỉ trong gang tấc. Sống cách nhau nghìn
năm, gặp nhau hai bên không có gì trái nhau. Bài thơ này
theo tôi Nguyễn Du làm lúc đi giang
hồ năm 22 tuổi lúc đi qua Trường Sa năm 1789 : vì có
câu " tài lạ trời ban không có chỗ dùng ”.
Năm 1813, Nguyễn Du làm Chánh Sứ ngày 18 tháng 7 năm
Quý Dậu đi qua Trường Sa, lúc đó Nguyễn
Du được vua Gia Long trọng dụng tất không còn mối ưu tư
đó.
GIẢ THÁI PHÓ Ở TRƯỜNG SA
Giáng, Quán võ biền có biết chi,
Hiếu Văn tính chẳng
đổi thay gì.
Đứng bàn không
hết tài văn học,
Chức phận lo tròn, chết thảm thay.
Tài lạ trời ban không đất dụng.
Chiều hôm cú đến
điềm không may.
Tương Đàm
gang tấc duyên gần gủi,
Gặp gỡ nghìn năm một nỗi này.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TRƯỜNG SA GIẢ THÁI PHÓ
Giáng, Quán vũ nhân hà sở tri,
Hiếu văn đạm bạc
đạn canh vi.
Lập đàm bất
triển bình sinh học,
Sự chức hà phương chí tử bi.
Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ,
Nhật tà dị vật hữu lai thì.
Tuơng Đàm chỉ
xích tương lân cận,
Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi.
THÁNG 5 XEM ĐUA THUYỀN
Bài Ngũ Nguyệt Quan Cạnh
Độ. Nguyễn Du viết khi đi giang hồ năm 1789, ngày mùng
5 tháng 5 Ất Dậu. Trên khắp sông Tương ngày này có tổ chức
đua thuyền, và ném bánh lá tro xuống
sông. Khi đi sứ Nguyễn Du đi qua nước Sở từ 18-7 đến 30
tháng 7 năm Quí Dậu (1813). Ngày mùng 5 tháng 5, Nguyễn
Du còn ở thành phủ Ngô Châu. Đợt về thì Nguyễn Du đến
Trấn Nam Quan ngày 29-3 năm Bính Tuất,
do đó không thể dự tết Đoan Ngọ tại sông Tương.
Hoài Vương vua nước Sở không nghe lời can của
Khuất Nguyên cứ đi hội với vua Tần,
bị Tần bắt giữ lại, sau khi chết mới được đưa về
nước Sở chôn. Trương Nghi là nhân vật thuyết khách
chủ trương thuyết " liên hoành " liên kết sáu nước Tề,
Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy để phò Tần chống thuyết " hợp
tung " sáu nước hợp thành một để
đánh Tần của Tô Tần. Trương Nghi từng làm tướng quốc
nhiều nước, từng sang Sở mua chuộc các đại thần và
Trịnh Tụ, vợ yêu của Sở Hoài Vương, dèm Khuất Nguyên
để Khuất Nguyên bị đi đày
và hắn ta làm tướng quốc. Sau bị lộ mưu, chạy về Tần
rồi sang Ngụy, chết ở Ngụy. Sau khi vua Sở Hoài Vương được
đưa về nước Sở chôn, và Trương Nghi chết. Nước
Sở nhớ Khuất Nguyên người cài lan xưa. Ngàn thuở gọi hồn
nhưng hồn chẳng bao giờ trở lại.
Đầy sông đua tranh thuyền nhưng chẳng có nghĩa lý gì.
Trong khói sóng mênh mông, lòng ta luống những đau thương và
oán giận. Hàng năm chiêng trống chỉ để
vui chơi, nô đùa. Hồn có về thì cũng không có nơi
chốn để nương tựa. Rắn rồng quỉ quái ở khắp nhân gian.
THÁNG NĂM XEM
ĐUA THUYỀN
Hoài Vương qui táng, Trương Nghi chết,
Nước Sở nhớ người cài hoa lan.
Ngàn thuở chiêu hồn không trở lại,
Đầy sông bơi chải
khéo trò nhàn.
Mênh mông khói sóng lòng căm giận,
Chiêng trống hàng năm chỉ giởn càn.
Hồn có trở về không chốn tựa ;
Rắn rồng quỉ quái khắp nhân gian.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt.
NGŨ NGUYỆT QUAN CẠNH ĐỘ
Hoài Vương qui táng, Trương Nghi tử,
Sở quốc từ nhân ký bội lan.
Thiên cổ chiêu hồn không bất phản,
Mãn giang tranh cạnh thái vô
đoan.
Yên ba điểu điểu
không bi oán,
La cổ niên niên tự tiếu hoan ;
Hổn nhược qui lai dã vô thác,
Long xà quỉ vực biến nhân gian.
