Đằng
Vương Các do con trai Đường Cao Tổ Lý Uyên,
là hoàng tử Lý Nguyên Anh, em ruột Lý Thế Dân tức Đường
Thái Tôn dựng nên năm Vĩnh Huy thứ
3 thời Sơ Đường (652) khi ông làm Thứ Sử Tô Châu,
nay thuộc Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Cùng với Nhạc Dương
Lâu nhìn ra Hồ Động Đình,
Hoàng Hạc Lâu nhìn ra bến Hán Dương, sông Trường Giang và
Bồng Lai Các ở Sơn Đông, được
xem là Tứ đại danh lâu Trung
Quốc. Năm 652 Hoàng tử Lý Nguyên Anh sai đô
đốc Hồng Châu xây dựng khu lầu các này làm chổ ở.
Do Lý Nguyên Anh được phong tước
Đằng Vương nên lầu này có tên là Đằng
Vương Các. 20 năm sau khi xây dựng, Lý Nguyên Anh đã mất,
Đô Đốc Diêm Bá Dư trấn nhậm Hồng Châu trùng tu,
mở cuộc thi thơ nhân tài bốn phương và khoản đãi tân khách.
Chủ ý ông là muốn khoe tài con rễ là Ngô Tử Chương. Bất
ngờ Vương Bột, lúc đó 18, 19 tuổi, trên đường
đi thăm cha là Vương Phúc Cơ làm huyện lệnh Hoan Châu,
Giao Chỉ (nay là Nghệ An) hay tin cho thuyển rẻ vào sông Chương
Giang. Đáng lẽ đi mất 2 ngày,
nhưng nhờ gió Trùng Cửu (mùng 9 tháng 9) con thuyền đi
nhanh chỉ một đêm là đến
đến Mã Đương, trong bữa tiệc do Diêm Bá Dư khoản đãi,
Vương Bột viết bài Đằng Vương
Các đoạt giải quán quân : hai câu thơ tuyệt tác : Lạc
hà dữ cô vụ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
(Ráng chiều cò lẽ đồng bay. Nước thu nối với trời xanh
một màu), được truyền tụng hơn ngàn năm qua. Bài Đằng
Vương Các của Vương Bột được xem là một trong những
bài thơ văn hay nhất trong thi ca Trung Quốc, gắn liền với
di tích lịch sử này, một điển tích
thường nhắc đến trong văn chương Trung Quốc, Việt Nam..
Tô Đông Pha có câu thơ : Thời lai phong tống Đằng Vương
các. Gặp thời gió tới Đằng
Vương Các Nguyễn Du trong Kiều có câu : Duyên Đằng
thuận nẽo gió đưa, Cùng chàng kết tóc xe tơ một ngày.
.
Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký bài thơ viết cho Mai Sơn
Phủ cũng nhắc đến : Nào đâu
gác Đằng Vương.
Đằng Vương Các trải
qua 28 lần trùng tu qua các triều
đại, lần cuối cùng năm 1876 niên hiệu Đồng Trị nhà Thanh.
Năm 1926-1929 bị phá hủy trong cuộc chiến tranh Trung Nhật.
Năm 1989 được xây dựng lại theo kiến trúc thời nhà
Tống cao 57,5 m với 5 tầng, 9 lớp mái, kiểu minh tam ám thất
(3 sáng, 7 tối), mỗi tầng đều có
hành lang thưởng ngoạn phong cảnh sông Cám Giang, bắc nam có
Áp Giang đình và Áp Thúy đình. Tổng diện tích xây
dựng là 13 000 m2 trên khuôn viên 47 000m2. Tầng 1 : cao
12m, lối vào có hai câu thơ Vương Bột do Mao Trạch Đông
viết, đại sảnh phía Tây có mô hình Đằng
Vương Các bằng đồng. Tầng 2 : có bích họa Nhân kiệt đồ,
Giang Tây lịch đại danh đồ, 80 danh nhân đất Giang Tây như
Đào Uyên Minh, Từ Như Tử, Tằng Củng, Âu Dương Tu,
Vương An Thạch, Thang Hiển Tổ.. Bích họa cao 2,55m dài 43,9m.
