Trên
đường đi sứ năm Quý Dậu (1813)
, Nguyễn Du đi qua tỉnh Hà Bắc trong khoảng thời gian 21-9
ÂL, đến ngày 4-10 thì đến
Bắc Kinh. Nguyễn Du đi ngang qua mộ con kỳ lân. Kỳ lân là
một giống linh thú, không dẫm lên vật sống, không bẻ cành
cây tươi, nên gọi là giống thú có nhân. Chỉ khi nào có
thành nhân ra đời thì kỳ lân mới xuất hiện. Do đó
kỳ lân được tượng trưng cho điềm lành báo hiệu thời
thịnh trị. Kỳ lân đứng hàng thứ nhì trong 4 con linh
thú : Long, Lân, Qui, Phụng. (Rồng, Kỳ Lân, Rùa lớn, Phượng
hoàng.) Trên các bình phong trước đình miếu, vẽ đắp nổi
hình Kỳ lân : đầu rồng, thân ngựa con, có vẩy cá. Ở Tây
phương, gọi là con licorne, tạm dịch là con lân, hình như
ngựa con có sừng trắng trước đầu cũng là con vật huyền
thoại, vẽ dệt trên bộ thảm đỏ danh tiếng ở Viện Bảo
Tàng Cluny, Saint Michel, Paris.
Nguyễn Du viết : Trên đường
đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước (ta) dựng bên đường
cái. Trong đó có mấy chữ viết to lối chữ chân " Mộ
Kỳ Lân ". Ông lão bên đường bảo ta rằng : "
Năm Vĩnh Lạc thứ tư, tức niên hiệu của Minh Thành
Tổ (1403-1424) tức năm 1407, chổ này chôn con kỳ lân, là phẩm
vật đi cống chết. Quan sai dựng bia ghi rõ việc. Chuyện quá
lâu rồi tính đến nay (406 năm), chỉ
thấy đường phẳng, không gò đống.
Không nấm đất đắp mộ, không trồng cây. Phiến đá xiêu
vạo, rêu phủ mờ.. Sáng gió lạnh thổi, chiều mưa dầm dề
tuôn. Than ôi ! kỳ lân vì đâu mà mày hiện ra ? Than ôi, kỳ
lân là giống vật báo điềm lành trên trời. Nay xương thịt
bỏ cho sâu kiến đục. Ôi kỳ lân ! ôi kỳ lân ! sao mày khổ
thế ! Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào ? Cướp
ngôi của cháu, tự lập lên làm vua, y không phải là bậc
chính nhân. Để hả một cơn giận
y giết cả mười họ người ta. Giết trung thần bằng cách
đánh bằng gậy lớn và nấu trong
vạc dầu lớn. Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người.
Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu. Ôi kỳ lân !
nếu mày vì kẻ ấy hiện ra, thì mày chỉ là đồ yêu
quái, có gì đáng quí ? Hoặc là mày sống ở đời không nở
nhìn cảnh chém giết. Nên đến chỗ này mày chết trước.
Than ôi kỳ lân là loài thú có đức nhân. Trên trời chẳng
thấy nên cho là điềm lành. Thấy thì chẳng qua cũng như loài
chó, dê. Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà xuất hiện. Thì
thời ấy sao không dạo chơi xuống phương Nam.( Nơi có vua
Lê Lợi ra đời).
MỘ KỲ LÂN
Đường Hà Bắc bia
cao năm thước,
Mấy chữ chân, bia " MỘ KỲ LÂN. "
Lão bên đường bảo ta rằng :
Vĩnh Lạc thứ tư,
nơi đây chôn kỳ lân cống chết.
Quan trên dựng bia ghi sự việc,
Việc ấy xưa nay
đã lâu rồi.
Đường cái quan phẳng
bằng, chẳng gò đống mà thôi,
Chẳng đắp mộ,
chẳng trồng cây cối.
Phiến đá xiêu
vẹo phủ mờ rêu tối,
Gió lạnh sáng mai, mưa xối chiều tà.
Ôi kỳ lân, vì đâu mày hiện ra ?
Than ôi ! kỳ lân là giống vật báo điềm
trời giáng.
