Năm
1813, Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan từ ngày 6-4 ( năm Quí Dậu
Âm Lịch.) đến vùng đất cũ của Triệu Vũ Đế tức Triệu
Đà. Năm 297tr TL, Triệu Đà đánh thắng An Dương Vương sát
nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải,
Triệu Đà đã thống nhất các dân tộc Bách Việt vùng
Lĩnh Nam, từ lâu đời có chung tiếng nói, phong tục : trồng
lúa nước con trâu, cái cày, nón lá, ăn trầu, xâm mình, làng
mạc có lũy tre làng, có đình làng, có phong tục riêng phương
Nam.. Triệu Đà xưng Đế hiệu, liên
minh với các Lạc Hầu, Lạc Tướng xưng Vương tự trị rộng
rãi, thành lập một nước gọi Nam Việt tồn tại từ năm
207 trTL đến 111 trTL, 96 năm trải qua 5 triều vua. Đất Nam
Việt bao gồm vùng Quảng Đông, Quảng Tây, một phần Vân
Nam, Quý Châu và miền Bắc nước ta đến Nghệ Tĩnh, đóng
đô tại Phiên Ngung nay là Quảng Châu. Triệu Đà là
người đầu tiên xưng Đế hiệu độc
lập với nhà Hán, quy tụ dân tộc Bách Việt một lãnh
thổ rộng lớn. Dù ngày nay một phần lớn lãnh thổ đó không
còn nữa, nhưng nền độc lập gần
trăm năm, nó cũng là một mốc lớn lịch sử Nam Việt, nước
Nam độc lập với phương Bắc, còn để lại những di chỉ
khảo cổ phong phú, những ngôi mộ cổ quy mô với hàng
ngàn hiện vật vàng, ngọc, đồng
đá.
Triệu Đà người đời
Tần đến đầu thời Hán, thời đại này chưa có khái
niệm dân tộc Hán, triều Hán, Lưu Bang thành lập, phải trải
qua bốn trăm năm đồng hóa các dân
tộc khác biệt người Trung Hoa mới tự nhận mình là
người Hán. Từ triều Hán khởi đầu việc thống nhất về
chữ viết Hán tự, còn gọi là chữ Nho cho các việc quan,
' quan thoại ' vì vùng này sang vùng khác, tiếng nói phát âm
khác biệt không hiểu nhau. Tiếng Quảng Đông,
Hải Nam, Tiều Châu, Phúc Kiến, Bắc Kinh.. thời Triệu Đà,
Trung Quốc có hơn hàng trăm tiếng nói dân tộc khác biệt.
Chữ Nho xuất phát có lẽ từ vùng nước Ngô thời Xuân Thu
Chiến Quốc, người Nhật Bản gọi chữ Nho là Ngô tự, khi
nước Việt bị Sở diệt, một bộ phận dân cư Việt của
Câu Tiễn đã di cư sang Nhật Bản. Cũng như các dân tộc thời
chưa có chữ viết, người Việt Nam dùng chữ Nho, tiếng Hán
Việt trong việc quan, đình, chùa,
dần dà để phiên âm những tên người, tên đất những phát
âm không có trong chữ Hán, mới hình thành chữ Nôm.. Nền
học vấn nước ta từ thời Sĩ Nhiếp được tôn là 'Nam Bang
học tổ', cho đến năm 1918, là năm
cuối cùng bỏ kỳ thi Hương, suốt hai ngàn năm
đều dùng chữ Hán, cả một kho tàng văn
hóa Việt Nam các sáng tác đều dùng chữ Nho, chữ Nôm
chỉ là phần phụ thuộc.. Giao Châu, Luy Lâu ( Bắc Ninh) thời
Tam Quốc loạn lạc là một nơi thanh bình, chùa chiền san sát,
giới sĩ phu Trung Quốc sang tị nạn, nhà sư Tây Trúc dừng
chân, nơi đây trở thành nơi tập trung việc dịch Kinh Phật
và nghề làm giấy và in kinh. Phương nam biết làm giấy trước
trong khi tại Sơn Tây quê hương đạo Khổng còn chép Tứ Thư,
Ngũ Kinh trên thẻ tre, thanh sử. Các sứ thần nước ta ngày
xưa, khi tiếp xúc, hay xướng họa thơ với các quan Trung Quốc,
Triều Tiên, Lưu Cầu Nhật Bản phải dùng bút đàm, hay qua
người thông dịch. Thi hào Nguyễn Du từng có ba năm
đi giang hồ Trung Quốc (1787-1790) nói được thông thạo, đó
là nguyên nhân Nguyễn Du, tri huyện Thường Tín, được
đề cử tiếp sứ nhà Thanh, Tề Bồ Sâm năm 1803 sang phong
vương vua Gia Long và làm Chánh Sứ năm
1813. Cụ Phan Bội Châu đầu thế kỷ 20 khi tiếp xúc với
các nhân sĩ Trung Hoa, Nhật Bản thường dùng bút đàm.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Thất Hùng, bảy nước
lớn vừa được Tần đánh chiếm
năm 221 TCN, sự phản kháng chống đối các nước khác tiếng
nói, còn dữ dội, những trận chiến đẩm máu : tướng Bạch
Khởi giết 400 ngàn hàng binh nước Triệu, hay Hạng Vũ
giết 200 ngàn hàng binh nhà Tần trên một địa bàn lãnh thổ
dân số khoảng 20 triệu người, thì thật là kinh hoàng, chưa
mờ phai trong ký ức thời ấy. Do đó
không thể lấy nguồn gốc dân tộc Hán áp đặt lên một
nhân vật có trước đời Hán. Việc Triệu Đà thành
lập một quốc gia có chung một dân tộc Bách Việt có nhiều
nhóm, chung tiếng nói, phong tục, không có nghĩa là người
Hán cai trị Bách Việt. Triệu Đà, có thuyết dựa trên thần
phả làng Đồng Xâm chép ông có tên Nguyễn Cẩn vốn dòng
dõi vua Hùng, lấy vợ Việt làm hoàng hậu Trình thị Lan Nương,
người làng Đồng Xâm, tỉnh Thái Bình, ông đồng hóa với
phong tục Việt, xưng mình là người Nam Di , sách sử Trung
Quốc chép ông là người quê quán ở Chân Định, Hà Bắc.
