Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
(bài 11)

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh 
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC X : DIOMÈDE, ULYSSE ĐỘT KÍCH QUÂN ĐỊCH BẮT DOLON VÀ GIẾT VUA RHÉSOS

Theo Eustathe, các nhà phê bình thành Alexandrie (Ai Cập) và Aristarque chương này gọi tên là Dolonie, do việc Diomède và Ulysse bắt kẻ do thám của Hector tên Dolon, là một thi ca khúc của Homère, được dân chúng thích thú thường mời các du tử ngâm hát với đàn lyre, nên nhiều người lầm tưởng là một ca khúc nằm riêng biệt được, Pisistrate đem vào Iliade vị trí chương 10. Néron thành Roma cai trị đế quốc La Mã, sinh thời rất thích chương này và ông truyền đọc cho ông nghe trước khi chết.

TÓM LƯỢC : Agamemnon và Ménélas lo lắng tình hình, đánh thức các tướng lãnh, bàn việc do thám tình hình địch. Buổi họp Hội Đồng ở ngoài dinh trại giữa vùng chiến địa, (nhiều tác giả cổ đại đã bình luận về cuộc họp này). Diomède và Ulysse xung phong ra đi, Thrasymède trao Diomède kiếm hai lưỡi, khiên và mũ lông da mềm, Mérion trao Ulysse nỏ tên, gươm sắc và mũ nanh heo rừng, hai chàng cầu nguyện được Thần nữ Athéné hóa thân chim hạc chỉ đường. Vừa ra khỏi lũy hào đã bắt sống được Dolon, do Hector gửi đi do thám tình hình quân Achéens. Sau khi khai thác biết được viện binh vua Rhésos mới đến ban chiều, hai chàng giết Dolon và đột kích giết vua Rhésos cùng 12 sĩ quan cận vệ, cướp bầy ngựa trắng đem về. Vua Agamemnon và mọi người mừng thưởng chiến công.