Nay xương thịt sao
bỏ sâu kiến đục ?
Ôi kỳ lân ! Ôi kỳ lân ! sao mày khổ thế
này ?
Huống chi Yên Đệ người thế nào đây ?
Cướp ngôi cháu, tự lập vua, chẳng phải
là quân tử !
Hả một cơn giận, giết người mười họ.
Giết trung thần bằng gậy lớn, vạc dầu
to.
Trong năm năm, giết
trên trăm vạn người ta.
Xương trắng chất
núi, đất bằng ngập máu.
Ôi kỳ lân, nếu mày vì kẻ ấy,
Mày chỉ là đồ yêu quái có quý chi !
Mày sống ở đời không nở nhìn cảnh chém
giết làm chi !
Nên đến chổ này, mày chết trước.
Than ôi ! kỳ lân là loài thú có nhân có
đức.
Trên trời chẳng thấy nên cho đó là điềm
lành.
Ta thấy chẳng qua như loài chó loài dê,
Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện
xuống,
Thuở ấy sao chẳng rong chơi xuống phương
Nam ?
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
KỲ LÂN MỘ
Hà Bắc đạo trung,
ngũ xích phong bi đương đại lộ,
Trung hữu khải tự
đại thư : “KỲ LÂN MỘ.”
Đạo bàng cố
lão vị dư ngôn:
"Vĩnh Lạc tứ niên, cống lân, đạo tử,
táng thử thổ ?
Quan mệnh lập bi dụng tồn cổ."
Thử sự hất kim dĩ kinh cổ.
Đãn kiến quan đạo
đãng đãng vô khâu lăng.
Kỳ bàng bất phong diệc bất thụ.
Phiến thạch khuynh
khi đài tiển man.
Thê phong triêu xuy, mộ khổ vũ !
Hu tai lân hề, hà do đổ ?
Hu ta lân hề, thiên thượng tường !
Cốt nhục ủy chi trùng nghĩ đố.
Lân hề, lân hề, nhĩ hà khổ ?
Hà huống Yên Đệ, hà như nhân ?
Đoạt diệt tự lập
phi nhân quân.
Bạo nộ nhất sính di thập tộc,
Đại bổng cự hoạch
phanh trung thần.
Ngũ niên sở sát bách dư vạn.
Bạch cốt thành sơn, địa huyết ân !
Lân hề, quả vị thử nhân xuất,
Đại thị yêu
vật, hà túc trân.
Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục,
Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân.
Hu ta, nhân thú hề, kỳ lân !
Ư thế bất kiến dĩ vi tường.
Kiến chi bất quá
đồng khuyển dương,
Nhược đạo năng
vị thánh nhân xuất,
Đương thế hà
bất Nam du tường ?
Minh Thành Tổ (1360-1421) Minh Thái Tông, Hoàng
đế thứ 3 nhà Minh trị vì từ năm
1402 đến 1424 , dùng một niên hiệu Vĩnh Lạc trong 22
năm, nên còn gọi là Vĩnh Lạc Đại
Đế, được ca ngợi là Vĩnh Lạc thịnh thế. Là một
vị vua tàn bạo nhất trong lịch sử Trung Quốc, cũng là vị
vua đưa sự bành trướng Trung Quốc đến
cực điểm. Minh Thành Tổ tên thật là Chu
Đệ sinh ngày 2-5-1360 tại Nam Kinh, con thứ tư của Minh
Thế Tổ Chu Nguyên Chương(1368-1398) và Cao Hoàng hậu Mã Thị.