Tầng 3 : bích họa Lâm Xuyên Mộng 4 vở kịch của Thanh Hiển
Tổ : Mẫu đơn đình, Tư Thoa
ký, Nam Kha Mộng, Hàm Đan ký. Tầng
4 : bích họa địa linh đồ. Tầng 5 : nơi thưởng thức ca
múa, có 25 nhạc cụ nước Sở được phục chế.
Vương Bột tức Vương Tử An, gốc gác tỉnh
Thái Nguyên TQ, sau định cư ở Long Môn (Sơn Tây TQ) cha là
Vương Phúc Cơ làm huyện lệnh Châu Hoan. Giao Chỉ. Lên sáu
tuổi đã nổi tiếng thơ văn, thuộc làu kinh sử. 14 tuổi
đoạt khôi nguyên kỳ thi đối sách
triều đình, được lãnh chúa đất Bái rước về làm
thầy giảng sách. Xuất chính làm quan võ nhỏ và có lần bị
vua ruồng bỏ biếm ra Nam Trung đất Thục làm chỉ huy lính
đồn trú.
Năm 672, Vương Bột 26
tuổi sang Giao Châu thăm cha, bị đắm thuyền chết đuối.
Tại xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An. Trước
năm 1972 còn đền thờ Vương Bột.
Hiện nay còn tấm bia ghi lại lần trùng tu cuối cùng
năm 1854. Năm 1958 trong chiến dịch
"
phá đình chùa lấy gạch ngói
xây trường học ", cán bộ địa phương
đã phá đền hạ, lấy gạch ngói làm vật liệu. Cuối năm
1972 bom đạn B52 đã xóa sạch đền, dân Nghi Lộc đã cứu
được hai pho tượng, tương truyền đó là tượng Vương
Bột và cha Vương Phúc Cơ. Theo ông Thái Doãn Hiểu. Vương
Bột (Site Văn Hóa Nghệ An) thuyền
Vương Bột bị đắm tại cửa Hội Thống, xác Vương Bột
theo dòng thủy triều trôi đến bờ sông Đồng Long (tên
cũ sông Lam) thuộc xã Nghi Xuân, Nghi Lộc, được người cha
vớt lên chôn cất tại nơi này, sau Vương Phúc Cơ cũng buồn
và mất, do có nhiều công trạng được
nhân dân kính mến, ông được lập đền thờ cùng con
nơi này.
Trước tác Vương Bột : Vương Tử An tập gồm
bộ sách 16 quyển gồm : Hán Thư Chỉ Hà, Chu Dịch Phát
Huy, Thử Luận Ngữ, Chu Trung Toản Tự, Thiên Tuế Lịch. Viết
từ tài liệu biên tập sưu tập văn sử triết của ông nội
ông là Vương Thông và thơ văn của ông, nổi bật nhất là
thơ.
Trong chuyến thăm Việt
Nam tháng 11 năm 2015. Ông Tập Cận Bình đã đọc tại Quốc
Hội Việt Nam hai câu thơ của Vương Bột trong bài Bát quái
đại diễn luận:
"Cứ thương hải nhi quan chúng thủy, tắc
giang hà chi hội qui khả kiến dã.
Đăng Thái Sơn nhi
lãm quần nhạc, tắc cương loan chi bản mạt khả tri
dã."
Tựa biển cả quan sát các dòng nước, các sông
ngòi qui tụ về đâu có thể nhìn thấy.
Lên núi Thái Sơn nhìn ngắm quần thể núi non,
thì mọi ghềnh gò đều có thể biết hết."