Nằm kề dinh trại chiến thuyền, (5960)
Quân binh cẩn mật gát canh giấc nồng.
Vua An Trích thức trở trăn,
Nỗi lòng nặng trĩu, rối răm tâm hồn.
Vài cơn chớp sáng đêm đen,
Mưa rơi nặng hạt bên thềm biển lam.
Rồi cơn giá lạnh đêm tàn,
Tuyết rơi trắng xóa sa trường mênh mông.
Nỗi niềm cay đắng trong lòng,
Gieo bao lo sợ rẫy run sự tình.
Nhìn xa xa tít chân thành,
Trăm, ngàn lửa địch, bập bùng bóng đêm. (5970)
Tiếng kèn, tiếng sáo thê lương,
Tiếng người thao thức vọng vang đêm trường.
Nhìn qua dinh trại vọng canh,
Bứt đầu, bứt tóc sự tình chẳng an.
Thở than cùng với cao xanh,
Cầu mong cứu vớt chiến trường nguy cơ.
Phải tìm Vương lão Ninh Tô,
Nghĩ rồi thức dậy, khoát vô áo choàng.
Áo da sư tử lông vàng,
Chân mang hài bóng, tay quàng ngọn lao. (5980)
Mai Ninh Lạc chẳng ngủ nào,
Lo âu chiến cuộc thương đau tâm tình.
Nhớ Hạ Lan, cuộc viễn chinh,
Chiến tranh liều lĩnh vây thành bại vong.
Khoát choàng da báo quanh mình,
Mũ đồng đầu đội, tay cầm ngọn lao.
Muốn đi đánh thức anh hào,
Cùng anh bàn bạc, binh đao địch tình.
Lời bàn muốn ngõ cùng anh,
Gửi người dò thám phía thành Troa quân. (5990)
Ai người lãnh việc khó khăn,
Can trường xông xáo, liều mình trong đêm.
An Gia Vương đáp lời em :
Lời em chí lý ta nên họp bàn,
Vì Thần Vương đổi thay lòng,
Đã thiên vị với cổ bàn Hải Tô.
Ta chưa từng thấy bao giờ,
Hắn gieo bao nỗi nguy cơ thảm sầu.
Nên bàn kế hoạch đối đầu,
Biết âm mưu hắn để hầu ra tay. (6000)
Em gọi các tướng đến ngay,
Đến gần gọi nhỏ khẽ lay giấc nồng.
Chớ nên kinh động quân tình,
Gọi tên húy tử *, thì thầm đủ nghe.
Nói rồi thẳng hướng đi về,
Ninh Tô Vương lão cận kề quân trung.
Lão Vương đang ngủ chập chờn,
Khiên, lao, mũ, giáp kề gần một bên,
Sẵn sàng có biến khoát lên,
Tuổi già kinh nghiệm nhanh chân chiến trường. (6010)
Thấy vua An Trích vén màn:
Cớ chi vua lại thân hành trong đêm.
An Gia Vương vội thì thầm:
Ninh Tô Vương lão, tôi tìm đến đây.
Thần Vương gieo mối hận này,
Lòng tôi bối rối, chẳng say giấc nồng.
Đi tìm ý kiến Lão Vương,
Lòng tôi trăm mối, ngỗn ngang sự tình.
Quân thù đã đánh lại gần,
Chúng ta chẳng biết sự tình địch quân. (6020)
Đêm nay e sợ bóng đêm,
Địch quân do thám lũy đồn chúng ta.
Ninh Tô nhanh bước chân ra,
Đại Vương An Trích, chúng ta họp bàn.
Ty Đê công tử anh hùng,
An Bắc, Uy Lĩnh, lẫy lừng nghìn mưu.
Ninh Tô Vương lão vội mau,
Áo dài, choàng áo hồ cừu tím than.
Chân mang hài bóng thêu vàng,
Một tay cầm chiếc lao đồng nhanh chân. (6030)
Bước đi theo dọc bến thuyền,
Đến trại Uy Lĩnh, thì thầm gọi tên.
Uy Lĩnh choàng dậy ra liền:
Cớ chi Vương lão trong đêm một mình..
Việc cần khẩn cấp gì chăng ?
Ninh Tô rằng : Việc quân trung cần bàn.
Tình hình khẩn cấp nguy nan,
Theo tôi, nhanh gọi Hội Đồng Tướng Quân..
Uy Lĩnh vào lấy lao khiên,
Và cùng Vương lão dọc thuyền theo chân. (6040)
Đến trại Đỗ Mạnh đóng quân.
Quân hầu nằm ngủ gối trên khiên đồng.
Lao dài tua tủa dựng bên,
Anh hùng nằm ngủ ngon trên da mềm.
Trên đầu tấm thảm len đan,
Kề bên Vương lão, lay chân giấc nồng :
Ty Đê công tử dậy nhanh,
Lẽ nào ngũ mãi, đêm tàn ngáy vang.
Địch quân đã đánh kề bên,
Chỉ trong gang tấc đạn tên chiến trường. (6050)
Đỗ Mạnh thức giấc vội vàng :
Lão vương kinh thật, chẳng yên được nào !
Quân thị vệ, con cái đâu ?
Cớ chi lao khổ đi vào đêm đen.
Để đánh thức các tướng quân,
Chẳng chi ngăn cản, sờn lòng Lão vương.!
Ninh Tô cười trả lời rằng :
Tướng quân nói đúng, tôi con trai tài,
Quân hầu đông đúc khiến sai,
Nửa đêm có thể đi mời các vua. (6060)
Tình hình nguy, có cơ thua,
Ngọn gươm sống chết chỉ vừa tầm tay.
Hãy gọi An Bắc giùm ngay,
Người còn trẻ, giúp việc này cho ta.
Đỗ Mạnh nhanh bước chân ra,