Làng Đường Xâm, hay Đồng Xâm tỉnh
Thái Bình hiện có đền thờ Triệu Đà, từng có tên
Chân Định, là nơi xuất phát nghề làm vàng bạc nổi tiếng
nước ta. Thợ vàng bạc đi khắp nước Nam Bắc xưa và nay,
qua cả Lào, Cam Bốt qua cả Pháp, Mỹ.. nhiều người gốc
từ làng này. Có lẽ nó có một mối quan hệ truyền thống
từ đời Triệu Đà, qua những
hiện vật vàng bạc rất phong phú trong các mộ cổ nhà Triệu
?.
Ngày xưa, người Việt Nam gọi tên người Trung
Quốc tùy theo triều đại : Người Tống, người Minh Hương..
Người Ngô do nước Ngô thời Xuân Thu Chiến Quốc, nước
Ngô của Ngô Phù Sai bị Việt Vương Câu Tiễn diệt và sát
nhập, trái ngô là trái bắp do sứ thần họ Lương đời Lê
mang về từ Trung Quốc. (Chẳng phải Ngô mà chẳng phải
ta . Thơ truyền khẩu). Người Trung Quốc tại Việt Nam
cũng chỉ xưng mình là người Hẹ (Hắc Ka - Hải Nam), người
Tiều (Triều Châu), ngưởi Quảng Đông,
người Phúc Kiến.. Người Tàu chỉ mới xuất hiện đầu
thế kỷ 20 do chiến tranh Trung Nhật hàng triệu người đi
tàu vượt biển sang các nước Đông Nam Á. Trước đó có
chữ giặc Tàu Ô, cướp biển đi tàu mang cờ đen.
Nước Nam Việt có nhiều
phong tục đẹp, sách Phong Thổ Ký chép : Trong buổi sơ giao,
hai bên làm lễ kết nghĩa thường có lời thề : Anh
cỡi xe, tôi đội nón, khi gặp nhau sẽ xuống xe vái chào
tôi. Anh cầm ô, tôi cỡi ngựa, khi gặp nhau sẽ xuống ngựa
chào anh. Vạn sự biến đổi khôn
lường, chớ vì cỡi xe mà khinh kẻ đội
nón. Đó là tình xe nón nước Việt. Thơ Nguyễn Du bài
Chí Hiên tặng, chép trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương
có câu : Xe nón tình kia mãi mãi còn.
Triệu Đà theo phong tục tốt đẹp nước Việt, có lẽ đã
coi thường Lưu Bang, anh đình
trưởng sáng lập ra nhà Hán có thái độ vũ phu chưa biết
lễ phép là gì : giật mũ nón một Nho sĩ và đứng
đái tồ tồ lên trên : Ta cầm gươm, ngồi lưng ngựa
mà được cả thiên hạ, ta há cần đến bọn Nho sĩ.
Phải đợi đến mưu sĩ Trần Bình nhắc nhỡ : Bệ
hạ ngồi lưng ngựa mà được cả thiên hạ, nhưng bệ hạ
ngồi lưng ngựa mà trị nước được sao ? Lưu Bang mới
tỉnh ngộ. Khi sứ nhà Hán Lục Giả đi ngoại giao mà chỉ
dỡ trò hăm dọa : Lưu Bang sẽ nổi giận hủy hoại cả
mồ mã, tổ tiên, giết hại hết thân thích Triệu Đà ở
Chân Định. Triệu Đà đành
tạm khuất phục vì biết anh chàng Lưu Bang vũ phu này từng
nghi lễ uống huyết ăn thề trịnh trọng, thề thốt 'sông
cạn núi mòn' với các công thần hứa ban thưởng phong hầu,
đất đai truyền cho con cháu đời
đời, thế mà sau đó lại phản bội giết hầu hết
các công thần, như trường hợp Hàn Tín, khi lên thành công
lên ngôi, tịch thâu hết đất đai
phong hầu, tài sản, còn giết cả ba họ và xẻ thịt
cho chó ăn. Triệu Đà hậm hực
nói với Lục Giả : Tiếc thay ta
không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không ta
chẳng kém gì Hán Đế.