Ngày xưa, thời Vương Bột, kiến thức nhân
loại còn hạn hẹp, dân tộc nào cũng nghĩ trái đất hình
vuông, bốn bề là biển cả, các dòng sông từ trên núi chảy
ra biển. Chính giữa có một ngọn núi cao nhất là trung tâm
vũ trụ, nơi thần thánh ở. Hy Lạp có núi Olympe nơi Thần
Zeus ngự trị với cả một cung đình. Ấn
Độ có núi Linh Thứu. Dân tộc Nam Mỹ có núi Andes. Trung Hoa
có núi Thái Sơn nơi Thượng đế ngự trị, cho nên vua Tần
xây đài tế lễ Hoàng Thiên tại núi Thái Sơn. Thật
sự thì Thái Sơn chỉ cao 1533m, chẳng thấm vào đâu so với
Everst của Hy Mã Lạp Sơn cao 8848m và nhiều núi khác. Vua là
Thiên tử, con trời, được mệnh trời giao phó, cha truyền
con nối, thay trời cai trị thiên hạ.. Chữ Vương là một
gạch nối liền ba gạch ngang thiên địa nhân. Người Trung
Hoa tự nhận mình là trung tâm của vũ trụ như bao dân tộc
khác. Nước Trung Hoa có cái kiêu ngạo truyền thống mình là
"cái rún của vũ trụ", nằm chính
giữa mặt đất, chung quanh là các rợ, mọi, man, di, tây dương,
bạch quỷ... Từ thời Xuân Thu Chiến quốc đến đời Minh,
các triều đình Trung Quốc phải xây Vạn Lý Trường
Thành để ngăn chận Hung nô. Đời
nhà Hán đến nhà Đường các tướng Mã Viện, Ban Siêu..
đem quân đánh các nước họ lập
ra An Nam Đô hộ phủ (Giao Chỉ) An Đông Đô hộ phủ (Triều
Tiên), An Tây Đô hộ phủ (Thanh Hải, Tân Cương, Tây Tạng)
An Bắc Đô hộ phủ (Nội Mông). Nhân dân Trung Quốc
rên siết vì các cuộc viễn chinh, thơ Đỗ
Phủ phản ảnh điều đó. Nhưng cũng có những thời kỳ Trung
Quốc suy yếu, đời Hán vua phải đem phi tần như Chiêu Quân,
cống Hồ, cho chúa Thiền Vu để mua lấy thanh bình trong 60
năm. Và có những thời đại Trung Quốc bị nhà Kim chiếm
đóng, vua bị giam giữ ; Tể Tướng
triều đình là Tần Cối hàng giặc và giết trung thần
Nhạc Phi. Cuối đời Tống, Trung Quốc
bị Mông Cổ chiếm đóng lập nên nhà Nguyên (1271-1368)
97 năm. Cuối nhà Minh bị nhà Mãn Châu xâm chiếm lập nên
nhà Thanh (1644-1912) 268 năm., dân Trung Quốc phải chịu nhục
nhã, ăn mặc để tóc dài đuôi sam
như người Mãn Châu, và cung kính với các quan lại Mãn
Châu : Mãn Đại Nhân (nguồn gốc chữ
Mandarin Tây phương). Những thời đại Trung Quốc suy yếu bị
xâm lăng, đất nước Việt Nam là nơi tiếp nhận những
làn sóng di dân, tị nạn người Trung Quốc (đời nhà Tống
trong quân đội nhà Trần, người Minh Hương tị nạn Mãn Thanh
khai thác Biên Hòa, Sài Gòn, Hà Tiên và gần nhất là thời
kỳ Trung Quốc bị Nhật chiếm đóng, người Hoa Chợ Lớn
qua Việt Nam trong thời kỳ này). Thời Vương Bột, chỉ biết
đến Biển Đông, các con sông Hoàng
Hà, Dương Tử đều chảy ra, nhưng không hề biết Thái Bình
Dương nó bao la như thế nào ? Vương Bột cũng không biết
có những Đại dương khác như Đại
Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương, Nam Băng Dương.
