Tại
xã Thái Đường, hương Đa Cương, huyện Ngự Thiên, phủ Long
Hưng (1),
Trần Huyền Trân chào đời năm Mậu Tý 1288 (2)
- niên điểm mà quân dân Đại Việt chiến thắng giặc Nguyên
Mông xâm lược lần thứ ba. Đó là công chúa duy nhất của
vua Trần Nhân Tông và hoàng hậu Khâm Từ. Năm Quý Tị 1293,
nàng mới lên 6 (3),
chẳng may mẹ mất, tuy nhiên được dì ruột là hoàng hậu
Tuyên Từ chăm sóc. Chị em Khâm Từ và Tuyên Từ đều là
ái nữ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Cũng năm ấy,
vua Trần Nhân Tông thoái vị, cho thái tử Trần Thuyên - anh
ruột của Huyền Trân - nối ngôi và trở thành vua Trần Anh
Tông. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đến chùa Võ Lâm
ở Ninh Bình tu tập, sau chuyển lên núi Yên Tử (4).
Năm
Tân Sửu 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông ngoạn lãm
vương quốc Chiêm Thành (5)gần
9 tháng, được vua Chế Mân tức Jaya Sinhavarman III tiếp đãi
nồng hậu. Trước lúc hồi hương, Trần Nhân Tông hứa gả
con gái cưng là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù bấy giờ
Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu Tapasi (người Java
- nay thuộc Indonesia). Thuở nọ, công chúa Huyền Trân mới
14 tuổi, tất nhiên muốn làm lễ vấn danh phải đợi nàng
trưởng thành.
Hoàng
thành Thăng Long (6)
chắc chắn tạo bao ấn tượng sâu đậm đối với công chúa
Huyền Trân, nhất là thời thiếu nữ. Nàng được dạy dỗ
rất đặc biệt với yêu cầu: vừa thấm nhuần văn hoá bản
địa, vừa tiếp cận ngôn ngữ lẫn tập quán Chiêm. Một
trong những thầy dạy thi thư cho nàng là Văn Túc Vương Trần
Đạo Tái - con của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Thầy
dạy nàng thêu thùa là đại quan Trần Khắc Chung (7).
Năm
Ất Tị 1305, theo Đại Việt sử ký toàn thư(8),
đã diễn ra sự kiện quan trọng với công chúa Huyền Trân
nói riêng, vương quốc Đại Việt nói chung: "Tháng 2, Chiêm
Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng
hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ cầu hôn. Các
quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương
Đạo Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành,
việc bàn mới quyết."
Cũng
theo bộ chính sử này, năm sau, Bính Ngọ 1306, thì: "Mùa hạ,
tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế
Mân."
Trong
các quà sính lễ mà vua Chế Mân dâng vương triều Trần, có
món vô giá quá đặc biệt: một phần lãnh thổ của Chiêm
Thành là hai châu Ô , Ri / Rí / Lý (9).
Dân gian lưu truyền câu hát nghẹn ngào:
Tiếc
thay cây quế giữa rừng,
Để
cho thằng Mán thằng Mường nó leo.
Thêm
bài thơ thất ngôn bát cú tương truyền của Hoàng Cao Khải:
Đổi
chác khôn ngoan khéo nực cười,
Vốn
đà không mất, lại thêm lời.
Hai
châu Ô Lý vuông ngàn dặm,
Một
gái Huyền Trân của mấy mươi.
Lòng
đỏ khá khen lo việc nước,
Môi
son phải giống mãi trên đời.
Châu
đi rồi lại châu về đó,
Ngơ
ngẩn nhẩn nhau mấy đứa Hời.
Bằng
đường bộ, công chúa Huyền Trân sang Chiêm quốc, có Trần
Khắc Chung đưa tiễn. Kinh đô Vijaya còn gọi Đồ Bàn (10)
hân hoan tiếp đón giai nhân lẫy lừng cõi Việt, long trọng
tổ chức hôn lễ. Huyền Trân trở thành hoàng hậu Paramecvari.