Triệu Đà là một
vị vua sáng suốt, anh minh, được nhân dân kính phục. Vùng
Quảng Châu đời Đường, hơn bảy
trăm năm sau, còn kể chuyện hồn Triệu Đà nhập vào
đồng cốt ban lời phán truyền, xử
kiện. Triệu Đà trở thành thần, thành Thành Hoàng nhiều
nơi từ vùng Quảng Tây, Quảng Đông
đến miền Bắc nước ta, một danh sĩ đã làm bài thơ
dài ca ngợi Triệu Đà như ca ngợi vua Thuấn. Người Nam Việt
gọi chim Mông Đồng và vua loài chim Việt và ví Triệu Đà
với loài chim quý đó. Ngày nay đi thăm
vùng Quảng Tây ta còn thấy khắp nơi hình ảnh các loài
chim vật tổ chim Mông Đồng từng
được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, nhiều nơi có tượng
Triệu Đà. Sau Lạc Long Quân, Triệu Đà là người thứ
hai 'sống mãi trong sự nghiệp chúng ta '. Lạc Long Quân
thủ lĩnh lập quốc : có công đánh Mộc tinh, Hồ tinh, Thủy
quái, chặt được một cây to, bắt được một con cáo khôn
ngoan, giết được một con cá sấu to lớn.. được nhân dân
nhớ ơn, khi có việc nguy khốn thường cầu khẩn : 'Bố ơi
về đây giúp con'. Hiện tượng một thủ lãnh bộ tộc
trở thành thần thánh phổ biến có mặt trong tất cả các
nền văn minh : Từ Ai Cập, thủ lãnh lập quốc thành con Thần
Mặt Trời , con Thần Ré. Akhénaton thiết lập tín ngưỡng
Độc Thần Giáo đầu tiên của
nhân loại chỉ thờ một Thần Mặt Trời.. Yahvé thủ lãnh
huyền thoại bộ tộc Do Thái, do ảnh hưởng đồng
thời của Độc Thần Giáo Ai Cập, trở thành Đức Chúa Trời.
Nghiêu Thuấn và Thiên mệnh của Trung Quốc . Thái Dương
Thần Nữ của Triều đình Nhật Bản, vua là con Thần Mặt
trời các dân tộc da đỏ Nam Mỹ. Hồng Tú Toàn theo Đạo
Thiên Chúa thời Nhà Thanh đánh chiếm nửa nước Tàu, lập
Thái Bình Thiên Quốc xưng mình là em Jésus. Đức Chúa Trời
sinh ra hai anh em Jésus và Hồng Tú Toàn.
Một thủ lãnh chính trị cai trị thu phục lòng
dân không do nguồn gốc chủng tộc. Hồ Quý Ly xưng mình là
dòng dõi Ngu Thuấn, đặt tên nước là Đại Ngu (Nghiêu). Cái
chúa Nguyễn cai trị phương Nam, số người Việt từ Thanh
Hóa đi theo chỉ Nguyễn Hoàng khoảng 5 000 người, người Việt
vùng Thuận Hóa lúc đó không hơn trăm
ngàn người. Gần 250 năm sông
Gianh, Lũy Thầy làm biên giới, không có chuyện người
Việt Nam " Nam tiến " hung hăng, tàn
ác diệt chủng 10 triệu người Chiêm rồi tràn qua chiếm nước.
Cũng không có chuyện nước Việt bị chia hai thời Trịnh Nguyễn,
với một mảnh đất mới nhỏ bé
phía Nam Hoành Sơn, phần còn lại chưa thuộc về Việt Nam.
Ngày nay cũng không tìm thấy tại miền Trung một dấu vết
gì một cuộc diệt chủng : những hố xương, hay địa danh
mang tên những cuộc tàn sát... Các chúa Nguyễn với đạo
đức Phật Giáo đã thu phục lòng
dân theo đạo Phật các dân tộc khác biệt : Việt, Chiêm,
Miên nên được tôn sùng là Sãi Vương, Hiền Vương.. Chiêm
Thành trước đó là một vương quốc Phật Giáo, vua Lý Thánh
Tông từng rước về nhà sư Thảo Đường. Bình Định , Huế
là những trung tâm Phật Giáo lớn
từ Đông Dương, Mỹ Sơn, Thập Tháp.. từ Vương Quốc Chiêm
Thành vẫn tiếp tục lan toả, truyền thống các nhà sư xuất
phát từ nơi này vẫn đi khắp nơi
truyền đạo, do đó người theo đạo Phật gọi người Chiêm
theo đạo Hồi là dân Hời. Đồng Hới là Động Hời nơi
tụ tập người Chiêm theo đạo
Hồi. Đó là lý do một nước tương đương dân số Đại
Việt ngày nay chỉ con 60 ngàn dân Hời. Do đó cần viết
lại trang lịch sử "Nam Tiến" để
thế hệ ngày sau nhìn rõ sự thật tổ tiên người Việt
Nam không tàn ác, hiếu chiến diệt chủng một dân tộc, và
cần thiết phải vinh danh nền văn
hóa Chăm trong đất nước Việt Nam.
Không nên lấy khái niệm quốc tịch, dân tộc,
quốc gia ngày nay áp dụng vào lịch sử ngày xưa. Thời Xuân
Thu Chiến Quốc đã có những tay du thuyết đi từ nước này
sang nước khác, vị vua nào dùng thì phong tước, họ phục
vụ làm đến Đại Thần, Tể Tướng
không có chuyện hỏi quốc tịch. Có những tướng lãnh
bỏ nước này sang nước khác làm tướng, khi thời cơ đến
tay thì họ phất cờ xưng vương, xưng đế, thất bại thì
thành giặc. Có những thương nhân
đi từ nước này sang nước kia buôn bán, có người
buôn ngọc và buôn cả vua như Lữ Bất Vi, cha huyết thống
của Tần Thủy Hoàng. Có những nhà sư Tây Trúc từ núi cao,
xuống núi đi dọc theo sông Dương Tử, sông Hoàng Hà, sông
Hồng, sông Cửu Long truyền đạo.