Chú Thích:
Hoài Vương: vua nước Sở không nghe lời can
Khuất Nguyên cứ đi hội với vua Tần
Bài Thương Ngô Trúc Chi Ca, bài thứ XI. Nguyễn
Du viết lúc đi giang hồ 1787-1790 có
nói đến đua thuyền nhân ngày tết Đoan Ngọ tại Quế Lâm.
Có lẽ lễ hội đua thuyền này được phổ biến rất nhiều
vùng kể cả Đông Nam Á, nơi có người gốc Nam Trung
Quốc, nước Sở cũ trú ngụ. Mười chiếc thuyền rồng bày
hàng chữ nhất. Khua thanh la, đánh trống viếng Linh quân. Cô
gái cài hoa cúc mải xem cuộc vui. Nhảy ra đầu thuyền không
tránh người lên xuống. Đua thuyền có khắp vùng Nam Trung
Quốc và Đông Nam Á. Tại đền Angkor
có những bức điêu khắc quân đội Chiêm Thành đi thuyền
tấn công Chân Lạp. Điều thú vị,
năm 2012 khi thăm viếng Angkor, tôi nhận ra trên các điêu
khắc, đồng phục quân lính Chiêm Thành, chính là đồng
phục những người đua thuyền, và hát hò bá trạo tại
các tỉnh miền Trung từ Phan Thiết
đến Quảng Nam. Nón vải hình lá sen, quần áo màu xanh
lá cây, vàng, đỏ. Một tư liệu quý
cần thiết cho điện ảnh khi làm những bộ
phim lịch sử về Đại Việt và Chiêm Thành.
CA ĐIỆU TRÚC CHI
KHI QUA ĐẤT THƯƠNG NGÔ
Mười chiếc thuyền rồng bày chữ nhất,
Khua thanh la trống viếng Linh Quân.
Gái cài hoa cúc xem vui hội,
Nhảy đứng đầu
thuyền chắn bước chân.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
THƯƠNG NGÔ TRÚC CHI CA
XI
Thập chích long chu nhất tự trần,
Xao la qua cổ điếu
Linh Quân.
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc,
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân.
Khuất Nguyên là một nhà thơ yêu nước có tư
tưởng chính trị cao đẹp, quan tâm
đến cuộc sống no ấm nhân dân, đến sự tồn
vong của đất nước. Đất nước
Sở của ông đã mất, nhưng tấm lòng yêu nước trong
sáng của ông vẫn truyền tụng từ hai ngàn ba trăm
năm nay, vượt tầm vóc một quốc gia, một dân tộc. Thời
đại quân chủ, người hiền tài, nếu gặp được vị
vua anh minh biết trọng người hiền, trọng vọng mời gọi
tiến cử người tài giúp nước, nhân dân giàu có, nước
nhà phồn thịnh, đất nước hùng mạnh. Quản Trọng giúp
Tề Hoàn Công là một ví dụ kẻ hiền tài gặp minh vương.
Nếu vua hung ác, chỉ dùng kẻ nịnh thần, thì đất
nước đi vào suy vong, nhân dân lầm than khốn khổ, quyền
chính bị nước khác chiếm đoạt,
mất nước. Hán Cao Tổ Lưu Bang khi lên ngôi, kêu ngạo
đái trên mũ kẻ sĩ và nói rằng : Ta ngồi trên lưng ngựa
mà được cả thiên hạ, ta há cần đến bọn sĩ phu. Trần
Bình tâu vua : Bệ hạ ngồi trên lưng ngựa mà được cả
thiên hạ, nhưng bệ hạ ngồi trên lưng ngựa mà trị nước
được chăng? Nhà vua thức
tỉnh, từ đó trọng dụng kẻ sĩ, sửa sang việc nước, tạo
dựng nên một triều đại hùng mạnh.
Trong thời đại Khuất
Nguyên, Nhà Tần, Tần Vương Chính nhờ cải cách chính
trị của Thừa tướng Lý Tư (289 TCN-208TCN) gốc người Thượng
Sái nước Sở, học trò Tuân Tử dùng thuyết Pháp Trị của
bạn học là Hàn Phi Tử, trong 20 năm nước Tần hùng mạnh
đã chiếm 6 nước thống nhất Trung Quốc. Để
đối phó với nhà Tần. Thái Tử nước Yên dùng Kinh
Kha ám sát Tần thủy Hoàng. Tô Tần( ? – 285 TCN)
đề ra giải pháp“ hợp tung " liên kết 6 nước chống
Tần giải pháp Tô Tần giúp cho các nước được yên ổn
trong 15 năm, sau đó các nước vì quyền
lợi đánh nhau khiến liên minh suy yếu và bị Tần diệt..
