Tôi
đến không gian nghệ thuật Bétonsalon
thuộc Viện Đại Học Paris 7 để xem 5 tác phẩm Hội
họa và Điêu khắc của vua Hàm Nghi triễn lãm từ 14-9 đến
5-11-2016 cuộc triễn lãm chung với nhiều tác giả khác mang
tên Anywhere but here. Tôi ngồi trầm ngâm suốt buổi chiều
trước các tác phẩm. Không khí trầm buồn của các bức tranh
: các bức tranh vắng lặng không một bóng người và bức
tượng đồng: Eve bị đuổi khỏi thiên đường, (Femme à la
coloquinte) đã gợi cho tôi những cảm thông sâu thẳm..
Bức Coteaux de Saint Paterne, vẽ năm 1920, sơn dầu.
Trong bức tranh Tử Xuân Hàm Nghi, qua màu sắc ánh sáng buổi
chiều, khơi rộng tầm nhìn ngọn đồi, cùng trên một bức
tranh những ánh sáng hiền hòa, ánh sáng sống động và ánh
sáng tương phản mặt trời. Xuyên qua những ngôn ngữ của
trường phái ấn tượng, họa sĩ đã diễn tả những cảm
giác ấn tượng mình trước ánh sáng. Ông mượn những kỹ
thuật của Claude Monet (1840-1926) những vết màu chấm phá.
Trong tác phẩm này những sắc độ của màu sắc được làm
tăng lên bởi độ dày của mảng màu làm cho cây cỏ thêm
sống động. Tử Xuân Hàm Nghi vẫn mang trong tâm hồn trầm
buồn người Á Đông vẽ tranh thủy
mặc. Nhưng người họa sĩ Á Đông ngày xưa, như người
đứng trên đỉnh núi cao, như bay bổng trên không nhìn xuống
cảnh vật và không có kỹ thuật hội họa để
diễn tả ánh sáng. Một bức tranh khi vẽ buổi sáng, buổi
trưa buổi chiều, buổi tối người Á Đông vẽ tranh nghệ
thuật phẳng giống nhau, một màu mực tàu đen đậm
nhạt pha loãng thành các sắc độ màu xám. Vài màu sắc đơn
sơ khác được pha bằng cây cỏ, đất đá, võ ốc, bột vàng,
nhựa thông, nhựa cây sơn Phú Thọ... Hội họa Tây phương
cùng một cảnh bến nước, một cảnh nhà thờ Rouen đã vẽ
bốn bức tranh cùng một cảnh, màu sắc, ánh sáng khác nhau.
Khác biệt với hội họa Trung Quốc và Ấn Độ vẽ trên mặt
phẳng, không phân biệt xa gần, ánh sáng, Trung Quốc vẽ tranh
và đề thơ tứ tuyệt 'thi trung hữu họa', người Việt Nam
ngày xưa vẽ tranh thờ, tranh nhân gian : mặt các vị thần
hay vua chúa to hơn mặt người thường...Hội họa Tây phương
phân biệt trên 500 màu sắc khác nhau, và cả một lý thuyết
căn bản các quy luật về hội họa, xa, gần, màu sắc từ
Léonard de Vinci thế kỷ 15. Có thể nói hội họa cũng như
âm nhạc Tây phương là những bộ môn nghệ thuật hoàn toàn
mới đối với người Việt Nam. Tử Xuân Hàm Nghi đã diễn
tả tâm hồn mình bằng những nghệ thuật hoàn toàn mới.
Người Việt Nam chỉ có thi sĩ, hoặc thợ vẽ, nghệ nhân
điêu khắc, thợ cả làm tượng thờ, đình chùa, hay khắc
mộc bản tranh nhân gian.. Tử Xuân Hàm Nghi cùng Lê Văn Miến
tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật Paris năm 1894 là những họa
sĩ tranh sơn dầu, điêu khắc gia gửi gấm tâm sự mình qua
tác phẩm nghệ thuật đầu tiên của Việt Nam.
Bức Falaise du Port Blanc, sơn dầu ký tên chữ
Nho: Tử Xuân , 1912, vua Hàm Nghi vẽ ở Bretange vùng Saint Lunaire
mùa hè năm 1911, bức này có trong cuộc triễn lãm tại Paris
năm 1926.