Tháp Cánh
Tiên nhìn từ di tích thành Đồ Bàn ở An Nhơn, Bình Định.
Ảnh: Phanxipăng
Éo
le thay, tháng 5 năm Đinh Mùi 1307, vua Chế Mân đột tử. Tháng
7 cùng năm, tại kinh đô Đồ Bàn, Paramecvari Huyền Trân sinh
hoàng tử Dayada, phiên âm là Chế Đa Da. Đại Việt sử
ký toàn thư ghi nhận loạt vụ việc năm đó: "Mùa đông,
tháng 10, sai Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ
Trần Khắc Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công
chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về. Theo tục lệ Chiêm
Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu
để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn
Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người
Chiêm]: 'Nếu công chúa hoả táng thì việc làm chay không có
người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven
trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu.' Người
Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công
chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển
loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô."
Đoạn
vừa trích chứa những chi tiết đáng hồ nghi. Thứ nhất,
vua Chế Mân băng tháng 5 tại Đồ Bàn, mà tháng 10 phái đoàn
của Đại Việt rời Thăng Long, ví thử hoả táng Huyền Trân
há lẽ vương quốc Chiêm Thành kéo dài thời gian chờ đợi
cả nửa năm ròng? Thứ nhì, biên soạn bài Góp phần tìm
hiểu lịch sử Champa (11),
tiến
sĩ Po Dharma khẳng quyết: "Nếu theo truyền thống Champa, chỉ
có bà hoàng hậu chính thức mới được phép để huỷ thân
trên giàn hỏa với chồng của mình." Cần thêm rằng tục
lệ Chăm theo xu hướng Bà La Môn thì không hoả thiêu sản
phụ, trẻ sơ sinh, người vị thành niên. Thứ ba, đưa được
Huyền Trân về Đại Việt nhờ Trần Khắc Chung và Đặng
Văn thuyết phục ổn thoả với triều đình Chiêm Thành, dĩ
nhiên phải để hoàng tử Chế Đa Da lại. Bằng không, cuộc
hải trình suốt 10 tháng ròng của Huyền Trân chắc chắn bất
thành bởi thuyền Chăm thời ấy nổi tiếng nhanh chóng và
thiện chiến, ấy chưa kể việc đất liền tiếp tế thức
ăn lẫn nước ngọt cho hải đoàn của Đại Việt.
Bập
bềnh trên sóng biển Đông phía ngoài đèo Hải Vân, vụt gặp
mưa bão, hải đoàn Đại Việt tấp vào đảo nhỏ nhằm tránh
thiên tai. Đảo nọ từ ấy mang tên Huyền Trân (12),
từng khiến Ngô Thì Nhậm sáng tác áng thơ thất ngôn bát
cú 積雨玄珍
/ Tích vũ Huyền Trân / Đêm mưa trên đảo
Huyền Trân mà đây là đôi dòng đề:
玄珍灑盡幽愁淚,
化作春梅夜雨聲。
Phiên
âm:
Huyền
Trân sái tận u sầu lệ,
Hoá
tác xuân mai dạ vũ thanh.
Vũ
Đình Liên dịch:
Nước
mắt Huyền Trân khóc phận mình,
Đêm
xuân, mai đọng lệ trên cành.
Kế
tiếp, Huyền Trân vào cửa Tư Dung, nay gọi cửa Tư Hiền (13),
lên núi Linh Thái và núi Thuý Vân / Tuý Vân, thưởng thức
đặc sản địa phương và ngắm cảnh đầm Cầu Hai - một
phần của phá Tam Giang.
Từ núi
Thuý Vân / Tuý Vân,
ngắm đầm
Cầu Hai ở Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế.