Áo choàng sư tử khoát qua thân mình.
Cầm cây lao nhọn cán đồng,
Nhanh chân đến các trại quân gọi mời.
Các Vương tướng hẹn đến nơi,
Quân canh gươm giáo chọc trời vây quanh. (6070)
Như bầy khuyển cạnh cừu canh,
Mắt nhìn chọc thủng đêm thanh đề phòng.
Chẳng còn giấc điệp chập chờn,
Đêm dài cẩn mật, sống còn hiểm nguy.
Quân Troa đột nhập bất kỳ,
Lão Vương khích lệ duy trì quân canh :
Luôn luôn phòng ngự các con,
Chớ nên ngủ gục, địch quân vui mừng.
Nói rồi băng khỏi hào tường,
Theo sau Vương tướng, âm thầm trong đêm. (6080)
Cạnh nơi trận tuyến chiều hôm,
Quân canh dọn dẹp, chẳng còn tử thi.
Ninh Tô Vương lão thầm thì :
Hỡi các chiến hữu, cực kỳ khó khăn,
Muốn bàn hoạch định giao tranh,
Quân ta cần biết ý tình quân Troa,
Muốn đêm trời còn tối nhòa,
Một viên dũng tướng xông pha kiên cường,
Lẻn vào doanh trại địch quân,
Thám thính trinh sát, tình hình ra sao ? (6090)
Lắng nghe bàn bạc thế nào,
Bắt quân canh vọng tiền tiêu thăm dò,
Khai thác tin tức ý đồ,
Đem quân đóng tạm xa đô xa thành,
Chúng dừng chân cuộc tiến công,
Hay mưu đồ đánh lũy đồn chúng ta.
Chỉ cần dũng tướng trở ra,
Cho tin tức địch ấy là chiến công.
Hội đồng Tướng lãnh vinh danh,
Tặng cừu đen, ghế tiệc trần đầu tiên. (6100)
Mọi người nghe nói lặng im,
Giây lâu Đỗ Mạnh Kinh Thanh đáp lời :*
Ninh Tô Vương lão, có tôi,
Sẵn sàng đột nhập vào nơi hiểm nghèo.
Nhưng xin một tướng đi theo,
Hai người yểm trợ thế nào cũng hơn.
Các tướng đều muốn theo chàng,
Hai chàng An Bắc, sẵn sàng Mê Long.
Mai Ninh Lạc hiệu Trường thương.
Uy Lĩnh Bách Kế, chiến trường mưu mô. (6110)
An Gia Đại Vương thăm dò:
Các tướng tài giỏi cơ hồ chọn ai ?
Đỗ Tướng quân hãy chọn người,
Hợp tình, hợp tánh đến nơi mới thành.
Tướng Đỗ Mạnh trả lời nhanh :
Tôi chọn Uy Lĩnh kinh hành đêm nay.
Mưu cao cẩn mật dạn dày,
Quán Trí Thần nữ giúp bày trí mưu.
Uy Lĩnh: Chẳng cần bàn nhiều,
Việc cần khẩn cấp là điều đi ngay, (6120)
Đêm dài sắp hết rồi đây,
Bình minh sắp hiện, non tây sao tàn.
Thái Chí trao kiếm hai tầm*
Khiên cho Đỗ Mạnh, mũ lông da mềm.
Mê Long trao Uy Lĩnh mang,
Nõ tên, gươm sắc, mũ nanh heo rừng.
Hai người từ giả nhanh chân,
Quán Trí Tuệ dẫn đường băng hạc ngàn,
Mắt không nhìn suốt bóng đêm,
Nhưng tai nghe cánh hạc vàng trong sương. (6130)
Uy Lĩnh cầu khấn Nữ thần :
Lắng nghe, Ái nữ Thần Vương Khiên Vàng,
Dẫn đường phù hộ bước chân,
Giúp tôi chiến thắng bao lần vinh quang,
Giúp nay, nhiệm vụ vẻ vang,
Hoàn thành sứ mệnh, khải hoàn chiến công.
Đỗ Tướng quân cũng khấn thần :
Lắng nghe, ái nữ Thần Vương chẳng nề,
Đã từng giúp đỡ Ty Đê,
Một mình sứ giả đi về vinh quang. (6140)
Một mình chiến thắng phục binh,
Giờ đây tôi cũng khinh hành gian nan.
Bao giờ sứ mệnh thành công,
Sẽ xin cúng một bê non tuổi tròn.
Chưa từng khiên ách trên lưng.
Chạm vòng vàng đặt trên sừng tế sinh.
Sau khi cầu khấn Nữ thần,
Hai chàng nhanh gót băng mình trong đêm.
Như hai sư tử đi săn,
Giữa vùng tử khí sa trường âm u. (6150)
Máu đen, mặt đất mịt mù,
Tử thi vương vãi, bạn thù đó đây.
Tướng Troa cũng chẳng ngủ say,
Hải Tô triệu tập quân giai họp bàn :
Ai người sứ mệnh tiền phong,
Thưởng phần xứng đáng, chiến công can trường.
Thưởng hai xe ngựa thếp vàng,
Nếu len lõi chốn chiến thuyền địch quân.
Thăm dò xem xét tình hình,
Quân An Kinh có họp bàn rút lui. (6160)
Sau khi thảm bại vừa rồi,
Có canh cẩn mật các nơi lũy thành.
Mọi người còn đứng lặng thinh.
Đô Long Âu Mạch, cận thần giàu sang (Dolon con Eumèdes).
Xấu trai nhưng chạy rất nhanh,
Con trai duy nhất, năm nàng chị em.
Can trường nói Hải Tô rằng :
Tôi xin nhận lãnh điều danh dự này,
Tiến gần thuyền địch đêm nay,
Hãy nâng vương trượng hẹn ngày chiến công. (6170)
Thưởng tôi xe ngựa thếp vàng,