Nước ta có An Tiêm, Yết Kiêu, Dã Tượng, Hà Ô Lâu,
nhà sư Phật Quang, nhà sư Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, Mạc Cửu, Trần Thắng, Dương Ngạn Địch.. chẳng
ai thắc mắc hỏi ông đó quốc tịch gì ?
Các sử gia vùng Trung Nguyên Hoa Hạ, gọi dân
tộc Bách Việt 'trăm trứng trăm con'
này là Nam Di, luôn luôn kháng cự, dùng du kích nhiều
lần đánh bại quân đội nhà
Tần, nhà Hán. Cho đến ngày nay vùng tự trị dân tộc Choáng
còn gọi là Tày, Nông, Nùng là dân tộc thiểu số đông dân
nhất Trung Quốc 18 triệu người vẫn giữ bản sắc dân
tộc, không chịu đồng hóa, họ có chữ Nôm, nói tiếng Choang,
42 % dân số không biết chữ Hán. Các sử gia Việt Nam từ
Lê Văn Hưu đều công nhận nhà Triệu là một triều
đại nước ta trừ Ngô Thời Sĩ và gần đây
Đào Duy Anh. Nói đến Triệu Đà chúng ta không quên chuyện
Trọng Thủy, Mỵ Châu, chuyện thành Cổ Loa của vua An Dương
Vương. Chiếc nỏ thần thời An Dương Vương, ngày nay tìm
thấy có lẽ là bộ cơ khí đúc bằng
đồng hàng loạt, gắn vào nỏ gỗ, cung tên dàn sẵn,
chỉ cần bật cò là hàng loạt tên tung bay. Những khảo cổ
ngày nay tìm được những mộ cổ
Triệu Văn Đế, phong phú với hàng ngàn hiện vật vàng,
ngọc, đồng, sắt, đồ gốm, sứ,
ấn vàng xưng đế hiệu, áo chôn nhà vua bằng 2291 mảnh ngọc
kết dính lại bằng tơ đỏ (ti lũ ngọc y), nhiều sản phẩm
đi từ Ba Tư, Iran, Phi Châu đến cả thuốc men, thực phẩm,
tơ lụa. Nhà Triệu nước Nam Việt thời đại hưng thịnh
có buôn bán với các nước Tây, Á, Phi Châu. Có một nền
độc lập với Nhà Hán. Dân tộc Nam Việt có một nền văn
minh, tiếng nói, riêng biệt. Từ nguồn gốc vị vua đến triều
đại gây nhiều tranh cải. Nhà Nguyên dân du mục Mông
Cổ đánh nhà Tống cai trị Trung Quốc gần trăm
năm, nhà Thanh dân tộc Mãn Châu đánh bại nhà Minh cai
trị Trung Quốc 268 năm thế thì triều Nguyên, Thanh : Trung Quốc
là một nước thuộc địa, bị trị hay triều Nguyên, Thanh
là những triều đại thuộc lịch
sử Trung Quốc? Thời Xuân Thu Chiến Quốc : Việt Vương Câu
Tiễn, trang sử đó liên quan đến lịch sử nước ta hay thuộc
về ngoại sử. Ông Đào Duy Anh cho rằng khi nước Việt bị
Sở diệt một bộ phận người Việt đã chạy sang Giao
Châu. Hai Bà Trưng đánh hạ 65 thành ở Lĩnh Nam, phần lớn
các thành đó trì vùng Quảng Đông,
Quảng Tây, khi tuẩn tiết được lập đền thờ cúng tại
Phiên Ngung, Quảng Châu.
Sử Trung Quốc cũng chỉ công nhận Nam Việt
thuộc nhà Hán từ đời Hán Vũ Đế
, năm 111 vua Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đánh
nhà Triệu lấy nước Nam Việt rồi cải là Giao Chỉ
Bộ, chia làm 9 quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố,
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đạm
Nhĩ. Năm 1802 vua Gia Long sai Lê Quang Định, Trịnh Hoài
Đức đi sứ, xin công nhận tên
nước ta là Nam Việt, nhưng nhà Thanh không chịu, cải tên
thành Việt Nam.
Nguyễn Du đã hiểu
rõ nỗi lòng Triệu Đà, một thủ lãnh chính trị khôn ngoan,
khi viết : Nước Sở, nước Tần hai nước cường bạo nối
nhau diệt vong. Ông cứ ung dung nhún nhuờng ngồi làm bá chủ
phương nam. Tùy thích có thể xưng hoàng đế.
Vui điều thiện, chịu khuất với anh nhà nho. Nguyễn
Du chê cả sứ thần Lục Giả, là anh nhà nho tầm thường
chỉ mở lời hăm doạ. Triệu Đà
nhún nhường vì không muốn người thân
thích bị máu đổ xương rơi, nhân dân Nam Việt phải chịu
cảnh chiến tranh. Đài cao trăm thước ngoài Linh Biểu đã
đổ. Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung còn một nấm.
Khá thương đời nay đời khác thay
đổi nhau. Không bằng được một lão già Man Di.
ĐẤT CŨ TRIỆU
ĐÀ
Tần Sở bạo cường cũng nát tan,
Ung dung khiêm tốn giữ trời Nam.
Ngôi cao hoàng đế xưng tùy thích,
Tiếp đãi nhà
nho biết nhịn nhường..