Có những dòng sông không chảy ra biển mà chảy vào
hồ lớn giữa đất liền, có những dòng sông chảy ra Bắc
Cực bị đóng băng ? Đứng trên
núi Thái Sơn phóng tầm mắt thì chỉ thấy vài chục cây số
chung quanh, núi Thái Sơn không phải là núi cao nhất trên trái
đất này. Cao nhất là Hy Mã Lạp Sơn, có lên đỉnh nhìn chung
quanh cũng thấy toàn là các đỉnh tuyết.
Ý Vương Bột trong hai câu này muốn nói trong
cuộc đời phải nhìn xa trông rộng. Khi kiến thức càng cao
thì càng nhìn thấy rõ hết những điều thấp hơn. Ví như
người trình độ toán đại học,
thì nhìn những bài toán trung học đã thấy ngay đáp
số. Nếu ông Tập Cận Bình nhìn xa trông rộng, tất phải
nhìn thấy đám bụi mờ ô nhiễm thành phố Bắc Kinh và các
thành phố kỹ nghệ, ô nhiễm gấp 50 lần lượng ô nhiễm
bình thường, là nguyên nhân hàng triệu người chết mỗi
năm. Nếu nhìn xa trông rộng ông phải thấy 80% sông ngòi Trung
Quốc đã bị nhiễm độc. Nếu ông nhìn xa trông rộng tất
thấy uy tín hàng hóa Trung Quốc trên thị trường qua những
chuyện: mélamine trong sữa trẻ em,
đồ chơi trẻ em Trung Quốc sản xuất có nhiều chất chì
độc hại, ghế da ngồi bị ngứa phỏng, hàng hóa Trung
Quốc sản xuất ra dùng một thời gian ngắn là vất đi. Thế
giới có thể bị mê hoặc vì đồ
bán rẻ, nhưng rồi đồ rẻ mà mau hư hỏng thì trở
thành đồ đắt vì dùng không
được lâu bền, mua một thời gian ngắn thì vất đi. Các
quốc gia trên thế giới sẽ tẩy chay hàng Trung Quốc vì kém
chất lượng, không đạt tiêu chuẩn an toàn, gây độc hại.
Sự hưng thịnh của Trung Quốc sẽ rơi xuống như một
lâu đài bằng giấy. Nếu nhìn xa trông rộng thì phải
thấy các dân tộc các nước làm ăn với Trung Quốc vì Trung
Quốc yêu chuộng hoà bình, hợp tác hai bên đều
có lợi. Khi Trung Quốc gây hấn với các quốc gia lân bang,
tất cả các lân bang đều trở thành kẻ thù Trung Quốc,
thì Trung Quốc sống với ai đây ? Việc lập vùng chủ quyền
hàng không, chiếm đóng các đảo san
hô, vẽ bản đồ đường lưỡi bò chín đoạn, lập căn cứ
quân sự, tăng ngân sách quốc phòng hàng năm, có lợi
gì cho Trung Quốc ? Uy tín Trung Quốc có lên cao không?
hay bị cả cộng đồng quốc tế chê cười vì sự tham
lam, hiếu chiến.
Tác phẩm tuyệt tác
của Vương Bột , được nhắc nhở ngàn năm vẫn là Đằng
Vương Các tự
ĐẮNG VƯƠNG CÁC TỰ
Nam Xương quận cũ,
phủ mới Hồng Đô.
Sau chia Dực, Chẩn,
đất nối Hành Lư.
Ngã ba sông, đai Ngũ
Hồ, chế Man Kinh, tiếp Âu Việt.
Vật báu trời cho,
ánh rồng chiếu tận sao Ngưu, Đẩu.
Người tài, đất thiêng, nhà cao Từ Trĩ,
giường treo Trần Phồn.
Hùng Châu sương giăng, anh tuấn sao lạc.
Đài hào gối
giao miền Di, Hạ; Khách chủ đẹp
đẽ xứ Đông Nam.