Ảnh: Phanxipăng
Mùng
10 tháng 8 năm Mậu Thân (1308), sau 10 tháng hải hành, Trần
Huyền Trân về tới kinh đô Thăng Long. Ngày 13 tháng 11 cùng
năm âm lịch, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông - người sáng
lập thiền phái Trúc Lâm (14)-
viên tịch trong am Ngoạ Vân trên núi Yên Tử. Tết Nguyên đán
Kỷ Dậu (1309), thực hiện di huấn của phụ thân, Huyền Trân
đến trấn Kinh Bắc, vào chùa Vũ Ninh trên núi Trâu (15).
Nơi đấy, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phác, nàng
xuống tóc, khoác nâu sồng, trở thành Thích Nữ Hương Tràng.
|
|
Tượng
đá Thích Nữ Hương Tràng được dựng tại đền thờ công
chúa Huyền Trân ở núi Ngũ Phong, phường An Tây, TP Huế.
Ảnh: Phanxipăng
|
Kỵ giỗ
ni sư Thích Nữ Hương Tràng tức công chúa Trần Huyền Trân
tại đền Huyền Trân ở Huế mùng 9 Tết Đinh Dậu nhằm chủ
nhật 5-2-2017.
Ảnh: Phanxipăng
|
Nhập
chúng, chuyên chú học tập Phật pháp, rồi nữ tu Hương Tràng
được quốc sư Bảo Phác uỷ đến trụ trì chùa nào?
Sách
Bí
ẩn các nhà ngoại cảm Việt Nam do Lê Mai Dung biên soạn
(NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2007) đề cập Phan Thị Bích
Hằng: "Làng chị có ngôi chùa bà Huyền Trân công chúa đã
tu. Ở Chiêm Thành về, bà không lấy chồng nữa mà về tu
ở đấy. (...) Trong thời gian cộng tác với Trung tâm (16)
được khoảng 6 tháng, chị Hằng mong muốn làm được điều
gì đó cho quê hương nên xin các bác các chú cho người về
khảo sát lại di tích lịch sử chùa Dầu từ đời nhà Trần,
700 năm nay. Sau khi về khám phá, kiểm nghiệm thông tin, nói
chuyện, tiếp xúc với những nhân vật đã xây dựng chùa,
tất nhiên là chết cách đây 700 năm rồi, trong đó có cả
bà Phan Thị Vinh, nhũ mẫu của Huyền Trân công chúa, họ nhiều
đời của nhà chị Hằng. Chùa bị giặc Pháp đốt, phá tan
tành, những bát hương đã bị vùi xuống đất. Người xưa
cho biết toà sen như thế nào, bát hương ra sao, có bao nhiêu
sắc phong chứng chỉ từ các đời vua. Những gì thu thập
được xác nhận hoàn toàn đúng bởi ban văn hoá. Huyện trình
lên tỉnh, tỉnh trình lên Bộ. Chùa được công nhận là di
tích lịch sử - văn hoá."
Phanxipăng
ghé sinh quán của Bích Hằng là xã Khánh Hoà (17),
huyện Yên Khánh (18),
tỉnh Ninh Bình, viếng chùa Dầu, công trình được Bộ Văn
hoá và Thông tin công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp
quốc gia vào ngày 24-3-1993. Chùa có tên chữ 靈衙寺 / 灵衙寺
/ Linh Nha tự. Đôi câu đối trên tam quan cho hay chùa Dầu xuất
hiện từ đời nhà Lý (1009 - 1225) chứ chẳng phải đời nhà
Trần (1225 - 1400):
李朝而起陳朝而興萬古名藍
天柱已維地軸已立天年勝跡
Phiên
âm:
Lý
triều nhi khởi, Trần triều nhi hưng, vạn cổ danh lam;
Thiên
trụ dĩ duy, địa trục dĩ lập, thiên niên thắng tích.
Tạm
dịch:
Triều
Lý khởi lập, triều Trần hưng thịnh, muôn thuở danh lam;
Cột
trời vững chãi, trục đất chắc bền, nghìn năm thắng tích.