Đài cao Lĩnh
Biểu ngoài kia đổ,
Mộ cũ Phiên Ngung một nấm còn,
Thương biết bao nhiêu triều đại
đổ,
Không bằng được
cảnh Lão Già Man.
Bản dịch Nhất Uyên
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TRIỆU VŨ ĐẾ CỐ CANH
Bạo Sở cường Tần tương kế tru,
Ung dung ấp tốn bá nam tu.
Tự ngu tận khả xưng hoàng đế,
Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu.
Bách xích cao đài
khuynh Lĩnh Biểu,
Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu.
Khả liên thể đại tương canh diệt,
Bất cập man di nhất lão phu.
Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược Nxb Sống
Mới , chương IV. Nhà Triệu chép : Triệu Vũ Vương (207-137
tr TL) Năm 207 Triệu Đà đánh được
An Dương Vương rồi sát nhập nước Âu Lạc váo quận
Nam Hải, lập thành một nước gọi là Nam Việt, tự xưng
làm vua tức là Vũ Vương, đóng đô
ở Phiên Ngung gần thành Quảng Châu ngày nay.
Trong khi Triệu Vũ Vương gầy dựng cơ nghiệp
ở Nam Việt thì vùng Trung Nguyên. Lưu Bang trừ được nhà
Tần, diệt được Sở Bá Vương Hạng Võ, thống nhất thiên
hạ lên ngôi Hoàng đế tức vua Cao Tổ nhà Hán. Vua Cao Tổ
thấy Triệu Vũ Vương độc lập phương nam, bèn sai Lục Giả
sang phong vương cho Vũ Vương năm thứ 12 nhà Triệu và năm
thứ 11 nhà Hán.
"Triệu Đà là
người kiêu căng không có ý thần phục nhà Hán. Lục Giả
vào đến nơi yết kiến Vũ Vương; Vũ Vương ngồi xếp bằng
tròn không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói
rằng : Nhà vua người nước Tàu, mồ mã thân thích ở cả
châu Chân Định. Nay Hán Đế đã
làm vua thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà
vua kháng cự sứ thần không làm lễ thụ phong . Hán Đế tất
tức giận phá hũy mồ mã, giết hại thân thích nhà vua, rồi
đem quân sang đánh thì nhà vua
làm thế nào ? Vũ Vương nghe lời ấy vội vàng đứng dậy
làm lễ tạ rồi cười mà nói rằng: Tiếc
ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không
thì ta chẳng kém gì Hán Đế."
Triệu Đà sai sứ đi
cống vua Hán những sản vật phương Nam: trầm, hương, kỳ
nam, tốc hương, ngà voi, sừng tê giác, lụa là, vải
bô, sa nhơn (amomes) đậu khấu (cardamomes),
cau khô, hai con công, và trăm con cà cuống(bélostoma indica
vitalis). Giai thoại kể chuyện về con cà cuống Triệu Đà
sai sứ đi cống nhà Hán.
Cà cuống là một giống như con gián nước ở
ruộng nước vỏ cứng tiết ra chất cay, phương nam rất quý
khi làm bánh thêm vào một giọt cho có hương vị. Vì chưa
có tên nên sứ thần ghi trong sớ là con quế đố, con sâu
quế, vì có chất cay của quế (Nam
Việt Đà nhân xưng quế đố). Nhưng chẳng may trong triều
Hán có kẻ biết bảo đây là con sâu nước (thủy
đố) sống trong ruộng nước, không phải là con quế đố.
Vua Hán mới phê trong tờ sớ: Thử nãi Đà chi cuống
dã, anh hùng vị tất bất khi nhân.
(Như Triệu Đà mà còn nói dối thì dù là anh hùng cũng
còn dám khinh vua thay) . Hai chữ Đà cuống (Đà nói dối) trở
thành cà cuống.
Cống sứ là một thông lệ các triều đại
Trung Quốc đặt ra để thoả mãn lòng kiêu căng của
nước lớn, chứng tỏ nước nhỏ thần phục mình, tránh vận
động chi phí binh đao, có đánh được
cũng không chắc giữ vững được lâu dài. Nước nhỏ
cũng có lợi nhận phong vương nhưng
được yên ổn, không chiến tranh. Khi bị nước khác đánh
có thể nhờ nước lớn bảo vệ giúp binh, nhưng có mối nguy
là có khi giúp binh rồi binh đó ở mãi không về thì
mất nước. Khi tiếp đón sứ thần,
triều đình Trung Quốc phải cử một vị tướng đứng ra
tổ chức việc tiếp sứ, các địa phương hàng trăm lính
tráng hộ vệ để tránh cướp bóc qua các nơi có cổng chào
bàn hương án. Nơi hoang vắng phải tổ chức dựng các trại
láng để sứ đoàn dừng chân,
nơi có làng mạc thì cung đình, lữ quán, cung phụng ăn uống
cả năm trời suốt hành trình, lại thêm đàn hát ca
múa, ngâm thơ vịnh cảnh, khi trở về vua Trung Quốc tặng
lại quà cho vua , cho các quan. Chi phí các cuộc tiếp rước
này có khi lỗ nặng, tặng một chi mười, so với phẩm vật
đi cống như trường hợp năm 1790
vua
Càn Long tiếp phái đoàn đi sứ 148 người với vua Quang Trung
giả.