Bức Rochers de Sidi Ferruche vẽ năm 1916 tại Algérie
sơn dầu cũng có trong danh sách các tranh triễn lãm năm 1926.
Kỹ thuật vẽ tranh với những mảng màu ánh sáng lướt qua
gợi cho ta những cảm giác các tác phẩm các họa sĩ trước
thời kỳ trường phái ấn tượng.
Bức Le vieil olive, vẽ năm 1905 sơn dầu, cây
ô liu già nằm giữa, các mảng màu sắc mang ảnh hưởng Gauguin
(1848-1903) ánh sáng và ánh phản chiếu tối sáng bức này cũng
có mặt trong cuộc triển lãm tại Galerie Mantelet năm 1926.
|
|
Cây
Ô liu cổ thụ
|
Sườn
đồi
|
Bức Chân dung tự họa năm 1896, vẽ bút chì
trên giấy, nhà vua vẽ lại ảnh chụp năm 1891 tại hiệu ảnh
Geiser ở Alger. Bức ảnh này có tặng cho Auguste Rodin năm 1891
và Charles Gossselin đăng đầu tiên trong sách Le Laos et le protectorat
française. Nhà vua vẽ theo sự chỉ dẫn của họa sĩ Marius
Reynaud (1860-1935).
Trận
hỏa hoạn tại biệt thự Tùng Hiên năm 1962 đã làm mất đi
khá nhiều tác phẩm. Hiện nay Vua Hàm Nghi còn lại khoảng
trên 100 tác phẩm do gia đình gìn giữ, Tiến sĩ Lịch sử
Mỹ Học Amandine Debat, người cháu 5 đời của vua Hàm Nghi,
còn đang chuẩn bị sách nghiên cứu về vua Hàm Nghi của cô
nên chưa tiết lộ hết các tác phẩm.
Vua Hàm Nghi đã học Điêu khắc với bậc thầy
hàng đầu các nhà điêu khắc thế giới thế kỷ 19-20, Auguste
Rodin (1840-1917), và là nhà điêu khắc vĩ đại nhất nước
Pháp, sau khi Rodin mất, nhà vua học với Léon Fourquet (1841-1939).
Về Hội họa nhà vua học với họa sĩ Marius Reynaud (1860-1935),
giải nhất Hội Họa giải thưởng Rôma, nhà vua đã tiếp
xúc với tác phẩm các bậc thầy trường phái ấn tượng
như Paul Gauguin(1848-1903), Claude Monet (1840-1926) và một tờ báo
tại Alger từng đăng ảnh chụp chung vua Hàm Nghi với Foujita
một họa sư Nhật Bản danh tiếng
tại Paris. Được gọi thân mật là "Hoàng tử Annam",
vua Hàm Nghi đã tiếp xúc sâu rộng với giới văn học, nghệ
thuật hàng đầu tại Paris. Tài năng nghệ thuật và cuộc
triễn lãm tại Thủ đô văn hóa nghệ thuật thế giới Paris
của Tử Xuân Hàm Nghi đã khẳng định nhà vua một nghệ sĩ
tầm vóc, cùng với họa sĩ Lê Văn Miến, từng du học trung
học tại Alger và tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Paris năm
1894 mở đầu việc người Việt Nam bước vào lãnh vực Hội
họa Điêu khắc Việt Nam tiếp xúc với thế giới.
Từ năm 1887 Rodin được xem là bậc thầy điêu
khắc tài năng tầm vóc quốc gia và quốc tế. Ông được
nhiều đơn đặt hàng chính phủ Pháp, cũng như các nước.
Cơ sở điêu khắc của ông trở thành một công xưỡng lớn,
nơi làm việc thường xuyên với từ 5 đến 26 phụ tá và
hàng chục học trò đến học tập. Ông trả lương từ 10
đến 12 francs mỗi ngày cho người tập sự và 20 francs cho
phụ tá bậc cao. Món tiền ấy khá lớn so với thời giá lúc
bấy giờ. Rodin là một trong những nghệ sĩ hiếm có, có đời
sống sung túc giàu có lúc còn sống. Các môn sinh của ông
ngày nay nhiều người được có những viện bảo tàng riêng,
xếp vào hàng bậc thầy, và một trong những người thư ký
riêng của Rodin, lại là nhà thơ, nhà văn danh tiếng nước
Áo: Rainer Maria Rilke với tác phẩm được mọi người biết
đến là Lettre à un jeune poète.1903. Thư gửi cho một thi sĩ
trẻ. Rodin có mối quan hệ mật thiết với hoàng tử An Nam.