Chu Nguyên Chương giám sát giáo dục nghiêm ngặt, phong cho các
con nắm giữ binh quyền tại các đất
phong có quân đội riêng tự vệ. Khi Chu Nguyên Chương
tại thế các hoàng tử làm tốt vai trò, Chu Nguyên Chương
không tin vào các cận thần, các tướng lãnh. Chu Đệ
được phong làm Yên Vương, thủ đô tại Bắc Bình (nay
là Bắc Kinh) vốn là thủ đô triều nhà Nguyên Mông Cổ. Đất
phong rộng lớn, giàu có, ông tạo
được một triều đình độc lập, bên cạnh có tướng Từ
Đạt là cha vợ. Sau một loạt chiến dịch chống Mông
Cổ thành công, ông cũng cố quyền lực mình ở phiá Bắc,
ông tìm cách loại trừ đối thủ
Đại tướng Lam Ngọc, người có công lớn trong việc đánh
đuổi Nguyên Mông, gia đình vợ
của thái tử nối ngôi. Chu Đệ biết Minh Thế Tổ không thích
tướng Lam Ngọc nên vu cáo Lam Ngọc làm phản, Lam Ngọc
và toàn gia bị giết. Thái tử mất sớm. Chu Đệ
ban đầu chấp nhận sự chỉ định của Minh Thái Tổ người
kế vị là đứa cháu trai Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn(1399-1402).
Khi Minh Thái Tổ mất, vị Hoàng đế mới lên ngôi bắt đầu
giáng chức và tiêu diệt những ông chú. Chu Đệ ra tay
hành động lật đổ cháu trai. Cuộc
chiến bất lợi cho ông lúc đầu nhưng cuối cùng, ông đem
quân từ Bắc Bình xuống thủ đô Nam Kinh giành ngai vàng
năm 1402. Minh Huệ Đế chết cháy trong
trận chiến.
Chu Đệ trở thành
Minh Thái Tông, hợp pháp hóa việc lên ngôi, xóa bỏ toàn bộ
thời gian trị vì người cháu, tiêu hủy và sửa đổi các
tài liệu liên quan đến tuổi thơ và cuộc nổi loạn của
ông. Điều này dẫn đến sự thanh trừng vô số các viên
quan ở Bắc Kinh. Minh Thành Tổ sai đại thần là Phương Hiếu
Nhụ thảo chiếu lên ngôi. Hiếu Nhụ viết bốn chữ lớn
"Yên Tặc thoán vị " (Giặc Yên cướp ngôi) rồi ném bút nói
"Chết thì chết, chiếu không thảo".
Chu Đệ giận bảo : "Không nghĩ
đến chín họ sao ? ". Hiếu Nhụ trả lời : " Dù có
chết mười họ ta cũng không sợ ". Tức thì Chu Đệ
cho đánh tan xác và phanh thây Hiếu Nhụ rồi bắt các
học trò ông qui thành một họ, cộng với chín họ Hiếu Nhụ
là mười, đem giết hết. Ba họ là họ cha, họ mẹ, họ vợ,
mười họ là thêm họ bà nội, họ bà ngoại, họ bà sơ,
họ bà cố, tổng cộng khoảng 10 ngàn người của Phương
Hiếu Nhụ, con trai bị giết con gái bị bán làm nô tì. Lần
duy nhất trong lịch sử Trung Quốc có chuyện giết 10 họ vì
một người. Chu Đệ là người
tàn bạo vượt xa cả Tần Thủy Hoàng.
Minh Thành Tổ lên ngôi ban thẩm quyền đặc
biệt cho bọn hoạn quan, ngoài vòng pháp luật để
tố cáo, chỉ điểm bắt các quan lại không trung thành.
Các hoạn quan lộng quyền lập hai cơ sở tình báo, điều
này dẫn đến sự lộng quyền các hoạn quan, làm suy vong nhà
Minh các đời sau.
Minh Thành Tổ tiếp nối chính sách chuyên chế
tập trung của Thái Tổ Hồng Vũ Hoàng Đế,
tăng cường thể chế đế quốc. thành lập thủ đô mới
Bắc Kinh. Nhân nhà Hồ tiếp ngôi nhà Trần
tại Đại Việt, Minh Thành Tổ cho hoạn quan sang điều tra
và đem quân xâm lược, đánh bại cha con Hồ Quý Ly, đánh
bại các cuộc khởi nghĩa Giản Định Đế, Trần Quý Khoách,
nhà sư Phạm Ngọc.. chiếm đóng Đại Việt từ năm 1407 đến
1428 . Lê Lợi trải mười năm kháng chiến mới dành
lại độc lập. Dưới thời đô họ
nhà Minh, toàn bộ sách vở thời Lý Trần đều
bị tịch thu đem về Kim Lăng Nam Kinh . Di sản văn hóa Lý Trần
suốt bốn trăm năm đều bị hủy diệt. Người chống đối
như Tiến sĩ Lê Cảnh Tuân viết Vạn Ngôn Thư bị bắt
giam trong ngục Kim Lăng đến chết.