Trương
Nghi(? -309 TCN) đề ra giải pháp “liên hoành ", liên
kết sáu nước hợp với nhà Tần. Còn Khuất Nguyên, không
thấy ông đề ra một chính sách nào để
phục hưng nước Sở. Chỉ thấy một lần ông đi sứ Tề
về khuyên Sở Hoài Vương giết Trương Nghi trừ hậu
họa, vua Sở không nghe theo, Trương Nghi trốn thoát về Tần.
Lần thứ hai khuyên vua Sở không đi phó hội với Vua Tần,
vua Sở không nghe theo bị Tần bắt làm tù binh và chết trong
tù. Trong thi ca Khuất Nguyên chỉ thấy ông đề
cao thời đại Nghiêu Thuấn, Tam Hoàng, giữ lòng trung
chính ngay thẳng, Khuất Nguyên chỉ biết Nhân Trị, và ông
hoàn toàn không hay biết gì về chủ
trương Pháp Trị, đang làm nước Tần tiến bộ hùng
mạnh. Khuất Nguyên thường cài hoa lan hoa chỉ tỏ mình thanh
cao trong sạch, yêu mỹ nhân tượng trưng cho cái đẹp. Bài
Ngư Phủ. Khuất Nguyên nói cùng ông chài : Khắp
đời đều đục mình ta trong. Mọi người đều say mình
ta tỉnh. Vì thế mà bị đuổi. Khuất Nguyên không phải
là một nhà tư tưởng cải cách chính trị, mà chỉ là một
sĩ phu nhìn xa trông rộng đoán biết
được đại họa và sự suy thịnh của đất nước.
Xưa nay chưa có thời
đại nào, không đào tạo nhân tài, không dùng nhân tài
mà thành công. Nhân tài là nguyên khí của quốc gia Văn
bia Văn Miếu Quốc Tử Giám nước ta hàng trăm năm xưađã
viết. Một nhà lãnh đạo thành công, không phải là người
làm hết mọi việc và chia chác quyền lợi cho bè đảng, con
em mình. Muốn thành công phải biết dùng người và thành công
trong việc quy tụ người tài về với mình. Dùng người đúng
chổ, đúng nơi, ân thưởng xứng đáng. Nước càng giàu
có thi nhân dân, mọi người đều
có đời sống ấm no sung túc. Con người không phải
dành giật nhau từng miếng ăn để
kiếm sống, lừa gạt lẫn nhau, dành nhà , chiếm đất,
tham nhũng, hối lộ để được sinh tồn. Nước giàu
có thì không còn cái cảnh, vào nhà thương phải nộp hối
lộ từ người gác cổng, y tá đến
bác sĩ. Đi ra đường phải nộp hối lộ cho anh công an chận
đường phạt xe vô cớ. Muốn có chức vụ gì cũng phải
lo lót.. Việc lãnh đạo và tổ chức ngày nay đã trở nên
một khoa học, một nghệ thuật. Các nhà lãnh đạo trong các
nước tiên tiến được đào
tạo có bài bản, trường lớp. Trong các xã hội Tây Phương
còn có những văn phòng chuyên
môn các nhà tâm lý gia, kinh tế gia.. làm công việc tìm thủ
lãnh tài giỏi cho các công ty .
Trong đời đại ngày
nay. Sự hưng thịnh các nước nằm trong sự vận hành cơ cấu
tổ chức giáo dục,
chính trị, văn
hóa, xã hội. Nhân tài không phải đi tìm minh chúa. Nhân
tài không chỉ dùng trong chính trị, mà trong guồng máy kinh
tế, giáo dục, văn hóa.. Cơ cấu chế
độ tư do tận dụng tối đa tài năng và trí tuệ mọi
công dân. Các cường quốc như Anh, Nhật.. vẫn còn có vua
nhưng vua chỉ còn vai trò tương trưng cho sự thống nhất quốc
gia. Cùng thời với nước ta vua Tự
Đức chỉ biết sai người đi mua đồ sứ Giang Tây về đập
bể cẩn trên lăng mộ mình. Vua Minh Trị Thiên Hoàng,
trong thế kỷ 19, đã sáng suốt dám hy sinh 80% gia tài Hoàng
Gia để gửi 2003 sinh viên du học và mướn 142 Kỷ sư Tây
Phương về dạy kỷ thuật. Sự hy sinh đó
đã mở đầu sự thay đổi Nhật Bản, đưa Nhật bắt kịp
Tây Phương, trong khi các nước Đông Á đồng thời bị rơi
vào vòng đô hộ, bị các cường quốc xâu
xé.. Việc đào tạo nhân tài, một hệ thống giáo dục
từ Tiểu học, Trung học, Đại Học,
các trường chuyên môn, mọi công dân tùy theo khả năng
mình đều có phương tiện thăng tiến
để giữ một trọng trách xã hội tương lai. Một hệ
thống chính trị phân quyền tam lập: Hành Pháp, Lập pháp,
Tư Pháp. Một bộ máy hành chính từ trung ương đến
địa phương độc lập, một quân đội độc lập, không
lệ
thuộc một cá nhân một đảng phái, như một chiếc
xe, người nào đắc cử Tổng Thống
hay đảng nào lên, như người có bằng lái xe cũng
đều lái được. Một hệ thống
chính trị lưỡng đảng, hay liên kết các đảng thành
lưỡng cực tả hữu vì sự cần thiết phải có đa số 50%
cộng 1. Một nền kinh tế thị trường, tự do tư hữu. Dân
có giàu, đóng thuế đầy đủ, thì
nước mới mạnh. Nước giàu dễdàng có quân
đội nhiều phương tiện vũ khí hùng mạnh.. Một hệ
thống thuế khóa công bằng, lấy thuế các xí nghiệp, công
ty lợi nhuận cao, miễn thuế cho người nghèo. Xã hội hiện
đại ngày nay không còn cái cảnh trương tuần, lý trưởng
rượt theo các anh khố rách áo ôm,
bắt đi làm sưu , đóng thuế, bắt đi lính tiếng than
vãn cao ngút trời xanh như thời Đỗ Phủ.