Chiếc xe đồng chạm vua thành Phi Lô.*
Tôi thề sẽ lập công to.
Sẽ len lõi tận dinh cơ quân thù.
Dò xem hội hợp quân cơ,
Phản công hay sẽ trốn mau xuống thuyền.
Hải Tô đưa vương trượng lên:
Chứng minh có Dớt và Thần Hạ Cơ,(Zeus, Héra)
Chiến công bắt được chiến xa,
Người được trọng thưởng ấy là Đô Long. (6180)
Chẳng ai nào khác vinh danh.
Đô Long sung sướng băng mình chạy nhanh.
Trên vai mang chiếc nỏ cung,
Áo da sói trắng, mũ lông đuôi chồn.
Tay cầm lao nhọn nhẹ nhàng,
Hướng về phía biển, chiến thuyền An Kinh.
Hắn nào biết cuộc liều thân,
Hải Tô chẳng được tin trông trở về.
Bỏ sau binh đội ngựa xe,
Lòng đầy khí khái, vắng hoe lối mòn. (6190)
Mắt Uy Lĩnh sáng trong đêm,
Kề bên Đỗ Mạnh thì thầm vào tai :
Này Đỗ Quân có thấy người,
Đi hướng ta mới vừa rời địch quân.
Hắng đi do thám chiến thuyền ?
Hay đi hôi của trên thân xác người ?
Để hắn qua khỏi đồng rồi,
Chúng ta núp bắt hắn thời phía sau.
Để xem hắn chạy hướng nào ,
Hướng thuyền hay sợ phóng mau về thành ? (6200)
Hai chàng ẩn tránh bên đường,
Giữa vùng tử khí các thân xác nằm,
Đợi Đô Long vượt qua tầm,
Chạy theo cách khoảng bước chân luống cày,
Hai chàng choàng dậy theo ngay,
Đuổi theo bắt kịp chân bay lối mòn,
Đô Long chạy chẳng đề phòng,
Chợt nghe có bước thập thình phía sau,
Ngỡ rằng đồng bọn rượt theo,
Hải Tô ra lệnh phải mau quay về. (6210)
Hắn nằm xuống đất lắng nghe,
Hai chàng phóng đến, gần kề tầm lao.
Mới hay chẳng phải bạn nào,
Cắm đầu tung chạy, đuổi theo hai chàng.
Như hai chó luyện đi săn.
Nhọn răng xông xáo bắt con thú rừng.
Đuổi nai thỏ chẳng rời chân,
Đô Long hoảng hốt thấy gần trạm canh.
Kề bên cạnh bức hào tường,
Đỗ Mạnh thét lớn: Hãy dừng chân ngay! (6220)
Không thì chết với lao này,
Đường lao ta sẽ đưa mày Âm cung.
Ngọn lao phóng lướt vai trên,
Cắm ngay xuống đấy sức còn rung rinh.
Đô Long dừng lại rẫy run,
Răng đánh bồ cạp, tái xanh mặt mày.
Hai chàng dừng lại trói tay,
Hắn còn khóc ngất: Ơn này xin tha,
Tôi xin chuộc mạng sống thừa,
Vàng đồng, sắt luyện, báo cha chuộc mình. (6230)
Cha tôi giàu có vô cùng,
Sẵn sàng hậu tạ chuộc thân vẹn toàn.
Uy Lĩnh: Mi muốn sống còn,
Hãy mau khai báo rõ ràng thực hư,
Mi dời dinh trại đi đâu ?
Trong đêm tăm tối, ngỏ hầu tìm chi ?
Mi đi hôi của tử thi,
Hay Hải Tô gửi mi đi thăm dò ?
Chiến thuyền binh đóng quân cơ,
Mi theo sứ mệnh hay do tự mình ? (6240)
Đô Long run rẫy lời rằng :
Hải Tô hứa thưởng tặng công xe vàng.
Xe ngựa Phi Lô nổi danh,
Nên tôi lóe mắt điên cuồng ra đi.
Hải Tô bảo tôi đêm nay,
Dò xem nước bước đường đi quân thuyền,
Rằng sau thảm bại lui quân.
Quân binh còn có đề phòng gác canh.
Uy Lĩnh nghe nói cười rằng :
Thật là quý giá tặng phần cho mi. (6250)
Ngựa Âu Xích quý báo thay !(Eacide)
Người trần đoản mệnh khó tay luyện thuần.
Chỉ An Sinh, mẹ là thần,
Mới điều khiển được ngựa dòng như chơi.
Này đây, mi hãy trả lời,
Hãy cho ta biết các nơi quân tình,
Ý đồ đóng trại xa thành,
Hay toan lui bước rút quân ra về ?
Đô Long: Tôi đã được nghe.
Hội Đồng tướng lãnh họp kề mộ lăng. (6260)
Gác canh dàn trải khắp vùng,
Đồng minh mới đến viện binh rất nhiều.
Uy Lĩnh: Binh viện bao nhiêu ?
Ngựa xe, binh ngũ, ai điều khiển binh ?
Đô Long vột trả lời rằng :
Dọc bờ biển, đội quân thuần nỏ cung,
Ca Liên cùng với Bồ Niên, (Cariens, Péoniens)
Lê Le, Phê Lạc, Cô Côn kéo về, (Lélèges, Pélasges, Caucônes)*
Dọc bờ phụ lưu Thẩm Khuê,(Thymbré)*
Ly Liên, Phi Chiến chuyên nghề mã binh. (Lyciens, Phrygiens)(6270)
Mê Niên binh đội nón đồng,(Méoniens)
Các ông muốn hỏi quân tình làm chi ?
Các ông muốn đánh đêm nay,
Có quân Thạch Các phía tây đội hình. (Thraces)
Hạ Quốc, Âu Nê quốc vương,(Rhésos con Eionée)
