Năm
1924 một người dân làng Đông Sơn, ngôi làng quê phía trên
cầu Hàm Rồng, cách tỉnh lỵ Thanh Hóa vài cây số, đi câu
cá, tình cờ nhặt được vài món cổ vật thời tiền sử.
Từ đó người ta phát hiện và khai quật một nền văn hóa
khảo cổ tại ngôi làng này, và tên Đông Sơn nhanh chóng trở
thành một địa danh lừng lẫy trong giới sử học không những
ở Việt Nam mà cả quốc tế. Mười năm sau, năm 1934, nhà
khảo cổ học người Áo Heine Geldern R, đề xướng gọi nền
văn hóa khảo cổ phát hiện ở Đông Sơn là "Văn hóa Đông
Sơn." Chủ nhân của nền văn hóa đó đã sống cách đây trên
3000 năm. Tuy nhận thấy tính bản địa rõ rệt của nền văn
hóa này, nhưng hầu hết các học giả thời đó đều không
tin đó là một nền văn hóa của người Việt cổ, và cho
nó là một nền văn hóa ngoại lai, của Tàu hoặc thậm chí
của... châu Âu!.
Dù sao, sự phát
hiện nền văn hóa khảo cổ rực rõ Đông Sơn với các kết
quả công bố của các học giả Trường Viễn Đông Bác Cổ
(L ' École française d'Extrême-Orient) tại Hà Nội, đã
lôi cuốn nhiều nhà bác học Việt Nam và thế giới lao vào
nghiên cứu và phát hiện nhiều nền văn hóa khảo cổ khác
trên đất nước Việt Nam và các quốc gia lân cận trong vùng
Đông Nam Á, nhân đó vấn đề tìm hiểu nguồn gốc dân tộc
Việt Nam được đặt ra.
Cho đến thế
kỷ XX, vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam cùng với mức
độ văn minh và những sinh hoạt cổ thời của dân tộc nhất
là trong thời chưa có sử thành văn, vẫn còn là một khoảng
trổng tri thức được tạm lấp bằng những truyền thuyết
mơ hồ từ cổ sử Tàu.
Sau 40 năm với
nỗ lực nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước,
nhiều nền văn hóa khảo cổ khác trên khắp nước, nhất
là ở miền Bắc, được khám phá, khai quật, nghiên cứu,
và với nhiều tiến bộ cả trong ngành khảo cổ và nghiên
cứu cổ sử thành văn (nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc gọi
chung là Khảo Tiền sử), sự hiểu biết đã tạm đủ cho
một cuốn sách thành hình. Và cuốn "Việt Nam Thời Khai
Sinh" của sử gia Nguyễn Phương, giáo sư tại Viện Đạị
học Huế, xuất bản năm 1965, dường như là tác phẩm đầu
tiên bước đầu tổng kết các kết quả nghiên cứu "khảo
tiền sử" cả trong Nam và ngoài Bắc. Cho đến đó, dường
như chưa có một tác phẩm lịch sử Việt Nam nào về thời
kỳ cổ sử này, dưới dạng sách hoàn chỉnh, chứa đựng
các kết quả nghiên cứu "thực địa" về khảo cổ học (phần
lớn cho tới đó là do các nhà bác học nước ngoài, và Trường
Viễn Đông Bác Cổ thực hiện). Cuốn sách của Giáo sư Nguyễn
Phương gồm hai phần; phần đầu dành nghiên cứu các kết
quả khảo cổ học, phần thứ hai là khảo sát lại các cổ
thư Trung quốc, nguồn tư liệu thành văn chính và quan trọng
về cổ sử của Việt Nam. Cuốn sách của Giáo sư Nguyễn
Phương dựa trên các kết quả khảo cổ học cho tới lúc
đó, và soi xét lại nguồn cổ thư Trung quốc, đã đề xuất
một số quan điểm và phát kiến mới về chủng tộc và ngôn
ngữ học đã làm bối rối không ít người có quan tâm đến
lịch sử dân tộc.
Cho tới nay, bộ
sách cổ về Lịch sử Việt Nam được coi là đề cập thời
kỳ lịch sử dài nhất, là bộ Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư tục biên viết bằng chữ Hán, ghi chép từ thời thượng
cổ đến thế kỷ XVII, thời của các soạn giả dưới sự
chủ biên của quan đại thần Phạm Công Trứ. Bộ sách này
chép nối tiếp bộ
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của
sử gia đời Lê là Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ XV. Mà bộ sách
của Ngô Sĩ Liên là căn cứ theo và tổng hợp bộ Đại
Việt Sử Ký của sử gia Lê Văn Hưu đầu đời Trần thế
kỷ XIII, và
Đại Việt Sử Ký Tục biên của Phan Thu
Tiên, sử gia đầu thời Lê sơ thế kỷ XIV, có thêm phần
Ngoại kỷ chép các truyền thuyết dân gian từ các sách Việt
Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam Chích
Quái của Trẩn Thế pháp (/Vũ Quỳnh). Dù vậy phần thượng
cổ của dân tộc trong hai bộ sử sau cũng chỉ giành được
một số trang ít oi ở phần đầu cuốn sử. Và các truyền
thuyết nặng tính hoang đường không có mấy giá trị lịch
sử. Thậm chí, trong cuốn
Việt Nam Sử Lược, sử gia
Trần Trọng Kim chỉ dành cho họ Hồng Bàng, và thời sử chưa
thành văn trải dài qua nhiều ngàn năm trong vỏn vẹn có 5
trang giấy!.