Đô đốc Diêm Công
danh tiếng, cảm kích đến xa xăm.
Thái thú văn võ
(song toàn) mô phạm châu mới, dừng chân chốn này.
Mười tuần nhàn hạ, bạn tốt như mây.
Ngàn dậm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.
Giao bay phượng múa,
Mạnh Học sĩ tổ văn chương.
Chớp sáng, sương trong, Vương tướng quân
cai quản võ công.
Cha tôi quan tể (Hoan
Châu), tôi đi thăm miền danh tiếng đó.
Trai trẻ này biết đâu, hân hạnh gặp tiệc.
Đương trời tháng
chín, gặp buổi mùa thu.
Nước cạn đầm
trong, khói đọng chiều tím.
Trông ngựa xe đường
cái, phóng mắt hỏi cảnh đồi cao.
Đến miền Trường
Châu của đế tử, tìm quán cũ người tiên.
Núi cao xanh biếc, nhô khỏi khói mây.
Bóng gác màu son, dưới không sát đất.
Bến hạc, bãi cát quanh co bát ngát bãi cồn,
Điện quế, cung lạ
bày hình thể núi non.
Mở rộng cửa son, cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông bao
la, sông đầm nhìn kinh hãi.
Cửa ngõ giăng đất,
nhà chuông đỉnh vạc bày.
Thuyền chật bến sông, cột vẽ chim sẽ,
rồng vàng.
Cầu vòng tan mưa tạnh, rực sáng thấu đường
mây.
Rán chiều cò lẽ cùng bay, sông thu nối với
trời xanh một màu.
Tiếng ca thuyền chài, âm vang bến bờ Bành
Lễ.
Nhạn kêu giá rét, tiếng vang tận bến Hành
Dương.
Khúc ngâm xa sảng khoái, hứng thú phơi phới
nhanh.
Tiếng vui gió mát dậy, tiếng ca lắng chìm,
còn lưu mây trắng.
Tre lục vườn kỳ, khí lan chém rượu Bành
Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp,
ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẳn bốn điều hay,
đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp trời, vui chơi hết ngày
nhàn rỗi.
Trời đất cao xa,
vũ trụ vô cùng.
Hứng hết, buồn
về hiểu đầy vơi có số.
Trông Trường An dưới trời, ngóng Ngô Hội
trong mây.
Thế tận đất cùng
biển Nam sâu thẳm, cột trời cao ngất sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt nào ai xót thương người
lạc lối.
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều khách
tha phương.
Tưởng nhớ đến
chốn cửa vua không trông thấy được.
Phụng chiếu nơi tuyên thất, chẳng biết
năm nào.
Than ôi !
Thời vận chẳng bình thường, đường
đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường thành già cả, Lý Quảng khó
được phong hầu.
Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng
phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phải
ẩn náo miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Chú thích
Nam Xương: tên cũ quân nơi lập Đằng Vương
Các.
Hồng Đô: tên
phủ mới.
Dực Chẩn: Vùng sao Dực, sao Chẩn, theo địa
lý xưa ứng với miền Nam Trung Quốc.
Hành Lư: vùng đất tiếp
giáp Hồng Đô.
Ngũ Hồ: Động Đình
Hồ và 4 hồ lân cận.
Man Kinh: các dân tộc miền Nam Trung Quốc.
Âu Việt: vùng Bắc Việt Nam ngày nay.
Từ Trĩ: người học trò giỏi ở Hồng Châu,
bạn thân Trần Phồn, khi nào có Từ Trĩ đến
thăm, Trần Phồn mới hạ giường chõng xuống, khi bạn
về thì treo lên không tiếp ai.
Diêm Công: Diêm Bá Dư đô
đốc Hồng Châu.
Mạnh Học sĩ: Mạnh Kha, Mạnh Tử.