Có bầy chiến mã tuyết sương đẹp thuần,
Phi nhanh như gió hùng cường,
Xe vàng chạm bạc, giáo gươm ánh vàng.
Thật là quý báu vô cùng,
Tưởng như bảo vật thiên đình giáng lâm. (6280)
Tôi đà kể hết sự tình,
Hãy mang tôi đến gần bên chiến thuyền.
Giam tôi buộc chặt xích đồng,
Cho khi ông đoạt chiến công trở về,
Tôi không nói dối, xin thề !
Cúi nhìn Đỗ Mạnh chẳng hề xuyến xao :
Đô Long mi chẳng thoát nào,
Nếu ta tha chết, mi mau dẫn đường,
Biết đường, biết lối chiến thuyền.
Dẫn binh trở lại chiến trường xông pha. (6290)
Nay mi ở trong tay ta,
Thì ta chẳng thể nào tha mi về,
Để cho thảm họa đến kề.
Đô Long nghe nói quỳ lê đập đầu.
Đỗ tướng quân rút ngọn dao,
Chiến đầu rơi rụng máu đào bắn tung.
Uy Lĩnh đoạt mũ đuôi chồn,
Nỏ cung và khấn nữ thần cầu xin:
Quán Trí trước đã ban ơn
Đến nơi Thạch Các trại quân trận tiền. (6300)
Dứt lời bóng hạc bay lên,
Đậu cành me lại dẫn đường phi lao.
Hai chàng vội bước chân mau,
Xuyên vùng chiến địa, nơi vào bản doanh.
Chiến binh Thạch Các ngũ ngon,
Kề bên vũ khí, giáp gươm đội hình.
Đường xa mệt mỏi bước chân,
Mỗi hàng đôi ngựa trắng tinh một màu.
Vua Hạ Quốc ngủ phía sau,
Hai chàng nhanh chóng tiến vào trại dinh. (6310)
Đỗ Mạnh khẽ: Đúng sự tình,
Đô Long khai báo rành rành chẳng sai.
Uy Lĩnh : Anh hãy ra tay,
Tô lo bầy ngựa cướp ngay mang về.
Đỗ Mạnh vung ngọn lưỡi lê,
Quân Thạch rên rĩ, trong mê xuất hồn,
Mắt thần soi sáng dục lòng,
Như sư tử bước vào trong dê cừu.
Mỗi khi hạ một kẻ thù,
Uy Lĩnh kéo cẳng lôi vào một bên. (6320)
Dọn đường cho ngựa nhanh chân,
Chẳng còn sợ hãi dẫm thân xác người.
Giết mười hai lính đến nơi,
Vua Hạ Quốc ngủ hồn vời cõi xa.
Lìa đời trong giấc mơ hoa,
Còn mơ con trẻ bên nhà đùa vui.
Uy Lĩnh buộc ngựa dây dài,
Huýt sáo ra hiệu bạn thời đi ngay,
Đỗ quân còn mãi mê say,
Tiếc xe vàng tính cột dây ngựa cùng. (6330)
Quán Trí Tuệ đến gần bên,
Dục chàng mau chóng nhanh chân trở về:
Chớ mang xe ngựa bộn bề,
Quân thù thức dậy đến kề khó khăn.
Nghe lời Thần Nữ báo tin,
Ty Đê công tử lên nhanh ngựa bầy,
Uy Lĩnh đánh chiếc nỏ tay,
Một đoàn ngựa chạy như bay về thuyền.
Khi Quán Trí giúp An Kinh,
An Long Cung Bạc giúp đoàn quân Troa. (6340)
Bay xuyên qua các dinh cơ,
Dục người em họ nhà vua dậy liền.
Quân sư Hĩ Bố đến nhanh,(Hippocoon)
Than ôi trận địa đã thành tang thương,
Ôm thây thương tiếc khóc than.
Quân Troa náo động bàng hoàng bước chân.
Đỗ quân xua ngựa về thuyền,
Đến ngang thi thể Đô Long nằm dài,
Trao thay Uy Lĩnh cầm tay,
Xách đầu lên ngựa như bay về nhà. (6350)
Ninh Tô nghe tiếng vó khuya,
Tươi cười tiên đoán việc đà thành công.
Tiếng chân bầy ngựa đến gần,
Hẵn là một trận chiến công hàng đầu.
Ninh Tô vừa nói dứt câu,
Một đoàn ngựa trắng như nhau lại gần.
Mọi người nhảy múa nhanh chân,
Reo hò tay bắt chào mừng chiến công.
Ninh Tô Vương lão hỏi rằng :
Kể đi Uy Lĩnh anh hùng An Kinh, (6360)
Làm sao đoạt ngựa bạch tuyền ?
Lẽn vào nơi chốn trại tiền làm sao ?
Thần nào giúp chiến công nao ?
Ta chưa thấy vó câu nào đẹp hơn !
Thật là quà tặng thần tiên,
Con yêu quý Đấng Hội Vân Khiên Vàng
Quán Trí Mắt Cú Nữ thần.
Soi đường dẫn lối chiến công lẫy lừng.
Uy Lĩnh bước xuống cười rằng:
Lão Vương tiên đoán sự tình chẳng sai ! (6370)
Ngựa này mới đến chiều nay,
Chạy từ Thạch Các vượt bay dậm ngàn,
Đỗ quân đã giết Quân vương,
Mười hai cận tướng áo quần sang thay !
Một tên do thám gần đây,
Hải Tô gửi đến, này thây hắn nào.
Trao bầy ngựa trắng bên rào,
Quân mang lúa mạch dẫn vào trại dinh.
Uy Lĩnh mang đặt cạnh bàn,
Thây Đô Long để tế thần hôm mai; (6380)
Chàng ra biển tẩy mồ hôi,
Rồi vào bồn tắm hương lài thơm tho.
Hai chàng nhập tiệc nê no,
An Gia hậu đãi một vò rượu thơm. (6384).
 