"Năm 183 tr TL vua Cao Tổ
nhà Hán mất rồi, bà Lữ Hậu lâm triều tranh quyền
Huệ Đế, rồi lại nghe lời dèm pha, cấm không cho người
Hán buôn bán những đồ vàng bạc, đồ sắt và những đồ
điền khí cho người Nam Việt. Vũ Vương lấy làm tức
giận, lại ngờ cho Trường Sa Vương xui Lữ Hậu làm như vậy
bèn tự lập làm Nam Việt Hoàng đế, rồi cử binh mã sang
đánh quận Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.
Năm 181 tr TL, Hán Triều
sai tướng đem quân đánh Nam Việt. Quân nhà Hán chịu
không được phong thổ phương Nam,
nhiều người phải bệnh tật, bởi vậy phải thua chạy về
Bắc. Từ đó thanh thế Triệu Vũ Đế lừng lẫy, đi đâu
dùng xe ngựa theo nghi vệ Hoàng Đế như vua nhà Hán ."
Đến khi Lữ Hậu mất,
Hán Văn Đế lên ngôi, lại sai Lục Giả
đưa thư sang khuyên Vũ Đế về thần phục nhà Hán.
Thư rằng :
" Trẫm là con trắc thất vua Cao Đế,
phụng mệnh ra trị nước Đại, vì non sông cách trở,
thẹn mình ph&t lậu, cho nên lâu nay chưa từng đưa
thư sang hỏi thăm nhà vua.
Từ khi đức Cao Đế
xa bỏ quần thần, đức Huệ Đế qua đời, bà Cao Hậu lâm
triều, không may bị bệnh, để cho họ Lữ chuyên quyền, toan
đem con họ khác để nối vì đức Huệ Đế. May nhờ tông
miếu linh thiêng, các công thần ra sức dẹp kẻ tiếm
nghịch.
Trẫm vì các vương hầu cùng bách quan cố ép,
cho nên phải lên ngôi Hoàng Đế. Mới rối trẫm nghe nhà vua
có đưa thư cho Long Lư Hầu, nhắn tin và xin anh em họ hàng
ở quận Chân Định và xin bãi binh ở quận Trường Sa.
Trẫm cũng nghe lời thư của nhà vua, thì đã
bảo tướng quân Bác Dương Hầu bãi binh về, còn anh em họ
hàng nhà vua ở Chân Định thì trẫm đã cho người thăm nom,
lại sửa sang phần mộ nhà vua, thật là tử tế.
Thế mà vừa rồi trẫm nghe nhà vua còn đem quân
quấy nhiễu ngoài biên, quân Trường Sa thật khổ, mà Nam Quận
lại còn khổ hơn. Làm như thế, nước nhà vua có chắc lợi
được một mình không ? Tất là tướng tá quân sĩ chết nhiều,
làm cho người vợ góa chồng, người con mồ côi bố, cha mẹ
mất con, được một mất mười, trẫm không lòng nào nỡ
làm như vậy.
Vả lại đất nhà
vua không lấy làm to, được của nhà vua không
đủ làm giàu. Vậy từ phía nam núi Lĩnh thì mặc ý
nhà vua tự trị lấy. Nhưng nhà vua cứ xưng đế hiệu, hai
bên cùng là đế quốc mà không sai sứ giao thông, thế chẳng
hóa ra ganh nhau ư ? Ganh nhau mà không nhường, thì người nhân
không thèm làm.
Trẫm nay xin nhà vua gác bỏ điều cũ, từ rày
trở đi, thông sứ như xưa. Vậy trẫm
sai Lục Giả sang đem ý trẫm khuyên nhà vua nên nghe,
chứ làm chi nhiều sự cướp bóc tai hại."
Triệu Vũ Vương xem thư lời lẽ tử tế, thật
là có nhân từ, vì thế nên Triệu Vũ phải chịu phục và
đáp thư lại rằng :
"Nam Di Đại Trưởng
Lão Phu Thần, Đà muội tử bái bái, dâng thgư lên Hoàng
Đế bệ hạ. Lão phu là kẻ cố lại nước Việt, Khi Hiếu
Huệ Hoàng Đế lên ngôi, tình nghĩa không dứt, vẫn hậu đãi
lão phu. Đến khi Cao Hậu lâm triều, lại phân biệt ra
Trung Hoa, ngoại di, hạ lệnh cấm không được bán cho Nam Việt
những đồ vàng sắt và điền khí. Còn ngựa trâu, dê
thì chỉ bán cho giống đực chứ không bán cho giống cái.
Lão phu ở phương xa mà không có vật cúng tế
thì phải tội, vì thế có sai Nội Sử Phan, Trung Úy Cao, và
Ngự Sử Bình ba lượt dâng thư sang thượng quốc tạ quá
đều không trở về cả.
Lão phu lại phong văn rằng : nhà Hán đem hủy
hoại cả phần mộ lão phu cùng giết cả anh em tông tộc lão
phu, cho nên có bàn riêng với chúng rằng : nay trong đã không
vẻ vang với nhà Hán, ngoài lại không có gì hơn được
nước Ngô, vậy có xưng Đế hiệu: mà chẳng qua tự đế
nước mình, không dám hại gì đến thiên hạ.
Cao Hậu nghe thấy thế, lấy làm tức giận,
đem tước bỏ sổ Nam Việt đi, không
cho thông sứ, lão phu trộm nghĩ rằng : hẵn vì Trường
Sa Vương gièm pha, cho nên lão phu có đem
binh đánh.