Bành Trạch: nhà thơ Đào Tiềm tức Đào Uyên
Minh, tri huyện Bành Trạch.
Lâm Xuyên tức Lâm Hòa Tịnh, Lâm Bô ẩn sĩ
đời Tống thơ hay chữ tốt vẽ khéo, tự nói: Lấy mai làm
vợ, lấy hạc làm con (mai thê, hạc tử) chứ không màng công
danh phú quý.
Trường An: Tây An, Kinh
đô nhà Tần, Hán, Đường.. Trung Quốc ngày xưa.
Phùng Đường: đời
Hán làm quan tới già đời mà chỉ giữ một chức. Quan
dở cả đời không được lên
chức.
Lý Quảng: đang làm
quan từ chức, lên non săn cọp làm kế sinh nhai.
Giả Nghị: học giả
có tiếng đời Hán, sau bị gièm pha, bị truất ra làm
Trường Sa vương.
Lương Hồng: làm quan đời Võ Đế nhà Ngụy,
bị nịnh thần sàm tấu vua đuổi ra Bắc Hải.
Đằng Vương Các được
các sứ thần Việt Nam ngâm vịnh khi đi sứ: như Lê
Cảnh Tuân triều Hồ, Nguyễn Tông Khuê, Phan Huy Ích..
Lê Cảnh Tuân ( ? -1416) tên chữ là Tử Mưu,
hiệu là Tử Trai, người Mộ Trạch, huyện Đường
An. Đỗ Thái Học Sinh vào năm Canh Thìn (1400) triều nhà
Hồ, Khi nhà Minh xâm chiếm nước ta
ông viết bức Vạn Ngôn thư, ông bị bắt đưa về Yên Kinh
, giam trong ngục Kim Lăng và chết trong ngục năm năm sau đó.
Ông có 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. trong
đó có bài : Quá Nam Xương phủ Đằng
Vương Các Cố chỉ. Qua nền cũ Đằng Vương các ở phủ Nam
Xương. Ông đến Đằng Vương Các thời nhà Minh lúc đó chỉ
còn nền. Lâu đài cũ không còn nữa, chưa được xây
dựng lại. Giang sơn thế này dã từng một phen mở mặt. Nay
nếp kiến trúc cũ đã xiêu đổ không
thể vin lại được nữa. " Mưa cuốn rèm châu "
nay đà cuốn sạch. " Mây bay cột vẽ " giờ lại
bay về. Gò đổi hang thay trên bãi cát lạnh. Xưa qua nay lại
trong ánh chiều buông. Cảnh phồn hoa ngày ấy nay ở đâu ?
Chỉ còn trơ lại Nam Phố đối diện với Tây Sơn.
QUA NỀN CŨ ĐẰNG VƯƠNG
CÁC Ở PHỦ NAM XƯƠNG
Một phen mở mặt với giang sơn,
Lầu cũ đỗ xiêu
đã chẳng còn.
" Mưa cuốn rèm châu " nay cuốn sạch.
"Mây bay cột vẽ " lại còn trơn.
Gò thay hang đổi bãi cồn lạnh,
Xưa lại nay qua chiều nắng buông.
Cái cảnh phồn hoa
đâu đó nhỉ ?
Còn trơ Nam Phố đối Tây Sơn.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
QUÁ NAM XƯƠNG PHỦ ĐẰNG
VƯƠNG CÁC CỐ CHỈ
Giang sơn như thử nhất khai nhan,
Dư cấu khuynh y bất khả phan.
Vũ quyển châu liêm không quyển khứ,
Vân phi họa đống
tự phi hoàn.
Lãng thiên cốc biến hàn sa thượng.
Cổ vãn kim lai lạc chiếu gian.
Dương nhật phồn hoa hà xứ tại ?
Y nhiên Nam Phố đối Tây San.
