Theo
huyền thoại người xưa : Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu,
Bích Hải, Thương Ngô là những cảnh thần tiên. Bài Phụ
kê có câu :
Bồng Lai, Phương
Trượng thôi ngôi, Triêu du Bich Hải, mộ hồi Thương Ngô.
(Non Bồng, núi Trượng cao cao, Sớm ra Bích Hải, chiều vào
Thương Ngô). Những cảnh Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu,
Bích Hải ngày nay chúng ta không còn tìm thấy dấu vết nơi
nào, có lẽ vì theo huyền thoại cửa vào Đào Nguyên đã khép
kín, chỉ còn Thương Ngô, nơi đó thi hào Nguyễn Du đã đi
qua làm hai bài thơ Đường luật : Thương Ngô tức sự, Thương
Ngô mộ vũ và 15 bài thơ bảy chữ bốn câu : Thương Ngô trúc
chi ca trong Bắc Hành Tạp Lục. Đoàn Nguyễn Tuấn cũng
viết ba bài thơ về Thương Ngô trong Hải Ông thi tập.
Thương Ngô là nơi
vua Thuấn du hành, nơi phương Nam và mất ở đó, hai bà phi
Nữ Anh và Nga Hoàng, con gái vua Nghiêu, thương khóc nước mắt
rơi trên khóm trúc tạo thành loài trúc có đốm. Nơi đây
có núi Cửu Nghi, còn gọi là Thương Ngô Sơn có chín ngọn,
núi ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam.. Ta thử tìm về địa
danh Thương Ngô và những địa danh : Tầm Giang, Ngô Thành,
Tam Sở, Cửu Nghi, Tương Đàm, Quế Lâm, Quảng Đông, các Văn
Xương, các Thiên Phi, Hành Dương, núi Kê Lung, qua thi ca Nguyễn
Du, để xác định con đường Thương Ngô nhà thơ đã đi qua
trong hai chuyến du hành năm 1788 và năm 1813.
Bài Thương Ngô
Mộ Vũ : Vũ trệ Tầm Giang hiểu phát trì (Mưa giữ lại
ở Tầm Giang sáng lên đường muộn). Tầm Giang là tên gọi
đoạn sông dài 170 km thuộc sông Châu Giang là đoạn thượng
du của Tây Giang. Nó là hợp lưu của Kiềm Giang và Úc Giang
tại Quế Bình (Quý Cảng, Quảng Tây) chảy tới Ngô Châu.
Nơi đây nó hợp lưu với sông Quế Giang thành sông Tây Giang,
chi lưu của nó là Đại Hoàng Giang từ hướng nam chảy về
hợp lưu gần Ngô Châu. Ngô Thành là thành Ngô Châu, nằm ở
bờ sông Châu Giang thuộc tỉnh Quảng Tây . Bài Xuân Dạ của
Nguyễn Du trong Thanh Hiên thi tập có nhắc đến địa danh Nam
Đài, Long Thủy. Long Thủy là một con sông nhỏ nằm ở thị
trấn Long Châu , cũng trên hệ thống sông Tây Giang.
Quế Lâm là thành
phố thủ phủ tỉnh Quảng Tây. Quế Lâm nổi danh với câu
: Quế Lâm cảnh đẹp nhất trần gian. Cảnh non nước Quế
Lâm đứng đầu thiên hạ, nay là một thành phố 5 triệu dân.
Tây giáp Liễu Châu, Nam giáp Ngô Châu. Quế Lâm có sông Quế
Giang chảy qua, còn gọi là sông Lý Giang, hai bên bờ sông là
núi đá vôi, cảnh đẹp, các tranh thủy mặc vẽ núi sông
xuất phát từ vùng này.
Năm 218 TCN tướng
nhà Tần, Đồ Thư đem quân xuống đánh chiếm miền Nam Trung
Quốc bị tử trận thảm bại, nhưng tướng công binh là Sử
Lộc đã hoàn thành xây dựng kênh Linh, nối liền sông Lý
Giang, Quảng Tây với sông Tương. Đo đó có thể dùng đường
thủy từ Quảng Đông, Quảng Tây đến sông Trường Giang và
đường kênh Đại Vận Hà đào từ đời nhà Đường nối
các con sông lớn Giang Nam.
Năm 214TCN nhà Tần
sai tướng Triệu Đà và Nhâm Ngao trở lại bình định Quảng
Tây. Sau khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà (257TCN-137TCN) xưng
đế lập nước Nam Việt (207TCN-136TCN) đóng đô ở Phiên Ngung
(Quảng Châu ngày nay). Khi Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập
nên nhà Hán năm 202TCN, sai sứ Lục Giả đến Nam Việt thuyết
phục. Triệu Đà bỏ đế hiệu và thần phục nhà Hán.