Vua Hàm Nghi thường được mời tham dự những bữa tiệc gia
đình hay chiêu đãi của Rodin. Vua Hàm Nghi có tặng cho Rodin
bức ảnh năm nhà vua 30 tuổi, bức ảnh được Rodin trân trọng
gìn giữ và lưu lại trong Viện bảo tàng Rodin.
Rainer Maria Rilke (1875-1926) sinh tại Prague, người
Áo, có vợ là Clara Westhoff, và người bạn thân là Paula Modershon
Becker đều là học trò của Rodin. Năm 2016 có một cuộc triễn
làm dành riêng cho P. M. Becker tại Viện Bảo tàng Nghệ Thuật
Hiện Đại Paris. Tử Xuân Hàm Nghi đến học với Rodin, trong
khoảng thời gian Rilke làm việc nơi đây. Năm 1907 Rilke có
sang Alger chơi với vua Hàm Nghi. Cũng trong thời gian đó nhà
điêu khắc danh tiếng Antoine Bourdelle làm phụ tá cho Rodin.
Tử Xuân Hàm Nghi là một nhân vật danh tiếng
tại Alger và tại Pháp, và có một mối quan hệ rộng rãi
với giới trí thức Âu Châu đương thời. Công việc tìm kiếm
khám phá về cuộc đời và mối quan hệ vua Hàm Nghi sẽ còn
nhiều điều để nói.
Từ năm 1894, cứ hai năm một lần, mỗi mùa
hè nhà vua được đến Paris 3 tháng. Nhà vua gần như ít cơ
hội gặp gỡ người Việt, ngoài thì giờ du lịch vua Hàm
Nghi thường đến học điêu khắc với Rodin tại xưỡng điêu
khắc Dépôt des Marbres, đường Université. Paris quận 7 và
tại Villa des Brillants thành phố ngoại ô Meudon, nơi đây Pavillon
Rodin tại cầu d’Alma, sau cuộc Triễn Lãm Hội Chợ Hoàn Cầu
năm 1900, được dỡ về dựng lại tại khu đất Biệt thự
Brillants trở thành xưỡng điêu khắc Rodin. Từ năm 1906 Rodin
dọn về Hotel Biron, với khu vườn rộng, nay là Viện Bảo
Tàng Rodin, một địa chỉ văn hóa không thể không viếng thăm
khi đến Paris.
Bức
tượng đồng Femme à la coloquinte, đúc đồng năm 1925 diễn
tả Eve tay còn cầm trái táo, che mặt xấu hổ, thân thể trần
truồng bị Thượng Đế đuổi
khỏi thiên đường. Tượng cao 52 cm.
Bức họa được đánh số 2 trong cuộc triễn
lãm năm 1926 tại Galerie Mantelet – Collette Weil đường Boétie.
Quận 8 Paris. Tác phẩm mang ảnh hưởng cách diễn tả Người
suy tư của Auguste Rodin. Eve được diễn tả từng bắp thịt,
từng đường gân, mái tóc xõa quyến rũ, thân hình điều
đặn tuyệt mỹ. Trình độ nghệ thuật điêu khắc tuyệt
vời của Tử Xuân Hàm Nghi không kém gì các học trò hàng
đầu của Rodin như Antoine Bourdelle, Jean Escoula, Camille Claudel
(1864-1943),Brancusi, Aristide Maillol, Raphaël Diligent, Vincent Cruz,
Louis Cornu.. tác phẩm họ chiếm số lượng khá nhiều trong
các Viện Bảo tàng Pháp, các công viên, quảng trường Tây
phương.
Đề tài Eve được
Rodin điêu khắc bằng đá cẩm thạch năm 1882, Jean Escoula cũng
có tác phẩm Eve, Antoine Bourdelle có tượng Eve au rocher… diễn
tả cái đẹp thân thể phụ nữ . Nhưng riêng Tử Xuân Hàm
Nghi. Nhà vua muốn gửi gấm tâm sự gì trên bức tượng đồng,
khi tả Eve ăn trái cấm bị đuổi khỏi thiên đường, phải
chăng là tâm sự nhà vua sau khi bị bắt sau cuộc khởi nghĩa
Cần Vương thất bại, bị đày đi lưu vong xứ người, không
còn tìm thấy lại quê hương !