Cái chết của Tiến sĩ Lê Cảnh Tuân trong ngục
Kim Lăng nhắc nhở chúng ta : Hai mươi
năm đô hộ nhà Minh, văn hóa 400 năm thời đại Lý Trần bị
xóa sạch, hầu hết các công trình xây
dựng như An Nam từ đại khí đều bị phá hủy, tất cả
sách vở đều bị thu về Kim Lăng (Nam Kinh). Hàng trăm ngàn
thợ giỏi, bị bắt đi xây dựng kinh đô Bắc Kinh. Công trình
do kiến trúc sư Nguyễn An điều khiển. Máu xương người
Việt Nam trong hai mươi năm đô hộ nhà Minh. Người tài
như Tuệ Tĩnh thiền sư thầy thuốc giỏi, Hồ Nguyễn Trừng
chế súng thần công.. đều bị bắt về phương Bắc. Nguyễn
Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo "Chẻ
trúc Nam Sơn không đủ ghi tội ác " còn nhắc nhở người
Việt Nam đời đời.
Nguyễn Tông Khuê (1693-1767), người xã Phúc Khuê,
huyện Ngự Thiên tỉnh Thái Bình. Đỗ Hội Nguyên Tiến sĩ
khoa Tân Sửu (1721). Phó sứ năm 1742,
Chánh sứ năm 1747, thầy dạy Lê Quý Đôn. Trong Sứ Trình Tân
Truyện 670 câu lục bát có xen thơ Đường luật. Đoạn về
Đằng Vương Các ông viết:
Thú vui bấy rặng Mã Đương, 359
Bóng Đào Bành
Trạch mơ màng dậu đông.
Một phen nổi trận trường phong,
Đưa đích Vương Bột
tới trong Gác Đằng,
Tiên nương có đấy cùng chăng,
Giữa dòng một đỉnh cao rằng Tiểu Câu.
Xiếc bao phong cảnh Giang Châu,
Vương Duy có bút vẽ
đồ song thai.
Từ Mã Đương nơi Đào
Tiềm tri huyện Bành Trạch trồng cúc dậu đông,
thuyền Vương Bột nhờ một trận gió lớn đưa nhanh tới
Đằng Vương Các kịp dự Hội Thơ. Trên sông Trường Giang
có một đảo nổi lên ngọn núi gọi là Tiểu Câu, hay
Tiểu Cô, thờ các tiên cô. Giang Châu có nhiều phong cảnh
đẹp nhà thơ Vương Duy thời Đường thường vẽ tranh "thi
trung hữu họa " và đề thơ trong tranh.
Phan Huy Ích làm Chánh Sứ sang nhà Thanh năm
1790, triều Tây Sơn ghé thăm gác Đằng Vương có đề thơ
bài
dẫn viết :
Gác Đằng Vương ở
ngoại thành Giang Tây, bài tự của Tử An (Vương Bột)
khắc trên vách phấn. Trong thành có cái đầm sâu nước lạnh,
phong cảnh hoa lệ, có tên là Nam Châu hoa đảo
(đảo hoa Nam Châu). Các dinh thự quan tỉnh và nha môn
phủ huyện, phố phường đều vây
quanh bốn mặt đầm. Từ dưới gác ngang sông đến bờ phía
đông là con đường chính.
Bài thơ Phan Huy Ích viết: Mái hiên chót vót
nhìn xuống dòng nước xanh, Bài tự rực rỡ như ánh sao Đẩu.
Núi sông thu vào bút thần đồng. Xưa nay còn truyền lầu Đế
tử (con vua) Thuyền xe muôn dậm xuyên qua bãi rau liễu. Cây,
khói bốn mùa chứa đọng ở bãi hoa. Thuyền sứ chẳng nhờ
sự thuận tiện của luồng gió nam. Ngẫu nhiên tiếp cuộc
chơi của kẻ rung nhạc loan mang bội ngọc.
ĐỀ GÁC ĐẰNG VƯƠNG
Chót vót hiên cao ngắm nước xanh,
Bài văn sao Đẩu
sáng long lanh.