Thế nên, sử
gia Nguyễn Phương dành cả cuốn sách Việt Nam Thời Khai
Sinh chỉ chép về thời thượng cổ và mấy thế kỷ đầu
Công nguyên, là một sự kiện mới trong ngành sử học Việt
Nam thời đó.
Do tình hình đất
nước chiến tranh, kết quả nghiên cứu từ các nhà sử học
hai miền tuy được công bố nhiều (phần nhiều hơn có lẽ
ở miền Bắc) nhưng từ đó không / chưa có tác phẩm nào
khác được xuất bản tổng hợp tư liệu về thời kỳ mở
đầu lịch sử dân tộc. Cho đến năm 1983, gần 20 năm sau
cuốn sách Việt Nam Thời Khai Sinh của Giáo sư Nguyễn
Phương, mới thấy xuất hiện thêm một tác phẩm lịch sử
Việt Nam khác, với qui mô phạm vi khảo sát trùng với phạm
vi của Giáo sư Nguyễn Phương. Và lần này một tác phẩm
sử học về Việt Nam nhưng không phải của một học giả
Việt Nam mà của một học giả ngoại quốc, một giáo sư
sử học người Mỹ. Đó là cuốn sách The Birth of Vietnam
của Giáo sư tiến sĩ Keith Weller Taylor.
The Birth of
Vietnam khảo sát quá trình dựng nước của dân tộc Việt
Nam; tác giả giới hạn thời gian đối tượng nghiên cứu
từ thời tiền sử tới khi nước Việt Nam giành được độc
lập từ đế quốc Trung Hoa đời nhà Đường, vào thế kỷ
X.
60 năm sau ngày
phát hiện nền văn hóa khảo cổ Đông Sơn, hàng trăm di chỉ
văn hóa khảo cổ khác trên khắp đất nước cũng đã được
khảo sát; người ta sắp xếp, đối chiếu các kết quả nghiên
cứu chúng để có một khái niệm rõ về trình tự phát triển
liên tục theo thời gian của nền văn minh văn hóa Việt Nam
từ thời kỳ Đồ Đá cũ với các di chỉ sơ kỳ ở Núi Đọ,
Thanh Hóa..., đến thời Đồ Đá giữa nổi tiếng với Văn
hóa Hòa Bình có dấu vết phát sinh nông nghiệp nguyên thủy;
thời kỳ Đồ Đá mới với các nền văn hóa Bắc Sơn, Quỳnh
Văn... đến thời kỳ văn hóa Đồ Đồng rực rỡ với các
giai đoạn văn hóa khảo cổ nổi tiếng có tính cột mốc
tiến hóa như các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò
Mun,... Và cuối cùng là thời kỳ Đồ Sắt với tên tuổi
các nền văn hóa Đông Sơn, Đường Cồ, Đào Thịnh... Đó
là các dấu mốc của quá trình phát triển của lịch sử
dân tộc Việt Nam. Điều này khiến tác giả, Giáo sư K. W.
Taylor không cần phải đặt riêng phần khảo cổ học cho cuốn
sách của mình (như Giáo sư Nguyễn Phương đã làm trong
Việt
Nam Thời Khai Sinh). Ông chia cuốn sách làm 7 chương và khảo
sát từng lãnh vực trong mỗi chương. Đó là các Chương:
1. Các
hào trưởng Lạc (Lạc Lords)
2. Kỷ nguyên
Hán Việt.
3. Chủ nghĩa
cát cứ và thời Lục Triều (ở Trung quốc)
4. Sự cai trị
của các thế lực địa phương ở Việt Nam trong thế kỷ
VI
5. Thời kỳ
(nhà Đường đặt) An Nam Đô hộ phủ.
6. Sự đương
đầu giữa đế quốc Đường và nhân dân / dân tộc Việt
Nam.
7. Nền Độc
lập giành lại được.
Và phần Phụ Lục
để giải thích một số khái niệm và nguồn gốc hay nền
tảng của một số sự kiện lịch sử đề cập trong cuốn
sách.