Rodin và các học trò ông thường sáng tác các
tác phẩm với ý nghĩa ẩn dụ. Xem tượng Eve bị đuổi khỏi
thiên đường, tôi không quên tượng l’Âge Mûr, Tuổi chín
muồi của Camille Claudel, học trò và cũng là người tình của
Auguste Rodin, em gái văn hào và cũng là nhà ngoại giao, Hàn
Lâm Viện sĩ Paul Claudel.
Nhóm tượng gồm ba nhân vật: một cô gái quỳ
xuống đưa tay cầu khẩn, một người đàn ông vừa dứt tay
ra đi, nhưng bên cạnh đó là một người đàn bà lớn tuổi
dìu đôi vai ông đi. Cô gái xinh đẹp ấy là Camille Claudel,
người đàn ông là Auguste Rodin và người đàn bà là Rose Beuret.
Camille Claudel đã yêu đến mức điên loạn khi Rodin từ chối
cưới nàng, từ năm 1913 gia đình đưa nàng vào dưỡng trí
viện và sống trong dưỡng trí viện hết cả cuộc đời mất
năm 1943. Cuộc đời Camille Claudel nhà điêu khắc tài năng
đã được dựng thành phim được đóng bởi Isabelle Adjani
năm 1988.
Bức tượng Eve bị đuổi khỏi thiên đường,
vua Hàm Nghi muốn nói lên điều gì ? Chúng ta thử đọc Chương
Sáng Thế Kỷ trong Thánh Kinh đoạn Eve bị đuổi khỏi Thiên
Đàng, Adam và Eve là tên chung chỉ đàn ông và đàn bà.:
"Đức Chúa Trời làm
cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp thịt
thế vào. Giê -ho-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã
lấy nơi A-đam làm nên một người nữ, đưa đến cùng A-đam.
A-đam nói rằng: Người này là bởi xương sườn tôi, thịt
bởi thịt tôi mà ra. Người này sẽ được gọi là người
nữ, vì nó do nơi người nam mà có. Bởi vậy cho nên người
nam sẽ lìa cha mẹ mà dính líu cùng vợ mình, và cả hai sẽ
nên một thịt.
Và, A-dam và vợ, cả hai đều trần truồng,
mà chẳng hổ thẹn.
Và trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức
Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn
hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời
hà có phán dặn các người không được phép ăn trái cây
trong vườn sao? Người nữ đáp rằng: Chúng ta được ăn
các trái cây trong vườn, song về phần trái của cây mọc
giữa vườn, Đức Chúa Trời có phán rằng: Hai ngươi
chẳng nên ăn đến, và cũng chẳng nên đá động đến, e
khi hai người phải chết chăng. Rắn bèn nói với người nữ
rằng: Hai người chẳng chết đâu,
nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hể ngày nào hai người
ăn trái cây đó, mắt mình mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời,
biết điều thiện điều ác.
Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon,
lại đẹp mắt và qui vi để mở trí khôn, bèn hái ăn, rồi
trao cho chồng đứng bên mình, chồng cũng ăn
nữa. Đoạn mắt hai người đều mở ra, biết rằng
mình loả lồ, bèn lấy cây lá và đóng khố che thân. Lối
chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi ngang qua vườn.
A-đam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê hô
va Đức Chúa Trời.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời kêu A đam đến mà
phán hỏi rằng:
Ngươi ở đâu? A-đam thưa rằng. Tôi có nghe
tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ bởi vì tôi lỏa lồ, nên
đi ẩn mình. Đức Chúa Trời phán hỏi: Ai đã chỉ cho ngươi
biết rằng mình loả lồ ? Ngươi có ăn trái cây ta đã dặn
không nên ăn đó chăng? Thưa rằng: Người nữ mà Chúa đã
để gần bên tôi cho tôi ăn trái cây đó và tôi đã ăn rồi.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán hỏi người nữ rằng: Người
có làm điều chi vậy ? Ngưòi nữ thưa rằng: Con rắn dỗ
dành tôi và tôi đã ăn rồi.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán cùng con rắn
rằng : Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa
sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy
sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời. Ta sẽ
làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mày cùng dòng dõi người
nữ nghịch thù nhau. Người sẽ dày đạp đầu mày, còn mày
sẽ cắn gót chơn người. Ngài phán cùng người nữ rằng
: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén,
người sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con, sự dục vọng
của ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị
ngươi. Ngài lại phán cùng A đam rằng : Vì ngươi nghe theo
lời vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất
sẽ bị rủa sả vì ngươi, trọn đời phải chịu khó nhọc
mới có vật đất sinh ra mà ăn. Đất
sẽ sanh ra chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn
rau của đồng ruộng, người sẽ làm đổ mồ hôi trán mới
có mà ăn, cho đến ngày nào người trở về đất, là nơi
có người ra, vì người là bụi, người sẽ trở về bụi.