Phanxipăng
muốn kiểm chứng tin đồn: hậu cung của chùa là dãy nhà
5 gian, phải chăng một gian đầu hồi thờ công chúa Huyền
Trân?
Đại
đức Thích Minh Đức - trụ trì chùa Dầu - cười:
-
Gian đầu hồi được gọi cung cấm, thường xuyên khoá kín
cửa. Tăng ni, Phật tử muốn thắp nhang, xông trầm, khấn
vái, hãy dùng hương án bên ngoài. Tuy nhiên, hôm nay đặc biệt,
nhà chùa xin chiều ý anh Phanxipăng.
Cửa
cung cấm bật mở. Giữa hai thanh đoản kiếm và hai thanh trường
kiếm, nổi bật cỗ long ngai đỡ bài vị đã khoác áo dài
màu vàng. Mạnh dạn cởi cúc áo, tôi thấy bài vị bày mấy
chữ Hán sơn son thếp vàng: 玄姿公主陳... Phanxipăng reo lên:
-
Huyền
Tư công chúa Trần... Không phải công chúa Huyền Trân.
Sự
thật ấy được khẳng định qua loạt sách báo, chẳng hạn
đôi cuốn của Lã Đăng Bật: Chùa Ninh Bình (NXB Văn
Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2007),
Di tích, danh thắng Hoa Lư -
Ninh Bình (NXB Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội, 2007). Cần thêm:
Trần Huyền Trân chẳng hề tu ở chùa Dầu.
Đại
đức Minh Đức thắc mắc:
-
Thế công chúa Huyền Trân trụ trì chùa nào, anh Phanxipăng
nhỉ?
Quyển
XVI Tỉnh Nam Định trong bộ Đại Nam nhất thống chí
của Quốc sử quán triều Nguyễn(19)
cho biết: "Chùa Nộn Sơn: ở xã Hổ Sơn, huyện Thiên Bản.
Triều Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua nước Chiêm Thành,
sau công chúa lại trở về nước, trụ trì ở đây, nhân đấy,
dân sở tại phụng thờ."
Chùa
Nộn Sơn còn được gọi chùa Hổ Sơn (20),
hiện ở xã Liên Minh, huyện Vụ Bản (21),
tỉnh Nam Định, đã được công nhận di tích cấp tỉnh vào
ngày 27-8-2006. Tôi đến đây, được đại đức trụ trì Thích
Thanh Quang đưa lên sườn non, viếng đền thờ. Nơi đó, đôi
pho tượng gỗ tạc nhị vị công chúa triều Trần là Thuỵ
Bảo và Huyền Trân an vị trong tủ kính.
Đại
đức Thanh Quang nói:
-
Hai tượng này có khả năng ra đời từ thời Lê. Chùa trước
kia được triều đình ban một số sắc phong, đầu tiên vào
niên hiệu Cảnh Hưng (22).
Một đạo sắc phong thời Nguyễn ghi: "Sắc Nam Định tỉnh,
Vụ Bản huyện, Hổ Sơn xã, phụng sự Trần triều Huyền
Trân công chúa chi thần, Trần triều Thuỵ Bảo công chúa chi
thần, hộ quốc, tý dân."
Thuỵ
Bảo là con của Thái Tông - vua đầu tiên của nhà Trần -
và là chị ruột của công chúa An Tư (23).
Trải hai đời chồng - trước là Uy Văn Vương Trần Toại,
sau là Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng - đều mất sớm,
Thuỵ Bảo đành xuất gia, dựng chùa phía tây núi Hổ. Gọi
Thuỵ Bảo bằng bà cô, Huyền Trân trụ trì chùa phía đông
núi Hổ từ cuối năm Tân Hợi (1311) (24).