Sông Tương dài
856 km bắt nguồn từ Lâm Quý, Quảng Tây chảy vào Động Đình
Hồ, Hồ Nam. Từ huyện Đông An thành phố Vĩnh Châu chảy
ra hướng Bắc, nhận nước từ các sông Tứ Thủy, Thạch
Kỳ Hà, Tiêu Thủy, Ứng Thủy Bạch Thủy. Tại Hành Dương
nhận thêm nước từ sông Chung Thủy và Lỗi Thủy. Tại Lục
Khẩu nhận thêm nước từ sông Lộc Thủy. Tại Tương Đàm
nhận thêm nước từ Liên Thủy. Từ Trường Sa nhận thêm
nước từ Lưu Dương Hà, Lao Lực Hà. Tại Vọng Thành nhận
nước từ Vi Thủy. Đến huyện Tương Âm chia làm hai dòng
chảy vào Hồ Động Đình. Sông Tương là con đường thủy
thiên nhiên tiện lợi nối liền từ Quảng Tây đến Vũ Hán.
Sông Tương được
nhiều người biết đến khi học Kinh Thi : Quân tại Tương
Giang đầu, Thiếp tại Tương Giang thủy, Tương Giang bất tương
kiến, Đồng ẩm Tương Giang thủy. Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương, Sông Tương không gặp mặt, Cùng
uống nước sông Tương.
Sông Tương nổi
tiếng với Tiêu Tương Bát Cảnh. Tám cảnh đẹp sông Tiêu
Tương gồm : Sơn tự vãn chung, Giang thiên mộ tuyết, Tiêu
Tương dạ vũ, Sơn thị tình lam, Viễn phố quy phàm, Ngư thôn
tịch chiếu, Bình sa lạc nhạn, Động Đình thu nguyệt. Các
sứ thần Việt Nam ngang qua sông Tương thường làm thơ tả
cảnh mưa trên sông Tương. Sông Tương ảnh hưởng nhiều đến
văn học Việt Nam. nhiều nhà thơ như Phạm Đình Hổ chưa
bao giờ sang Trung Quốc cũng viết thơ Tiêu Tương Bát Cảnh.
Nữ sĩ Tương Phố thời tiền chiến lấy bút hiệu có nghĩa
là một bến Phố trên sông Tương. Bản nhạc Ai về sông Tương
của Thông Đạt (Văn Giảng) là bài hát được nhiều người
hát và yêu thích nhất, nhưng tác giả chưa bao giờ đến sông
Tương.
Sông Tương đi qua
các thành phố lớn : Toàn Châu, Vĩnh Châu, Lỗi Châu, Hành
Dương, Trường Sa, Tương Âm. Các nơi đều có những thắng
cảnh, những nhân vật văn hóa lịch sử : Núi Hồi Nhạn,
nơi chim nhạn bay đến đây dừng chân, nằm trên bãi cát rồi
bay trở về có cảnh Bình sa lạc nhạn. Toàn Châu nơi có chùa
Tương Sơn ngôi chùa lớn nhất Trung Quốc, Vĩnh Châu có nhà
cũ của Liễu Tông Nguyên, nơi ông bị biếm trích trấn nhậm
và viết bài : Lời người bắt rắn, Trường Sa nơi Giả Nghị
bị biếm trích. Huyện Tương Âm nơi có sông Mịch La hợp
lưu hai sông Mịch, La nơi Khuất Nguyên từ trầm về sau còn
gọi là Khuất Đàm.. Sông Tương đi qua nước Sở thời Chiến
Quốc. Tam Sở là Đông, Tây và Nam Sở.
Các sứ thần Việt
Nam khi đi cống sứ Bắc Kinh đều dùng con đường thủy này.