A đam gọi vợ là Ê va, vì là mẹ của cả loài
người.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy da thú kết thành
áo dài cho vợ chồng A-đam và mặc lấy cho.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng : Nầy,
về sự phân biệt điều thiện điều án, loài người đã
thành một bực như chúng ta; vậy bây giờ, ta hãy coi chừng,
e loài người giơ tay lên cũng hái trái cây sự sống mà ăn
và được sống đời đời chăng ? Giê-hô-va Đức Chúa Trời
bèn đuổi loài người ra khỏi vười E đen, đặng cày cấy
đất, là nơi có người ra.."
Chuyện Sáng Thế Kỷ là một cổ tích thần
thoại của dân tộc Do Thái, nhằm giải thích cuộc sống còn
người từ thời kỳ hái lượm sang thời kỳ chăn nuôi, trồng
trọt, vì đâu con người phải cực khổ mới có được miếng
ăn. Thiên đàng trong cổ tích nằm trong vùng đất Lưỡng Hà
hai con sông Tigre và Euphrate vùng Turquie, Syrie, Irak ngày nay.
Sông Tigre dài 1900 km bắt nguồn từ Taurus, cao nguyên Arménien,
chảy qua Syrie, Irak từ bắc xuống nam. Hợp lưu cùng sông Euphrate
dài 200km và chảy vào vinh Persique. Sông Euphrate dài 2780 km.
Vùng này ngày xưa trù phú, có nhiều cây trái, trở thành cái
nôi quan trọng của nền văn minh nhân loại.
Thời hái lượm, con người không phải lao động
cực nhọc, loài người ít, cây trái xum xuê, chim thú cây rừng.
Nhưng rồi mặt đất trải qua những thời kỳ hạn hán, con
người thích ứng biết phát cỏ gai làm rẫy, diệt rắn độc,
gieo hạt, trồng cây, và mang nước về tưới cây. Con người
bắt đầu biết thuần hóa những động vật hoang dã: nuôi
trừu, nuôi bò, nuôi heo, nuôi gà vịt, nuôi ngựa.. Con người
phải đổ mồ hôi mới làm nên thức ăn, phải trồng bông
dệt vải để may áo mặc. Các bộ lạc đơn sơ, người sinh
ra không biết cha là ai, người phụ nữ khi sanh sản họ đứng
vịn cành cây và sinh con một mình.. Bước sang thời kỳ định
cư, chăn nuôi trồng trọt, biết che lều làm nhà, con người
ít di chuyển hơn thời hái lượm, sinh nở khó hơn, sinh nằm,
đau đớn phải có bà mụ giúp đỡ. Còn người biết chiếm
hữu, người đàn bà này của riêng mình, vườn cây trái,
đàn súc vật này của riêng mình. Con người biết tạo dựng
thành từng gia đình riêng biệt. Con rắn trở thành sinh vật
để con người trút hết mọi tội lỗi, là nguyên nhân sự
thay đổi của đời sống mình. Qua chuyện kể vì biết điều
thiện điều ác, mà Adam và Eve bị trừng phạt, đuổi khỏi
thiên đàng. Người tiên tri sáng tác ra câu chuyện này muốn
dành hết sự hiểu biết thiện ác về phần mình để độc
quyền thần thánh, độc quyền tư tưởng, muốn cho mọi người
ngu dốt, tuân thủ trật tự, hầu chế ngự mọi người trong
cộng đồng. Nó hé lộ con đường ánh sáng chính nhờ sự
ăn trái cấm con người mới khôn ngoan tiến bộ, dù phải
trả giá bằng sự làm việc cực nhọc mới có miếng ăn,
phải tranh đấu với rắn rết, thú dữ, chông gai. Nếu con
người cứ tuân theo lời Chúa Trời thì chắc bao nhiêu thế
kỷ sau vẫn tiếp tục trần truồng, chẳng có gì để ăn
hai người phải chia nhau một trái táo, sống trong nghèo đói.