Tương
truyền nhị vị sư nữ này cùng an tịch tại đây một ngày,
được nhân dân địa phương kính cẩn thờ chung. Nhưng ngày
nào? Mùng 9 tháng giêng hay tháng tư năm Canh Thìn (1340)? Xưa
nay, chùa Nộn Sơn mở hội mùng 9 tháng tư âm lịch thường
niên nhằm tưởng nhớ ngày mất công chúa Huyền Trân. Còn
đền thờ công chúa Huyền Trân ở phường An Tây, thành phố
Huế, tổ chức lễ hội Huyền Trân kỷ niệm ngày nàng ly
trần vào mùng 9 tháng giêng âm lịch. ♥
Tượng gỗ
nhị vị công chúa triều Trần là Thuỵ Bảo & Huyền Trân
được thờ
trong chùa Nộn Sơn ở Vụ Bản, Nam Định.
Ảnh: Phanxipăng
____________
(1)
Nay thuộc làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình.
(2)
Một số tài liệu cho rằng năm sinh của Huyền Trân lại là
Đinh Hợi 1287 và Kỷ Sửu 1289.
(3)
Bài này tính theo tuổi ta, còn gọi tuổi mụ.
(4)
Núi Yên Tử còn mang tên Bạch Vân, cao 1.068m, hiện thuộc xã
Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
(5)
Chiêm Thành / Chiêm, còn gọi Chămpa / Champa / Chăm.
(6)
Với vai trò kinh đô của quốc gia Đại Việt qua các thời
Lý, Trần, Lê Mạc, Lê Trung Hưng, từ năm 1010 đến năm 1778,
Thăng Long nay là một phần Hà Nội.
(7)
Trần Khắc Chung gốc họ Đỗ. Trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông lần thứ nhì, Khắc Chung tình nguyện làm sứ giả
khôn khéo thương thuyết với Ô Mã Nhi. Nhờ công đó, Khắc
Chung được vua ban quốc tính.
(8)
Bản in Nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà
thứ XVIII (1697). Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. Tập II.
NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998.
(9)
Hai châu này, người Chăm gọi Uli, từ năm Đinh Mùi 1307 được
triều Trần chuyển thành châu Thuận và châu Hoá.
(10)
Tên khác là Chà Bàn. Thời Tây Sơn, Nguyễn Nhạc gọi thành
Hoàng Đế. Năm Kỷ Mùi 1799, Nguyễn Ánh chiếm, đổi tên là
thành Bình Định. Hiện thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định.
(11)
Champakara 4-6-2007 http://www.champaka.org/cgi-bin/viewitem.pl?72&lichsu
(12)
Đảo Huyền Trân còn gọi đảo Ngọc, hòn Chảo, cù lao Hàn,
rộng 1,6km2, hiện thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
(13)
Bài Một thoáng Tư Hiền của Quốc Lễ đăng báo Phụ
Nữ 20-7-2009 http://www.phunuonline.com.vn/dulich/2009/Pages/Mot-thoang-Tu-Hien.aspx
sau đó được đưa vào Dư địa chí Thừa Thiên - Huế http://www3.thuathienhue.gov.vn/GeographyBook/Default.aspx?sel=3&id=1534
đã ghi nhận: "Cửa Tư Hiền nằm giữa xã Vinh Hiền
và Lộc Bình, nơi thông đầm Cầu Hai với biển Đông. Các
bô lão vùng này kể rằng: cửa biển này trước đây gọi
là cửa Tư Dung, do sự tích công chúa Huyền Trân, con vua Trần
Nhân Tông trước khi xuất giá sang Chiêm Thành đã ghé lên
đây bái vọng tổ tiên. Từ đó, cửa có tên Tư Dung, cái
tên do lòng thương nhớ dung nhan của Huyền Trân công chúa
mà thành. Theo sách xưa, cửa biển này thuộc về đất nước
Chiêm Thành, đời Lý gọi là Ô Long. Đến đời Trần, vua
Nhân Tông (1306) gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế
Mân, đưa công chúa tới đây, nên đổi tên thành Tư Dung (Tư
là nghĩ đến, tưởng nhớ đến, Dung là nét mặt, dung nhan,
ý nghĩa cũng gần như chữ tư dung là vẻ mặt, là dáng dấp
của người đàn bà đẹp). Dùng hai chữ Tư Dung để đặt
tên cho cửa biển này, ý hẳn người Việt lúc bấy giờ một
đàng muốn ghi lại cuộc hôn nhân giữa vua Chiêm và công chúa
Việt, nhưng đàng khác, cũng nhằm tưởng nhớ công ơn khách
má hồng đã hy sinh hạnh phúc riêng tư cho việc mở mang bờ
cõi." Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán
triều Nguyễn (Bản dịch của Phạm Trọng Điềm - Tập I,
NXB Thuận Hoá, Huế, 1992; trang 176) thì năm Tân Sửu 1841, Thiệu
Trị nguyên niên, triều Nguyễn đổi tên Tư Dung thành Tư Hiền.