Vì ngày xưa chưa có cầu, mỗi lần vận chuyển đồ cống
phẩm lên thuyền xuống thuyền mất cả ngày. Dùng thuyền
tiện lợi, do đó nhiều trạm tiếp đón sứ thần nghỉ lại
đêm nằm dọc theo bờ sông Tương. Nguyễn Du thời trai trẻ
(1787-1790) từng đi con đường này : Giang Bắc, Giang Nam cái
túi không. Nguyễn Du mang danh hiệu nhà sư Chí Hiên đi nhờ
các thuyền buôn, vác thanh trường kiếm trên vai như các nhà
sư phái Thiếu Lâm, bảo vệ các thuyền buôn và tụng kinh
cầu mua may bán đắt. Đến nơi có chùa, hay thắng cảnh nhà
sư dừng chân ngắm cảnh, ăn ở, trú tại một ngôi chùa tụng
kinh Kim Cương làm công quả. Hành trang Nguyễn Du mang theo bên
mình là quyển Kinh Kim Cương Chú Giải của Lê Quý Đôn. Nhà
sư Chí Hiên đã tụng kinh nghìn lượt tức ba năm, và
đi muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, gần 5000km, từ
Vân Nam, qua Liễu Châu, đến Quế Lâm theo sông Tương, đi qua,
Tương Sơn Tự, Nhạc Dương Lâu, Hoàng Hạc Lâu rồi từ Vũ
Hán, theo sông Hán đi Trường An rồi đi theo sông Trường Giang
vào kênh Đại Vận Hà đi Hàng Châu. Sau khi gặp lại Nguyễn
Đại Lang tại Miếu Nhạc Phi, nơi đây Nguyễn Du làm 5 bài
thơ, nhà thơ cư ngụ chùa Hổ Pháo, đối diện Tây Hồ nối
liền bởi con đê Tô, nơi đây Từ Hải tức Minh Sơn Hoà Thượng
từng tu hành. Tại Tây Hồ, Hàng Châu Nguyễn Du đã say mê
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, truyện Tiểu Thanh
Ký của Từ Sĩ Tuấn và thương cho số phận những cô gái
Hồng nhan đa truân. Nguyễn Du và Nguyễn Đại Lang cùng đi
Yên Kinh (Bắc Kinh) trở về Hoàng Châu gặp Đoàn Nguyễn Tuấn
trong sứ đoàn Tây Sơn, Đoàn viết hai bài thơ ghi lại cuộc
gặp gỡ này trong Hải Ông thi tập. Sau đó Nguyễn Du lại
về Long Châu và trở về Thăng Long.
Thương Ngô ngày
nay thuộc huyện Ngô Châu tỉnh Quảng Tây, nằm trong khu tự
trị dân tộc Tráng (còn gọi là Choang, hay Tày, Nông, Nùng).
Trong thơ Nguyễn Du, Thương Ngô vùng Việt Đông. Người Hán
gọi các dân tộc phía Nam sông Dương Tử là Bách Việt : Đông
Việt phía Tây Trung Hoa, Dương Việt phía Bắc Giang Tô, Âu
Mân ở tỉnh Chiết Giang Phúc Kiến. Nam Việt tỉnh Quảng Đông,
Tây Âu tỉnh Quảng Tây, Lạc Việt tỉnh Phúc Kiến. Dân tộc
Tráng ngày nay khoảng 18 triệu người là dân tộc thiểu số
đông dân nhất trong 55 dân tộc Trung Quốc sau người Hán.
Đông Việt hay Việt Đông thời xưa là một vùng rộng lớn
ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Hồ Nam.
Dân tộc Tráng(hay
Choang, Tày, Nùng, Nông) ngày nay còn giữ tiếng nói, phong tục
viết chữ Nôm, 42% dân chúng chỉ nói tiếng Tráng, phần còn
lại nói được hai thứ tiếng Tráng và Trung. . Tôi đã lần
theo bước chân Nguyễn Du trong Bắc Hành Tạp Lục đi thăm
vùng này.. Đi thuyền theo dòng sông Lý Giang, hai bên bờ là
núi đá vôi , núi đá vôi từ vùng này chạy thẳng xuống
Vịnh Hạ Long nước ta. Cảnh trí tương tự cảnh tại Ninh
Bình, Hoa Lư, đường suối Yến vào như Chùa Hương. Hàng trăm
ngọn núi hình thù quái dị, người Trung Quốc cũng đặt những
tên tựa như tên các hòn núi Vịnh Hạ Long… Khác hẵn với
các vùng khác của Trung Quốc, đến đây tôi thấy gần gủi,
một quê hương Việt Nam : cũng lũy tre làng, người cày ruộng
lúa nước với con trâu cái cày, chuồng lợn, nhà dán hai câu
đối đỏ phía trước, phụ nữ ăn trầu, cảnh trí giống
như các làng quê miền Bắc Việt Nam. Đến đây tìm lại không
gian nước Việt thời Việt Vương, Câu Tiễn, về Phạm Lãi,
Tây Thi thời Xuân Thu Chiến Quốc, về nước Nam Việt của
Triệu Đà thời Tần, về Nùng Trí Cao thời Lý. Lý Thường
Kiệt từng đánh sang vùng này, châu Ung, châu Khâm. Vua Quang
Trung từng có ý cầu hôn công chúa con Vua Càn Long và xin hai
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây.. Sử liệu nước ta về vùng
này thật hiếm hoi.