Thi hào Homère của dân tộc Hy Lạp đã bác bỏ thiên đường
này trong sử thi Odyssée. Ulysse từ một dũng sĩ mưu trí thành
Troie, được Calypso cứu sống sau cơn bão, nuôi dưỡng làm
chồng, làm người tình tù trong thiên đường suốt bảy năm
chỉ ăn ngon mặc đẹp và làm tình với tiên nữ, chán quá
chiều chiều ra bờ biển ngồi khóc, cầu các thần Olympe can
thiệp cho về quê hương trần gian, dù phải trải qua bao giông
bão, bao chiến đấu gian nguy.
Nếu Adam và Eve không biết hổ thẹn, chì chắc
loài người vẫn tiếp tục sống trần truồng nơi thiên đường
cho đến ngày nay. Hóa ra nhờ có hổ thẹn, xấu hổ loài người
mới tiến bộ. Chúa tạo loài người theo hình ảnh của ngài.
Chúa lấy da thú che thân cho người hổ thẹn, thì ra Chúa chỉ
ăn mặc bằng da thú, loài người vì biết hổ thẹn nên biết
dệt vải, trồng bông, nuôi tằm tạo ra bao gấm vóc, ăn mặc
đủ mốt, đủ kiểu cách tùy theo các dân tộc, qua các thời
đại, còn Chúa Trời thì vĩnh cửu bất biến nên muôn đời
vẫn mặc bằng da thú.
Nhìn pho tượng Eve hổ thẹn của nhà vua Tử
Xuân Hàm Nghi tôi thầm nghĩ đến bao nỗi hổ thẹn người
Việt Nam ngày nay. Hổ thẹn những bao cao su vất nổi lềnh
bềnh trắng cả mặt hồ Linh Đàm Hà Nội, bị người nước
ngoài chụp ảnh. Các ông quan địa phương đâu, sau không để
được những thùng rác nhỏ khắp nơi cho mọi người bỏ
rác? Quăng rác ra đường là một tập tục xấu của người
Việt Nam đáng hổ thẹn. Các nước họ dạy trẻ em từ mẫu
giáo biết nhặt rác, lượm rác thì mới hy vọng hai mươi
năm sau đất nước mới biết sạch sẽ.
Nước ta ngày nay đã mua sắm được tàu ngầm
hàng tỉ đô la, lên kế hoạch sản xuất điện hạt nhân,
mà chỉ có việc xả nước đập thủy điện đã gây nên
lũ lụt hàng trăm ngàn đồng bào Nghệ Tỉnh màn trời chiếu
đất. Khi xây dựng một công trình lớn, một nhà máy, một
hãng xưỡng, một đập thủy điện , một lò điện hạt nhân,
phải có những kế hoạch cho những tình huống xấu có thể
xãy ra. Một vụ vỡ đập thủy điện, một vụ nổ nhà máy
hạt nhân, phải cấp cứu như thế nào? sản xuất sắt thép
hay luyện nhôm các chất độc phải xử lý như thế nào? có
đâu thải ra biển tôm cá chết hàng trăm cây số, mọi người
sống chết mặc bây.
Hổ thẹn có vai trò tích cực, thái độ của
người nhìn thấy sai lầm và sửa đổi để tiến bộ, trái
với thái độ tư kiêu, tự mãn, tự tâng bốc mình chỉ làm
mình ngủ quên trong sai lầm.