Trải quá trình lấp, bồi, dịch chuyển thì thực tế hiện
nay tại huyện Phú Lộc có 2 cửa biển: cửa Tư Hiền giữa
2 xã Lộc Bình và Vinh Hiền, cửa Tư Dung ở xã Lộc Bình đang
bị lấp cạn.
(14)
Là dòng thiền Việt Nam, Trúc Lâm Yên Tử hợp nhất 3 thiền
phái Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Diệt Hỉ / Tì Ni Đa Lưu
Chi / Vinitaruci. Trần Nhân Tông - tổ thứ nhất của dòng thiền
Trúc Lâm Yên Tử - có đạo hiệu Điều Ngự Giác Hoàng, được
tôn vinh Phật Hoàng.
(15)
Núi Trâu / Trâu sơn cũng được gọi núi Vũ Ninh / Võ Ninh,
trước thuộc huyện Quế Dương, trấn Kinh Bắc, nay thuộc
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(16)
Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người được thành lập
tại Hà Nội ngày 19-6-1996, gồm 3 bộ môn: Năng lượng sinh
học, Thông tin dự báo, Cận tâm lý.
(17)
Sau Cách mạng tháng 8-1945, hai xã Phương Du và Yên Khang hợp
thành một xã Khang Du. Năm 1946, sau tổng tuyển cử bầu Quốc
hội khoá đầu tiên, xã Khang Du đổi tên nên xã Khánh Hoà.
(18)
Tên huyện Yên Khánh xuất hiện từ năm Quý Hợi 1803, niên
hiệu Gia Long thứ nhì. Ngày 27-4-1977, Hội đồng Chính phủ
ra quyết định 125/CP. Theo đó, lấy sông Khang Thượng làm
mốc thì cắt 9 xã phía nam sáp nhập vào huyện Kim Sơn, cắt
9 xã phía bắc sông Khang Thượng (có xã Khánh Hoà) sáp nhập
với huyện Yên Mô và thị trấn Tam Điệp nhằm thành lập
huyện Tam Điệp. Ngày 7-4-1994, Chính phủ ban hành quyết định
số 49-NĐ/CP tái lập huyện Yên Khánh.
(19)
Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. Tập III.
NXB Thuận Hoá, Huế, 1992.
(20)
Bia ký đền công chúa Huyền Trân ở Huế http://denhuyentran.com/?cat_id=27&topic_id=46
ghi "chùa Nộn Sơn, tên chữ Quảng Nghiêm tự" là thiếu chính
xác. Thật ra, ngôi già lam này có tên chữ 虎山寺 / Hổ Sơn
tự.
(21)
Đời Lý, huyện Thiên Bản nằm trong phủ Ứng Phong. Đời
Trần, huyện Thiên Bản thuộc phủ Kiến Hưng. Năm Đinh Hợi
1407, nhà Minh đổi làm huyện Yên Bản thuộc phủ Kiến Bình.