Thầy thuốc giỏi, người tài và phụ nữ đẹp
bị bắt về Trung Quốc. Tuệ Tỉnh Thiền sư chữa bệnh cho
triều đình Trung Quốc, Hồ Nguyên Trừng đúc
súng thần công cho Trung Quốc, Kiến trúc sư Nguyễn An xây
cung điện Bắc Kinh... Hàng trăm ngàn thợ gỉỏi bị
bắt đi xây dựng cung cấm Bắc Kinh
dưới sự chỉ huy của Nguyễn An. Người nổi dậy bị bắt
mổ bụng, chặt đầu xác chồng như núi.
Minh Thành Tổ là vị vua tàn bạo nhất lịch
sử Trung Quốc, gieo bao tang thương thảm khốc cho dân tộc
Việt Nam, ngày nay được xem là vị vua vĩ đại có công lớn
với lịch sử Trung Quốc.
Minh Thành Tổ cải cách khoa cử thay vì chế
độ đề cử và bổ nhậm.
Đối ngoại bành
trướng, tiến hành chiến dịch quy mô chống Mông Cổ, xây
dựng lại Vạn Lý Trường Thành. Tăng cường ảnh hưởng
khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Thành lập hạm đội hùng hậu do tướng Trịnh
Hoà (1371-1433) điều khiển. Hạm đội
đã xuống tận phía bắc nước Úc đi qua bán đảo Á Rập
và tới tận Somali. (Có tài liệu còn cho Trịnh Hoà khám
phá ra Châu Mỹ). Trung Quốc ngày nay lấy cớ Trịnh Hòa có
ghé ngang Trường Sa, Hoàng Sa nên hai quần đảo ấy thuộc
về Trung Quốc.
Sửa và mở lại Kênh Đại Vận Hà.
Hoàn thành Vĩnh Lạc Đại
Điển, một công trình Bách Khoa toàn thư đồ sộ.
Minh Thành Tổ đã gây tang tóc và đau thương
cho Việt Nam. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại
Cáo đã viết :
" Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để
trong nước nhân dân oán hận. Quân cuồng Minh đã thừa
cơ tàn ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ
dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe,
ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn.
Nặng thuế má vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ,
nào xuống bể mò châu, nào hố bẩy hươu đen, nào lưới
dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay
vợ góa, kẻ không nhà. Kẻ há miệng,
đứa nhe rằng, máu mở bấy no nê chưa chán. Nay xây
nhà, mai đấp đất, chân tay nào phục
dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất
cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết
tội ; dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo
thần nhân nhịn được. "
Thi hào Nguyễn Du khi đi
ngang qua mộ kỳ lân đã tỏ rõ thái độ
với bị vua được xem là Đại đế của Trung Quốc. Y không
phải là một tên chính nhân quân tử, y chỉ là một
tên sát nhân điên cuồng, một tên
tội phạm của lịch sử Trung Quốc, trong năm năm giết trên
trăm vạn người ta, xương trắng thành núi máu đầy mặt
đất. Hả một cơn giận giết mười họ hàng ngàn người.
Giết trung thần bằng gậy lớn vạc dầu to. Kỳ lân thời
ấy hiện ra rồi chết dọc đường vì không muốn nhìn mặt
tên vua tàn bạo. Thuở ấy kỳ lân sao không đi về phương
Nam, nơi ấy có vị vua lấy " Đại
nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cuồng bạo. "
Hậu duệ của thi hào Nguyễn Du, nghĩ gì về
một Trung Quốc hiện đại, đã
qua thời các lãnh tụ gây cảnh 35
triệu người chết đói, người ăn thịt người, nay trương
ngọn cờ của Minh Thành Tổ, bành trướng bên ngoài,
diệt người trung chính bên trong.
Paris, 26-6-2016
PHẠM TRỌNG CHÁNH
*
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V..
|