Lão phu ở đất Việt
đã 49 năm nay, bây giờ đã có cháu rồi, nhưng mà sớm
khuya trằn trọc, ăn không ngon, ngủ không yên, mắt không dám
trông sắc đẹp, tai không dám nghe
đàn vui, là chỉ vì cớ không
được phụng thờ nhà Hán. Nay nhờ bệ hạ đoái thương,
cho phục lại hiệu cũ, thông sứ như xưa, lão phu nhớ
ơn, dẫu chết xương cũng không nát.
Vậy xin cải hiệu từ
đây, và xin có cống phẩm phụng hiến Hoàng Đế bệ
hạ. "
Từ khi Triệu Vũ Vương
chịu bỏ Đế hiệu, Nam Bắc lại giao thông hòa hiếu.
Bề ngoài nước Nam Việt nhận phong vương nhà Hán, nhưng trong
nước vẫn giữ đế hiệu, để giữ
ngôi cao hơn các bộ tộc Việt, các tù trưởng xưng vương.
Năm 137 tr TL Triệu Vũ Vương mất thọ 121 tuổi làm vua được
hơn 70 năm.( Có sách chép ông thọ chỉ 91 tuổi.)
Triệu Vũ Vương truyền
ngôi lại cho cháu đích tôn tên là Hồ tức Triệu Văn
Vương (137-125 trTL) trị vì được
12 năm. Triệu Văn Vương vốn là người tầm thường, tính
khí nhu nhược không được như Triệu Vũ Vương, khi mới
lên làm vua được hai năm, vua Mân
Việt (tỉnh Phúc Kiến) đem quân sang đánh phá chổ biên
thùy nước Nam Việt. Triệu Văn Vương
không dám đem binh mã chống cự mà sai sứ sang cầu cứu
triều Hán. Vua Hán sai Vương Khôi và Hàn An Quốc đi
đánh Mân Việt. Quân Mân Việt thấy quân Hán đến nơi, nên
bắt Quốc vương giết đi đem đầu nộp nhà Hán. Mân Việt
đã bình rồi. vua Hán sai Trang Trợ sang chiêu dụ Triệu
Văn Vương sang chầu, nhưng đình thần
xin đừng đi bèn sai Thái Tử Anh Tề đi thay. Anh Tề ở bên
triều Hán mười năm, đến khi Triệu Văn Vương mất mới
về nối ngôi. Thái Tử Anh Tề làm vua tức Triệu Minh
Vương (125-113 tTL), trị vì 12 năm. Anh Tề khi làm con tin ở
Hán có lấy vợ là Cù Thị, khi lên làm vua lập Cù Thị làm
Hoàng Hậu và con làm Thái Tử. Triệu Minh Vương mất, Thái
Tử Hưng lên làm vua tức Triệu Ai Vương trị vì được
một năm. Nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quí sang dụ Nam Việt
về chầu. Nguyên Thiếu Quí trước là tình nhân Cù Thị, đến
khi sang Nam Việt gặp nhau tư thông với nhau và dỗ dành Ai
Vương đem nước Nam Việt dâng nhà Hán.
Tể Tướng Lữ Gia biết rõ tình ý khuyên ngăn
không được, truyền hịch và đem quân giết sứ nhà
Hán, Cù Thị và Ai Vương. Tôn Kiến Đức con trưởng mẹ người
Nam Việt lên làm vua tức Triệu Dương Vương, được
một năm, vua Vũ Đế nhà Hán sai Phục Ba tướng Quân,
Lộ Bác Đức Mã Viện đem năm đạo quân sang đánh Nam Việt.
Lữ Gia chống cự không lại đem vua bỏ chạy, đều bị bắt
giết. Năm 111 tr TL nước Nam bị người Tàu chiếm lấy
cải là Giao Chỉ bộ chia làm chín quận đặt quan cai trị.
Từ năm 111 tr TL đến
932 sau TL, nước ta bị Bắc Thuộc 1050 năm, trải qua nhiều
thời đại : Hán(Tây Hán(202TCN -8 SCN) Đông Hán (25-220), Tam
Quốc (220-265), Tấn(265-420), Nam Bắc Triều (420-588), nhà
Tùy(589-617), nhà Đường(618-907), thời Ngũ Quý (907-959), nước
ta qua các cuộc cuộc khởi nghĩa dành được
độc lập một thời gian ngắn: Trưng Vương(40-43), Bà Triệu
(248). Lý Nam Đế, Lý Phật Tử lập nên nhà Tiền Lý
(544-602) đặt tên nước Vạn Xuân, Mai Hắc Đế (722), Phùng
Hưng(791), Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ (906-923),
Dương Diên Nghệ và Kiều Công Tiển
(931-938) cho đến năm 938 Ngô Quyền phá quân Nam Hán, giết
thái tử Hoằng Thao nước ta mới dành được độc lập hoàn
toàn.
Thời Tam Quốc, Tôn Quyền cho cho người tìm
mộ nhà Triệu, và đã tìm ra được mộ Anh Tề và lấy được
nhiều vật quý. Mộ Triệu Đà cho
đến nay vẫn chưa tìm được.
Tháng 8 năm 1980, tại
gò Tượng Cương ở Quảng Châu, nhân việc đào đất xây
chung cư đã tìm ra được mộ
Triệu Văn Đế, cháu nội kế vị Triệu Đà với chiếc
ấn vàng 'Văn Đế Hành Tỉ'
và hàng ngàn hiện vật quý trong mộ táng, xác
ướp được mặc chiếc áo bằng ngọc từng miếng vuông kết
dây vàng. Các di vật triều đại nhà Triệu Nam Việt
có mang sang triễn lãm tại Paris.