Kỳ tới Thi ca khúc XI : Chiến công vua Agamemnon (câu 6385 đến 7096)
Phạm Trọng Chánh (Nhất Uyên) chuyển ngữ thơ lục bát 2006-2011, nhuận sắc 2017

Chú thích:

(6004): tên húy tử. Hy Lạp ngày xưa không có họ, nên thường gọi dong dài với tên cha, ví dụ "Ulysse con ông Laërte". Tôi dùng công tử Laërte. Với các thần dùng thần tử và với phụ nữ dùng chữ nương tử cho đẹp câu thơ. Nhưng đối với Ulysse mà gọi là "  Ulysse cha Télémaque " là phỉ báng.

Diomède có tiếng hét kinh thiên động địa nên còn có tên là Kinh Thanh.

Ménélas nổi danh ngọn lao dài nên gọi là Trường Thương.

Thrasimède trao Diomède đoản kiếm hai lưỡi đều sắc bén.

(6172). Xe vua Nestor thành Pylos. Vương lão Nestor còn có danh hiệu Chiến Xa Công, xe nổi tiếng đóng bền chắc và đẹp nhất đương thời.

(6260) Lăng mộ Ilios nằm trên cánh đồng Scamandre.

(6268), Lélèges vùng bờ biển phía nam xứ Troade.

(6269). Thymbré phụ lưu sông Scamandre.

(6274) Thraces vùng Albanie ngày nay