Nguyễn Du đã thay
đổi nơi sinh của Từ Hải, quê Hấp Huyện tỉnh An Huy trở
thành Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông. Việt
Đông là quê hương Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu,
quyền trấn thủ Thái Nguyên thay Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn
Khản trong Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu, tức Nguyễn Đại
Lang trong Thanh Hiên Thi Tập của Nguyễn Du, Cai Gia trong Hoàng
Lê Nhất Thống chí của Ngô Văn Gia phái, Cai Già trong Lịch
Triều Tạp Kỷ của Ngô Cao Lãng..
Các bài thơ Thương
Ngô mộ vũ và Thương Ngô trúc chi ca, Nguyễn Du làm khoảng
năm 1788 trong thời gian ba năm đi giang hồ Trung Quốc (1787-1790)
vì có những chi tiết : Thuyền con khó vượt miền Hoa Hạ.
Khi đi sứ Nguyễn Du, sứ đoàn gồm 27 người, hàng trăm rương
hòm đồ cống phẩm, các địa phương tổ chức tiếp đón,
vận chuyển, bảo vệ quân lính hàng trăm người ; có một
vị tướng Trung Quốc chỉ huy từ Mạc Phủ Ải Nam Quan đến
Bắc Kinh và trở về, quan Chánh Sứ không thể đi chiếc thuyền
con. Bài 6 Thương Ngô Trúc Chi ca : Không trăng không đuốc
nhìn đâu thấy. Khi đi sứ qua các nơi các trạm dừng chân,
đèn đuốc thắp sáng rực cả trăng sao. Bài 8 Thương Ngô
Trúc Chi Ca có câu : Hẹn bác xóm Đông thuyền để sẵn.
Các Thiên Phi đến cúng thắp nhang. Nếu Nguyễn Du đi sứ
thì quan Chánh Sứ không thể hẹn bác hàng xóm phía Đông đi
thắp nhang các Thiên Phi được. Bài 12 Nhất đời áo vải
khách chơi xuân, Khi đi sứ quan Chánh Sứ không mặc áo
vải mà mặc áo bào gấm thêu trang trọng.
Bài Thương Ngô
tức sự, Nguyễn Du viết năm 1813 khi đi sứ : Vua Nghiêu
Thuấn đi tuần ở phương nam không trở về nữa. Vua chết
ở núi Thương Ngô, Hồ Nam. Hai bà phi khóc, nước mắt rưới
vào khóm trúc thành loại trúc vết lóm đóm. Hai bà vợ của
vua Thuấn, con gái vua Nghiêu là Nga Hoàng và Nữ Anh nghe tin
chồng chết, đi tìm, khóc nước mắt rỏ vào những cây trúc
bên dòng sông Tương nơi hai bà nhảy xuống từ trầm. Vỏ
trúc rây nước mắt trở thành loại trúc đốm (ban trúc).
Dấu cũ từ nghìn năm trước xa xôi. Điều sách chép rành
rành nay hiện rõ trước mắt. Lụt mới đổ về nước cao
thêm ba thước. Mây nổi che không còn trông rõ núi Cửu Nghi.
Núi ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam, có chín ngọn cao vút,
mây phủ dầy đặc, khó nhìn rõ. Xa xa nghe tiếng đàn tỳ
bà nhưng đành phải từ tạ.. Vì khách áo xanh đang trên đường
nghìn dậm, không thể quay lại. Nguyễn Du ngồi trên thuyền
đi qua Thương Ngô nghe vẳng trên sông tiếng đàn tỳ bà đưa
lại, tiếng đàn hai bà phi , ông liên tưởng đến tiếng đàn
tỳ bà trên bến Tầm Dương trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch
Cư Dị ( (772-846) đời Đường, nhưng chàng Tư Mã Giang Châu
đang trên đường ngàn dậm không thể quay lại làm bài ca
cho người gảy khúc đàn đó nên đành chia tay.
Đế Nghiêu, Đế
Thuấn, Đại Vũ là những vị vua huyền thoại buổi ban đầu
lịch sử Trung Quốc thời cổ đại. Họ được thần thánh
hóa thành những vị vua đạo đức, kiểu mẫu muôn đời.
Thực tế chỉ là những tù trưởng liên minh các bộ lạc
vài chục ngàn dân. Thời đại ban đầu hình thành cơ cấu
tổ chức cai trị sơ khai ấy quyền lãnh đạo các bộ lạc
không lưu truyền cho con cháu mà lưu truyền cho người hùng
mạnh nhất kế vị.