Đức Gê hô va
(Yahvé) của dân tộc Do Thái, có nguồn gốc là một lãnh tụ
bộ tộc tựa như Lạc Long Quân, như vua Hùng Vương nước
ta. Thời cổ đại, mọi dân tộc đều có những, tiên tri,
thầy mo, pháp sư, bà đồng.. là những người tự cho mình
có mối quan hệ mật thiết với thần thánh, họ là những
kịch sĩ đầu tiên của nhân loại, bên đống lửa thiêng
liêng buổi tối, họ dùng rượu hay các loại cỏ cây kích
thích, múa may quay cuồng theo nghi lễ, họ nhập vai thần thánh,
ban lời giáo huấn, hay kể lại những sự tích, các ẩn dụ,
mắng những kẻ phạm tội trong cộng đồng. Ghê-hô-va được
thần thánh hóa qua nhiều đời thành bậc thánh nhân lại thêm
những quyền phép sáng tạo vũ trụ, sáng tạo con người,
tiên tri tương lai, lại được xuất hiện qua lời các tiên
tri.. Từ thế kỷ thứ IV, thứ V trước Công Nguyên, do nhu
cầu lịch sử dân tộc Do Thái, và do ảnh hưởng Ai Cập đương
thời vua Akénaton chủ trương bỏ 600 vị thần và thờ một
thần duy nhất là Thần Mặt Trời, là cha của vị vua huyền
thoại sáng lập Ai Cập. Giê hô va trở thành vị thần duy
nhất. Năm 587 TCN đền Jérusalem bị phá hũy bởi quân đội
vua Nabuchodonosor nước Babylone. Dân Do Thái (Judéens) bị lưu
đày khắp nơi từ Babylonne, đến Ai Cập và các nước khác.
Trước nguy cơ tan rã và biến mất. Các người ghi chép bị
lưu đày tại Babylone, đã viết lại lịch sử thần thánh
hoá Yahvé (Gê hô va).
Lên đồng được gọi bằng những tên khác
nhau có mặt trong tất cả mọi nền văn minh nhân loại. Lên
đồng nhập vào các tôn giáo Đạo Lão ở Trung Quốc, đạo
Phật tại Tây Tạng. Sự thần thánh hóa các lãnh tụ bộ
tộc thời nguyên thủy là một hiện tượng tự nhiên trong
các nền văn minh. Vua Nghiêu ,Thuấn của Trung Quốc thực sự
chỉ là một lãnh tụ bộ tộc vài chục ngàn dân.
Tại nước ta, bài thơ Nam Quốc sơn hà nam đế
cư của Lý Thường Kiệt xuất hiện chắc chắn không phải
là một bài diễn văn Tuyên Ngôn Độc Lập như ngày nay, mà
qua một buổi lễ cầu hồn nơi đền Trương Hống, Trương
Hát bên bờ sông Như Nguyệt, vị Pháp sư Phật Giáo nghi lễ
ảnh hưởng Phật Giáo Mật Tông nhảy múa nhập hồn thần
đọc lên bốn câu thơ tiên tri: Nam Quốc Sơn hà nam đế
cư, Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch
lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Phù
Đổng Thiên Vương, xuất hiện có lẽ trong thời đại thế
kỷ thứ 7 do nhu cầu thành hình nhà nước Vạn Xuân của Lý
Bí, Lý Phật Tử. Thiên Vương, tướng nhà trời hoàn toàn
xa lạ với tín ngưỡng nhân gian Việt Nam đương thời, có
nguồn gốc từ một vị Thiên Vương trong kinh điển Phật
Giáo, được các Pháp sư Mật Tông cho xuất hiện tại làng
Phù Đổng Bắc Ninh.
Ngày nay các nhà nghiên cứu cho rằng năm 620
dưới triều vua Josias, nước Do Thái từ chủ nghĩa đa thần
đã bước sang Độc Thần Giáo. Yahvé, một vị thần như bao
thần khác trở thành vị thần Duy Nhất của dân tộc Do Thái.
Trong cộng đồng Do Thái tại Éléphantine (một đảo phía nam
sông Nil) cho đến thế kỷ thứ IV tr TL, Yahvé cùng Nữ Thần
Anat và thần thứ ba là Ashim Béthel là Ba Ngôi được thờ
chung.
Tác phẩm của Tử Xuân Hàm Nghi, Eve vừa mới
ăn trái cấm, tay còn cầm trái cấm dấu phía sau, tay trước
che mặt xấu hổ biết mình trần truồng nhà vua đã gửi lòng
mình một lần bị lưu dày xa quê hương. Ngai vàng và quê hương
đã xa lìa vĩnh viễn trong cuộc đời vua Hàm Nghi và cũng là
nhà điêu khắc, họa sĩ Tử Xuân.
Paris cuối năm-2016
Phạm
Trọng Chánh Tiến sĩ KH Giáo Dục ,Viện Đại Học Paris
V Sorbonne
|