Nhà Triệu là triều đại
tập họp các dân tộc Bách Việt đầu tiên việc kế thừa
truyền cho con cháu. Trước đó nước ta các vua Hùng
kế thừa bằng các cuộc thi : thi nấu ăn như sự tích bánh
dày bánh chưng, thi dâng lễ vật như chuyện Sơn Tinh Thủy
Tinh, thi đấu vật.. hai chữ Hùng Vương chứng tỏ là người
hùng mạnh đời này truyền cho người hùng mạnh khác, quý
tộc nước Sở cũng mang họ Hùng, hùng là con gấu, các tù
trưởng các bộ lạc da đỏ Châu Mỹ thường xưng mình là
Gấu Đen, Gấu Đỏ, Gấu Vằn.... di
chỉ khảo cổ thời Hùng Vương tìm được
các đồ gốm, đất nung, trống đồng.. tổ chức xã
hội chỉ dừng lại như các thôn bản Mường, thời Hùng Vương
chỉ là một liên minh vài chục bản Mường, vài chục ngàn
dân, không tìm thấy một ngôi mộ cổ nào có hiện vật quan
trọng và phong phú do nền văn minh
chỉ sản xuất ra những dụng cụ bằng tre nứa . Cây đàn
Thạch Cầm bằng đá là vật hiếm hoi tìm thấy. Các
hình ảnh trên trống đồng Ngọc Lũ cho thấy những ngồi
nhà rông, du khách ngày nay có thể còn thấy tại Indonésia,
có cả bộ tộc xưng mình là con cháu Hai Bà Trưng đến
từ Lạc Việt. Những người mặc áo lông chim, giả gạo,
thuyền độc mộc có thể tìm thấy ngàynay tại Mã Lai.
Nghiên cứu về khảo cổ, ngôn ngữ, lịch sử Đông Nam Á
còn sẽ mở cho ta những cánh cửa quan trọng về một vùng
rộng lớn có chung nghề trồng lúa nước, từ Indonésia, Miến
Điện, Cam Bốt lên đến Quảng Đông,
Quảng Tây. Các dân tộc gần gủi với nhau một dòng
sông Cửu Long, có cùng phong tục ăn trầu, xâm mình, thờ cá
ông. . Có lẽ phải tìm đến Angkor tiếp nối vương quốc
Phù Nam, để tìm thấy đây là một Hy Lạp của vùng Đông
Nam Á .Từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 15 kinh đô Angkor với
những công trình xây dựng nguy nga thếp vàng bạc đá
quý trên các đền tháp to lớn, thành phố có dân số khoảng
một triệu dân, một New York đương
thời. Ngôn ngữ Việt Nam được xếp vào ngữ hệ Môn-
Khmer. Môn là một dân tộc có nền văn
minh sáng chói từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ 10
tại Miến Điện. Gia phả các vua Hùng viết đời Lê
Thánh Tôn có lẽ chỉ là một tưởng tượng cao hứng của
một nho sĩ, mười tám đời vua không thể trị vì trên hai
ngàn năm. Không thấy Việt Nam tìm thấy gì những di chỉ khảo
cổ Phố Hiến, thành phố đầu tiên do Chử
Đồng Tử và Tiên Dung Công Chúa thành lập và là người
đầu tiên du nhập Phật Giáo vào Việt Nam.
Trước đời Lý các
vua Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đều truyền cho
người hùng mạnh. Phải đến Lý Công Uẩn nước ta mới lại
truyền ngôi vua cho con cháu. Di chỉ khảo cổ Hoàng thành Thăng
Long xác định một một nhà nước tổ chức quy cũ,
một thời kỳ mới. Các di chỉ khảo cổ cho thấy nhà Triệu
tại Quảng Châu ngàn năm trước đó
đã có một tổ chức xã hội khá cao vá quy cũ. Có giao
thương buôn bán với các nước Ba Tư (Iran),
Ấn Độ, Phi Châu. Nghề vàng bạc, đá quý tơ lụa điêu
khắc tinh xảo.. Trước sự bành trướng của nhà Hán, vùng
Quảng Đông, Quảng Tây là những lãnh thổ dân tộc Bách Việt
bị đồng hóa. Nước ta không có sách sử ghi chép nhiều những
sự kiện trước thời nhà Lý. Việc tìm kiếm những tư liệu
về các dân tộc vùng Bách Việt, về nước ta thời Bắc Thuộc:
Tam Quốc Tôn Quyền cai trị, thời nhà Đường, nhà Tùy cai
trị trong sách sử Trung Quốc Đông Nam Á là những việc cần
thiết để hiểu hơn một giai đoạn
trong lịch sử Việt Nam.
Tài liêu tham khảo:
Trần Trọng Kim; Việt Nam Sử Lược quyển I.
Sống mới tái bản 1978 tại California.
Trần Gia Ninh. Nhìn lại lịch sử Bách Việt
và quá trình Hán Hóa Bách Việt. site Nghiên cứu lịch sử.
Mạch Anh Hào Trường trình Hội Nghị Khảo Cổ
Đông Nam Á từ 9 -đến 13-2-1995 tại
Hương Cảng.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du. Văn Học 1995.
Hương Giang Thái Văn
Kiểm. Việt Nam gấm hoa; Làng Văn Canada 1997. Bài Nguyễn
Du đi sứ Trung Quốc.
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Paris, 19-12-2016
|