Vua Thuấn tên là
Trọng Hoa, thuộc bộ lạc Hữu Ngu, sinh ra ở Diêu Khư, về
sau lấy chữ Diêu làm họ. Mẹ là Ốc Đăng, cha là Cổ Tẩu
lấy vợ khác sinh ra Tượng. Dù bị mẹ con Tượng và Cổ
Tẩu đối xử không tốt. Thuấn vẫn một mực hiếu thuận
giữ đúng đạo làm con. (Chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu)
Danh tiếng Trọng
Hoa được bộ lạc nể phục nên khi trưởng thành, ông được
bầu làm thủ lĩnh bộ lạc. Ông đem bộ lạc quy thuận Đế
Nghiêu (2337-2258TCN)và được Nghiêu gã cho hai người con gái,
được tặng cho nhiều lương thực và gia súc. Bộ lạc Hữu
Ngu dưới sự lãnh đạo của ông ngày càng hùng mạnh, trở
thành liên minh cột trụ dưới quyền Đế Nghiêu. Khi Nghiêu
già yếu. Thuấn được nhường ngôi, được gọi là Đế
Thuấn hay Nghiêu Thuấn, ông đặt thủ đô tại Bồ Phần,
hay Bồ Bản (Sơn Tây).
Theo Trúc Thư niên
kỷ, cuốn sử biên niên đời Ngụy thời Chiến Quốc, lại
viết khác. Thuấn giam vua Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp
lấy ngôi vua. Thuấn giam Nghiêu không cho Đan Chu là con trưởng
gặp cha.
Vua Thuấn sai Cổn
trị thủy, Cổn không thành công bị hành hình. Thuấn dùng
con Cổn là Vũ trị thủy. Vũ thành công. Thuấn nhường ngôi
cho Vũ thành vua Đại Vũ lập nên nhà Hạ. Thuấn mất năm
2184 TCN.
TỨC CẢNH THƯƠNG
NGÔ
Nghiêu Thuấn
chơi Nam chẳng trở về,
Hai bà phi khóc
trúc xanh nhòa.
Dấu xưa nghìn
thuở còn đâu đó,
Trang sử một
thu trước mắt ta.
Lụt mới đổ
về ba thước nước,
Mây giăng mù
mịt Cửu Nghi mờ.
Tiếng tỳ văng
vẳng xin từ tạ,
Nghìn dậm áo
xanh khách khó qua.
Nguyên tác phiên
âm Hán Việt :
THƯƠNG NGÔ TỨC
SỰ
Ngu Đế nam tuần
cánh bất hoàn,
Nhị phi sái
lệ trúc thành ban.
Du du trầm tích
thiên niên thượng,
Lịch lịch quần
thư nhất vọng gian.
Tần lạo sơ
thiêm tam xích thủy,
Phù vân bất
biện Cửu Nghi san.
Tầm thanh dao
tạ tì bà ngữ,
Thiên lý thanh
sam bất nại toàn.
Bài Mưa chiều Thương
Ngô, Nguyễn Du viết : Mưa giữ lại ở Tầm Giang sớm mai lên
đường muộn. Xế chiều thành Ngô Châu vẫn còn mưa lâm dâm.
Đầy sông nước lụt tràn cả ra đất Tam Sở. Mây nổi từng
mảng lớn ở núi Cửu Nghi . Chiếc thuyền nhỏ hẹp khó qua
được miền đất Hoa Hạ. Vùng Trung Châu các cựu kinh đô
Trung Quốc. Tóc dài đuôi sam, biết rõ dáng người Di, Mãn
Châu. Nhà Thanh người Di cai trị Trung Quốc, các quan lại phần
lớn đều là người Di Mãn Châu. Trời chiều sóng yên, Tương
Đàm còn xa, Chén rượu đầu thuyền viếng hai bà Ph :i Nga
Hoàng, Nữ Anh vợ vua Thuấn.
MƯA CHIỀU THƯƠNG
NGÔ
Mưa giữ Tầm
Giang, sáng muộn đường,
Thành Ngô chiều
xuống, phất mưa tuôn.
Nước tràn Tam
Sở đầy sông nước,
Mây kín Cửu
Nghi mờ mịt buông.
Thuyền con khó
vượt miền Hoa Hạ,
Tóc sam dài tết
bính Di nhân.
Trời xuống
Tương Đàm xa gợn sóng,
Đầu thuyền
chén rượu viếng hai nàng.
Nhất Uyên dịch
thơ
Nguyên tác phiên
âm Hán Việt :
THƯƠNG NGÔ MỘ
VŨ
Vũ trệ Tầm
Giang hiểu phát trì,
Ngô thành bạc
mộ thượng phi phi.
Nhất giang tân
lạo bình Tam Sở.