Hệ thống tổ chức xã hội các nước tiền
tiến ngày nay đã trải qua hai trăm
năm kinh nghiệm. Sự sụp đổ cả một hệ thống chính trịtại
Đông Âu, đã chứng tỏ sự bất lực
của hệ thống độc đảng. Người hiền tài hoặc ở
lại trong cơ cấu phải chịu mọi sự phục tòng. Hoặc phải
lưu vong ra nước ngoài.
Điều đó
tạo nên sự chảy máu chất xám. Nước độc đảng ngày
một nghèo, nhân tài bỏ đi và nước dân chủ ngày một giàu
mạnh, vì có thêm người tài về phục vụ trong guồng máy:
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của mình. Các nước
tiên tiến lấy sự khác biệt của tư tưởng làm nền tảng
của giàu có và tiến bộ. Họ không xem sự khác biệt tư
tưởng là sự chia rẽ, phân hóa. Thế kỷ 19, Tây Phương đã
trải qua những kinh nghiệm đau thương,
các đại biểu nhân dân khi khác biệt tư tưởng thách nhau
ra rừng đấu kiếm, đấu súng, một còn, một mất.
Phe này thắng đưa phe khác lên máy chém, có lúc điểm danh
chỉ còn phân nửa Quốc Hội mà ý kiến vẫn khác biệt nhau.
Thời
Trung Cổ họ quan niệm đất hình vuông, ai nói trái đất tròn
là bị bắt uống thuốc độc, bị
đốt. Họ còn khốc hại hơn cả thời đại Khuất Nguyên,
Giả Nghị, đi đày hay cách chức người khác biệt tư
tưởng. Ngày nay Tây Phương đã
tìm được con đường có thể dùng
hết được mọi tài năng, dung hợp mọi
ý
kiến khác biệt đó là con đường dân chủ.
Ngày nay không có chuyện Khuất Nguyên, tài năng
không ai dùng, bị ruồng bỏ cột đá mình xuống sông. Khuất
Nguyên ngày nay đi chổ khác lãnh lương cao hơn, đời sống
sung túc hơn. Ngày nay kẻ sĩ không bị ràng buộc bởi câu:
trung thần không thờ hai chúa như thời Nguyễn Du. Các nước
tiên tiến ngày nay dùng người cũng không câu nệ màu da, chủng
tộc, có tài năng là được dùng theo đúng sở nguyện mình.
Tại Việt Nam khó ai tưởng tượng có một người da trắng,
hay da màu làm Bộ Trưởng. Tại Đức, có một người gốc
trẻ mồ côi Việt Nam làm Phó Thủ Tướng, tại Pháp có Bộ
Trưởng gốc Đại Hàn, Ma Rốc..
Nước Mỹ, Tổng Thống là một người da màu. Các nhà lãnh
đạo các nước độc đảng hiếm
hoi ngày nay đứng trước một
lựa chọn, là nhanh chóng cải cách chính trị, để dùng được
tất cả mọi nhân tài, chậm cải cách ngày nào thì
còn ì ạch ngày nấy, người tài bỏ đi và xã hội dậm chân
một chỗ. Vấn đề ngày nay
của các quốc gia mới vươn lên hội nhập vào thế giới,
không còn chuyện ai thắng ai ? hay đi
theo đường một lãnh tụ nào trong quá khứ, mà là xây
dựng một guồng máy chính trị, kinh tế hiện đại theo khuôn
mẫu mà nhân loại đã hình thành sau hàng trăm
năm phát triễn.
Paris 12-9-2005
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ
Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V. René Descartes
|