Năm Ất Mùi 1415, giặc Minh đổi huyện Độc Lập thành Bình
Lập cho sáp nhập vào huyện Yên Bản. Đến đời Lê Thánh
Tông lại phục hồi tên huyện Thiên Bản, thuộc phủ Nghĩa
Hưng. Đến thời Nguyễn, niên hiệu Tự Đức thứ XIV nhằm
năm Tân Dậu 1861, đổi tên thành huyện Vụ Bản.
(22)
Cảnh Hưng là niên hiệu của Lê Hiển Tông, vị hoàng đế
áp chót của nhà Hậu Lê, từ năm 1740 đến năm 1786.
(23)
Năm Ất Dậu 1285, quân Nguyên Mông tấn công nước ta lần
thứ nhì, vây hãm Thăng Long. Để tạm cầu hoà, Thái thượng
hoàng Trần Thánh Tông sai người dâng em gái út của mình là
công chúa An Tư cho tướng giặc Thoát Hoan.
(24)
Trong sách Am mây ngủ (NXB Lá Bối, Paris, 1982; NXB Thuận
Hoá, Huế, 2007), Nhất Hạnh viết về Trần Huyền Trân / Thích
Nữ Hương Tràng: "Công chúa xuất gia và thọ Bồ Tát giới
vào ngày Tết Nguyên đán năm Kỷ Dậu (...). Tháng 10 năm Kỷ
Dậu, bà được quốc sư uỷ về trú trì chùa Hổ Sơn ở
huyện Thiên Bản." Thiết nghĩ chưa đầy năm, nàng làm sao
thụ giáo kinh, luật, luận đạt mức độ cần thiết? Ngay
cả 3 năm (1309 - 1311) cũng quá ngắn, song Hương Tràng là trường
hợp ngoại lệ nên được rời bổn sư đến chùa Hổ Sơn
để hoằng dương đạo pháp.
Đã
đăng:
Thế
Giới Mới 935 (23-5-2011) & 936 (20-5-2011)
Kiến
Thức Ngày Nay 774 (10-2-2012)
Lầu
Công Chúa còn gọi Tĩnh Bắc lâu / Hậu lâu / Hậu điện /
Hậu cung toạ lạc trong quần thể kiến trúc cung điện Hoàng
thành Thăng Long.
Ảnh:
Phanxipăng
Tháp
Cánh Tiên nhìn từ di tích thành Đồ Bàn ở An Nhơn, Bình Định.
Ảnh:
Phanxipăng
Phanxipăng
thăm đảo Huyền Trân / đảo Ngọc / hòn Chảo.
Ảnh:
Phan Văn Trinh
Từ
núi Thuý Vân / Tuý Vân,
ngắm
đầm Cầu Hai ở Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế.
Ảnh:
Phanxipăng
Phanxipăng
viếng tháp Tổ trên núi Yên Tử ở Uông Bí, Quảng Ninh.
Ảnh:
Lê Hồng Sinh
Phanxipăng
bên bài vị "Huyền Tư công chúa Trần..." tại chùa Dầu ở
Yên Khánh, Ninh Bình.
Ảnh:
Trần Quốc Đỉnh
Tượng
gỗ nhị vị công chúa triều Trần là Thuỵ Bảo & Huyền
Trân được thờ trong chùa Nộn Sơn ở Vụ Bản, Nam Định.
Ảnh:
Phanxipăng
Tượng
đá Thích Nữ Hương Tràng được dựng tại đền thờ công
chúa Huyền Trân ở núi Ngũ Phong, phường An Tây, TP Huế.
Ảnh:
Phanxipăng
Kỵ
giỗ ni sư Thích Nữ Hương Tràng tức công chúa Trần Huyền
Trân tại đền Huyền Trân ở Huế mùng 9 Tết Đinh Dậu nhằm
chủ nhật 5-2-2017.
Ảnh:
Phanxipăng