Đại bản phù
vân trú Cửu Nghi.
Trách trách tiểu
chu nan quá Hạ,
Sam sam trường
phát tự tri Di.
Bình ba nhật
mộ Tương Đàm viễn,
Bôi tửu bằng
lan điếu nhị phi.
Mười lăm bài thơ
Thương Ngô Trúc Chi Ca, là một tuyệt tác, như mười lăm bài
thơ trên nét vễ chấm phá bức tranh sơn thủy, tả cảnh vùng
Thương Ngô qua các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam. Nguyễn
Du đi thuyền từ Tầm Giang đến thành Ngô Châu, vào Quế Lâm,
trên sông đầy thuyền Quảng Đông, nhà thơ theo sông Lý Giang
vào kênh Linh nối liền sông Tương và đi từ đầu sông Tương
đi Vĩnh Châu, qua núi Cửu Nghi tỉnh Hồ Nam, qua Hành Dương,
Trường Sa đến cuối sông Tương, Động Đình Hồ. Bài thơ
cho thấy Nguyễn Du tham dự Tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 Âm
Lịch, có hội đua thuyền tưởng niệm Linh Quân tức Khuất
Nguyên ở cuối sông Tương.. Nguyễn Du viết:
Vừa mới lụt ở
Quế Lâm, thị trấn trên sông Quế Giang thủ phủ tỉnh Quảng
Tây. Nhà bè nổi cao như muốn lên tận trời. Sau trưa gió
đông càng thổi gấp. Thuyền Quảng Đông qua lại nhiều không
đếm được.
Ban đêm đèn sáng
choang trên gác Văn Xương. Gác thờ Văn Xương Đế quân coi
việc học và Văn học. Một ánh sáng lạnh lẽo buổi chiều
hắt lên từ mặt nước bóng như gương. Thuyền chơi qua lại
không biêt bao nhiêu chiếc. Đầy sông vang lên tiếng hát chèo
thuyền.
Mưa cứ rơi tầm
tả, mây vơ vẫn. Sắc núi Cửu Nghi (Hồ Nam) không trông được
rõ. Nơi chôn vua Thuấn không có gò mộ. Tiếng đàn trên mặt
nước nghe như tiếng đàn của hai bà phi.
Lầu gác trên núi
xanh tầng này nối tầng khác. Ban ngày nhìn thấy khói ráng
hồng buổi chiều, ban đêm trông thấy đèn. Chùa cổ không
có tên, khó hỏi thăm. Trong tầng núi cao đầy mây trắng che
dày, có nhà sư nằm ngủ.
Đôi chèo tung sóng
hoa, thuyền lướt nhanh như bay. Xem đua thuyền rồng xong mãi
tối mới về. Mặt lạ gặp nhau không tránh né. Hàm răng hạt
bầu hé cười, vì thấy ta là người Nam Di.
Một tiếng pháo
trúc nổ tỏa khói lưu hoàng, Kinh động đàn chim nhạn bay
vút lên từ bãi cát.(Cảnh Bình sa lạc nhạn gần núi Hồi
Nhạn). Vời trông chốn đi về ở phía ven trời, từ Thương
Ngô đi lên phía Bắc hẳn là đến Hành Dương. Hành Dương
thuộc tỉnh Hồ Nam nằm hai bên bờ sông Tương Giang, cách
Trường Sa 160 km về phía Nam ngày nay dân số hơn 7 triệu ngưởi.
Sông lớn sóng nổi
mênh mông mịt mờ không bờ bến. Dăm ba thuyền khách chơi
lướt nhanh giữa màn đêm. Không có trăng, không có đèn, nhìn
chẳng thấy gì. Chỉ nghe tiếng đàn tỳ bà từ trên nước
vọng đến. (Tiếng đàn hai bà phi Nga Hoàng, Nữ Anh).
Núi Kê Lung (Lồng
Gà) ở ngay giữa lòng nước. Muôn khoảng khói sóng đều mênh
mang mờ mịt. Hẹn với bác hàng xóm phía đông đem đầy đủ
thuyền và mái chèo. Cùng nhau lên thắp hương trên Các Thiên
Phi. Thiên Phi Các là nơi thờ hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh.
(Các là nơi thờ phượng, nhỏ, nhà Hoạn Thư –Thúc Sinh có
Quan Âm Các trong vườn)
Phía Bắc thành,
hoa lựu núi đã đỏ càng đỏ thêm. Phía nam thành, liễu rủ
không chế ngự được gió. Tơ bay, hoa rụng không ai để ý.
Một đêm theo dòng nước trôi đến Quảng Đông.