Núi sông thu lại
thần đồng bút,
Kim cổ truyền đây
đế tử cung.
Muôn dậm dậm thuyền xa qua bến liễu,
Bốn mùa cây, khói bãi hoa quanh.
Há nhờ cơn gió xuôi thuyền sứ,
Tiếp nối cuộc chơi xưa ngọc chuông.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ĐỀ ĐẰNG VƯƠNG CÁC
Nguy nghiệp tằng thiềm hám bích lưu,
Tự văn thôi sản
đẩu quang phù.
Giang sơn tận thuộc
thần đồng bút,
Kim cổ do truyền
đế tử lâu.
Vạn lý chu xa xuyên liễu phố,
Tứ thời yên thụ trữ hoa châu.
Tinh sà bất giả huân phong tiện,
Ngẫu tục minh loan bội ngọc du.
Đoàn Nguyễn Tuấn, đi
cùng phái đoàn Phan Huy Ích cũng có đề thơ Đằng Vương Các
nhưng tiếc rằng bài thơ không được chọn dịch trong Hải
ông thi tập nxb KHXH Hà nội 1982. Ông còn có bài thơ
Mã Đường Dạ Bạc. Đêm đậu thuyền
ở bến Mã Đường bến của Đằng Vương Các. Nay huyện Như
Cao tỉnh Giang Tô. Bóng chiều đã ngã vào làn sóng lạnh.
Trăm thuyền khua kẻng, trời đã tối
rồi. Đường đi dịch ba lần ầm ỉ bên tai. Sách Hậu
Hán Thư: "Đời nhà Chu, Việt
Thường nam Giao Chỉ qua ba lần phiên dịch đến cống chim
bạch trĩ ", thời nhà Thanh sứ đoàn phải dịch từ tiếng
Việt ra tiếng Quảng Đông, hay tiếng Quan Thoại, Bắc Kinh
rồi dịch ra tiếng Mãn Châu, do đó các sứ thần thường
dùng bút đàm để trao đổi, nói chuyện.
Quan chức hai triều nhà Thanh, và Việt lẫn lộn với
nhau. Tiếng pháo vang chân đồn phía
núi vọng lại. Đường xưa Trung Quốc cứ 4, 5 dậm có đặt
một sở gọi là đường hoặc tấn, tập, ta gọi là đồn,
có một số binh lính trấn giữ để xét hỏi kẻ gian phi và
truyền đệ công văn. Khi có sứ bộ đi qua thì đốt pháo
đón tiếp và hộ tống qua đó. Đuốc sáng rực bến sông,
các hạt móc đều khô. Ngoãnh nhìn mây trắng, quê nhà
đã xa xăm. Một tấm lòng quê khó mà nguôi được.
ĐÊM ĐẬU THUYỀN Ở
BẾN MÃ ĐƯỜNG
Sóng lạnh bên sông ngã bóng chiều,
Trăm thuyền về
tối kẻng khua kêu.
Bên tai vang vọng ba lần dịch,
Lẫn lộn trước mắt quan lưỡng triều.
Tiếng pháo chân đồn
vang núi vọng,
Đuốc hoa đầu bến
hạt sương tiêu.
Ngoãnh nhìn mây trắng nhà xa thẳm,
Một tấm lòng quê, nhớ bấy nhiêu.
Nhất Uyên dịch thơ
MÃ ĐƯỜNG DẠ BẠC
Tà huân đà ảnh nhập ba hàn,
Bách đĩnh minh kim,
dạ khí lan.
Nhĩ bạn phân hiêu tam dịch lộ,
Nhãn tiền thác tạp nhị triều quan.
Pháo oanh đường
cước sơn thanh đáp,
Liệu xí tân đầu
lộ điểm can.
Hồi thủ bạch vân gia tiệm viễn,
Hương tâm nhất phiến dự bài nan.
Paris 6-3-2016
PHẠM TRỌNG CHÁNH
|