Ống điếu bằng
loại trúc đốm dài thước hai. Bình trà bốc lên mùi hương
Vũ Tiền; loại trà ngon hái trườc tháng cốc vũ tức tháng
ba. Thuyền qua lại không hỏi han gì nhau. Một mình ngồi dựa
bên cửa sổ thuyền, đúng là cô gái đang giận chồng.
Mười chiếc thuyền
rồng bày hàng chữ nhất. Khua thanh la, đánh trống viếng Linh
Quân (Khuất Nguyên 352-281 TCN). Cô gái cài hoa mãi xem cuộc
vui. Nhảy ra đầu thuyền không tránh người (lên xuống). Khuất
Nguyên trầm mình sông Mịch La là một con sông nhỏ chảy vào
sông Tương.
Thuyền bằng gỗ
đường, chèo bằng gỗ lan suốt ngày rộn rịp. Qua qua lại
lại không biết bao nhiêu lần. Nhớ lấy dăm ba chiếc thuyền
có kết hoa trang trí. Khách chơi phong lưu bậc nhất ấy là
bọn áo vải.
Những cây dương
liễu ở dọc thành mềm mại vô cùng. Lá lá, tơ tơ chưa vào
thu. Ta thích nhìn thấy chúng lay động trước gió. Lúc chúng
điên cuồng nhất chính là lúc tinh thần cốt cách của chúng
cao đẹp nhất.
Quần là dài lướt
thướt, áo lụa chẻn mỏng. Búi tóc cao cao cài trâm chim thúy
vũ. Được bạc nhét đầy túi tiền. Thì dù anh biết mình
vô phúc, cũng cứ tiêu tiền để đến với cô gái ấy. Đoạn
thơ này nói về các cô gái thanh lâu.
Đuôi thuyền treo
đèn lồng dài bốn thước. Đầu thuyền, vẽ hình con cọp
đen sì. Trên lá cờ vải viết hai chữ Tuần Sông. Chỉ cật
vấn thuyền chơi thôi, không bắt kẻ gian.
CA ĐIệU TRÚC CHI
KHI QUA ĐẤT THƯƠNG
NGÔ
1
Quế Lâm lụt
mới nước sông trôi,
Dâng mãi nhà
bè muốn tận trời.
Trưa xế gió
Đông càng thổi gấp,
Quảng Đông
xuôi ngược rộn thuyền trôi.
2.
Ban đêm đèn
sáng gác Văn Xương,
Trăng lạnh ngời
lên bóng tựa gương.
Qua lại thuyền
chơi bao chiếc đến,
Đầy sông vang
vọng tiếng ca thuyền.
3.
Mưa rơi tầm
tả mây giăng mờ,
Sông núi Cửu
Nghi xa bóng mơ.
Vua Thuấn nơi
chôn không mộ đất,
Hai Phi nước
vọng tiếng đàn tơ.
4.
Núi xanh lầu
gác vút tầng không.
Sương khói ban
ngày, đèn tối chong.
Chùa cổ không
tên nào biết hỏi,
Núi cao, sư ngủ
trắng mây giăng.
5
Tung sóng đôi
chèo thuyền đẩy nhanh,
Thuyền rồng
xem đấu tối chiều xong,
Gặp nhau mặt
lạ không cần tránh,
Thấy khách Nam
Di cười hở răng.
6.
Nổ vang pháo
trúc khói lưu hoàng,
Bãi cát tung
bay, nhạn mấy hàng.
Nhìn phía chân
mây chừng nẻo đó,
Thương Ngô lên
bắc ấy Hành Dương.
7.
Sóng lớn sông
dài chẳng bến bờ,
Thuyền chơi
dăm chiếc chong đèn khuya.
Không trăng không
đuốc nhìn đâu thấy,
Văng vẳng tỳ
bà bến nước mơ.
8.
Kê Lung núi mọc
trong dòng nước,
Muôn khói sóng
bay mờ mác mang.
Hẹn bác Xóm
Đông thuyền để sẳn.
Các Thiên Phi
đến thắp hương nhang.
9.
Bắc thành lựu
núi đỏ thêm đỏ,
Liễu rủ nam
thành không ngăn gió.
Tơ rụng hoa
bay ai biết hay.
Trôi đến Quảng
Đông một đêm đó.
10
Điếu trúc thước
hai bằng trúc đốm,
Vũ Tiên trà
quý ngát bình hương.
Thuyền đi qua
lại không ai hỏi,
Bên cửa thuyền
ai gái giận chồng.
11.
Mười chiếc
thuyền rồng bày chữ nhất,
Khua thanh la,
trống viếng Linh Quân.
Gái cài hoa cúc
xem vui hội,
Nhảy xuống
đầu thuyền chắn bước chân.
12.
Nhộn nhịp chèo
lan, thuyền gỗ đường,
Qua qua lại lại
biết bao lần.
Thuyền hoa dăm
chiếc không quên được,
Áo vải nhất
đời vui khách xuân.
13
Ven thành dương
liễu rủ xanh mơ,
Thu chửa sang,
xanh rờn lá tơ.
Ta thích lá bay
vờn trước gió,
Bay cuồng cốt
cách thật nên thơ.
14
Quần áo lụa
là trông thướt tha,
Tóc cài trâm
thúy, búi cài hoa.
Có tiền, có
bạc là mong tới,
Vô phúc nữa
chăng cũng đắm sa.
15
Bốn thước đèn
lồng treo cuối thuyền,
Hình vẽ đầu
thuyền con cọp đen,
'Tuần Sông '
hai chữ trên cờ vải.
Cật vấn thuyền
chơi, chẳng hỏi gian.
bản dịch thơ Nhất
Uyên.
Nguyên tác phiên
âm Hán Việt :
THƯƠNG NGÔ TRÚC
CHI CA
(Thập ngũ chương)
1
Quế Lâm tân lạo
dũng trường xuyên,
Thủy ốc bằng
cao dục hướng thiên.
Ngọ hậu đông
phong xuy cánh cấp,
Vãng lai vô số
Quảng Đông thuyền.
2
Văn Xương các thượng
dạ đăng minh,
Nhất phiến hàn
quang xạ thủy tinh.
Lai vãng du thuyền
bất tri số,
Mãn giang tế phát
trạo ca thanh.
3.
Vũ tự bàng đà
vân tự si.
Cửu Nghi sơn sắc
vọng trung nghi.
Ngu Vương táng
xứ vô khâu mộ,
Thủy diện duyền
thanh tự nhị phi.
4.
Thanh sơn lâu các
nhất tằng tằng,
Trú kiến yên hà
dạ kiến đăng.
Cổ tự vô danh
nan vấn tấn,
Bạch vân thâm
xứ ngọa sơn tăng.
5.
Lãng hoa song trạo
tật như phi,
Khán bãi long chu
để mộ qui.
Sinh diện tương
phùng vô úy tị,
Hồ tê vi lộ tiếu
Nam Di.
6.
Nhất thanh liệt
trúc tán lư hoàng,
Kinh khởi sa đinh
nhạn sổ hàng.
Thiên tế dao chiêm
qui khứ xứ,
Thương Ngô bắc
thướng định Hành Dương.
7.
Trường giang phá
lãng diểu vô nhai,
Tam ngũ du thuyền
sấn dạ khai.
Vô nguyệt vô đăng
khán bất kiến,
Tỳ bà thanh tự
thủy trung lai.
8.
Kê Lung sơn tại
thủy trung ương,
Vạn khoảnh yên
ba cộng diểu mang.
Tương ước đông
gia cụ chu tiếp,
Thiên Phi các thượng
cộng phần hương.
9.
Thành bắc sơn lựu
hồng cánh hồng,
Thành nam thùy liễu
bất câm phong.
Nhứ phi hoa lạc
vô nhân quản,
Nhất dạ thùy
lưu đáo Quảng Đông.
10.
Ban trúc yên đồng
xích nhị trường.
Trà âu phù động
Vũ Tiền hương.
Nhất lai nhất
vãng nhân vô vấn,
Độc ỷ thuyền
song chính hận lang.
11.
Thập chích long
chu nhất tự trần,
Xao la qua cổ điếu
Linh Quân.
Hoàng hoa khuê nữ
tham hành lạc,
Khiêu xuất thuyền
đầu bất tị nhân.
12.
Đường chu lan tiếp
nhật tân phân,
Vãng vãng lai lai
bất yếm tần.
Ký thủ họa thuyền
tam ngũ chích,
Tối phong lưu thị
bố y nhân.
13.
Duyên thành dương
liễu bất thăng nhu,
Diệp diệp ti ti
vị cập thu.
Hảo hướng phong
tiền khán dao duệ,
Tối điên cuồng
xứ tối phong lưu.
14.
Trường quần tập
tập duệ khinh tiêu,
Vân kế nga nga
ủng thúy kiều.
Doanh đắc quỉ
đầu mãn nang khẩu,
Bằng quân vô phúc
dã năng tiêu.
15.
Thuyền vĩ đăng
lung tứ xích can,
Thuyền đầu họa
hổ hắc ban ban.
Bố kỳ thượng
tả ‘Tuần Hà ‘ tự,
Chỉ cật hoa thuyền,
bất cật gian.
Paris
5-11-2016
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
|