Cũng như tác
phẩm Việt Nam Thời Khai Sinh của Giáo sư Nguyễn Phương,
cuốn sách The Birth of Vietnam ra đời đã nhận được
sự chú ý của nhiều người đọc quan tâm đến lịch sử.
Ở Việt Nam cuốn sách được tặng giải thưởng của Quỹ
Phan Châu Trinh của giới học giả nghiên cứu ở Đà Nẳng
cùng với nhiều lời tán thưởng nồng nhiệt từ độc giả
trong và ngoài nước. Tuy nhiên cuốn sách không tránh khỏi
vài thiếu sót nhỏ. Sự phàn nàn đầu tiên người đọc dành
cho cuốn sách The Birth of Vietnam của giáo sư Keith Weller
Taylor, là nhằm vào nguồn sách tham khảo. Một học giả nhận
thấy nguồn tham khảo của tác giả là ít quá, trong khi chính
bản thân vị học giả đó có hơn trăm bộ sách về đề
tài này trong thư viện gia đình của mình. (Ôi, tiếc biết
bao số bảo vật bị cất giữ trong kho!)
Do thiếu sự
phong phú về tư liệu tham khảo, theo vị học giả này nhận
xét, tác giả không có nhiều chi tiết cho các sự kiện đề
cập trong sách được chính xác hơn. Và cũng do sự tham khảo
thiếu sót này, tác giả có một lý giải buồn cười về
ý nghĩa của từ Giao Chỉ: "Giao chỉ có nghĩa lã
"bàn chân giao nhau" và có ý nói đến tập quán người ngủ
thành từng nhóm quay đầu ra ngoài, các bàn chân chụm lại
ở giữa!" [1]
Không chỉ vị
học giả này mà có lẽ bất cứ ai có hiểu biết căn bản
về lịch sử Việt Nam cũng nhận thấy lý giải của tác giả
về từ Giao Chỉ là kỳ quặc, và vô căn cứ.
Có chỗ tác giả
có ghi nhận không trùng hợp với tư liệu lịch sử về thời
điểm diễn ra trận đánh trên sông Bạch Đằng.
Tư liệu tham
khảo bị cho là thiếu, nhưng tác giả có vẻ có thừa một
số tư liệu chưa được kiểm tra; chẳng hạn ông dẫn lời
của học giả người Nhật Gotō Kimpei, trong sách "Betonamu
Kyuugoku Kōsō Shi" (Nghiên cứu cổ sử Việt Nam) cho rằng
từ Lạc là một âm khác của từ Lạch hay Rạch,
tức các kênh mương nhỏ dẫn nước (vào ruộng); và ở một
chỗ khác ông cho rằng "có nhiều tuồng tích dân gian chung
quanh các hành động vĩ đại và những công trạng mang tính
siêu nhân của Mã Viện được trình diễn ở Việt Nam" để
tưởng nhớ y! Mã Viện là tên Phục Ba Tướng quân nhà Hán
đã đánh dẹp cuộc kháng chiến của hai chị em Bà Trưng.
Tuy vậy, cuốn
sách The Birth of Vietnam của Giáo sư K. W. Taylor có nội
dung tích cực hơn so với cuốn Việt Nam Thời Khai Sinh
của Giáo sư Nguyễn Phương trước đây. Điều này không lạ,
vì người đi sau trong nghiên cứu thường có dịp... "đứng
trên vai người đi trước" nên có được tầm mắt xa và rộng
hơn.
Chương đầu
tiên của cuốn sách nói về các "hào trưởng Lạc." Đây là
một phát hiện thú vị. Thực ra, sự phát hiện này là...
không phát hiện gì cả. Tác giả là một người Tây phương
nhìn vào cổ sử Việt Nam với con mắt mới mẻ, không mang
định kiến trước, nên không nhìn thấy một ông Lạc hầu
hay Lạc tướng nào trong "triều đình các vua Hùng" trong
thời đại Hùng Vương như các sử sách của ta thường đề
cập.
Các sách lịch
sử truyền thống của ta khi nói về thời đại Hùng Vương
thường viết các vua Hùng "đặt tướng văn gọi là Lạc
Hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng" (Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư,
Việt Nam Sử Lược, và vân vân).
Đó là do các sử gia của ta tham khảo sử liệu Trung quốc
và viết theo quan niệm tổ chức triều đình của họ.
Thật ra thời
các "Vua" Hùng không hề có một hình thức triều đình với
bá quan văn võ và các tổ chức ban bệ như triều đình Trung
quốc – mà ta thường thấy trong truyện và phim Tàu. Thế
nên, những người được sử gọi là Lạc hầu, Lạc
tướng, là không hề có; hoặc họ không phải là quan tước
chính quy của triều đình, mà chỉ là các tù trưởng bộ
lạc, hay những người được gọi là "hào trưởng",
thường là địa chủ, giàu có, có nhiều thế lực và uy tín
ở địa phương, cai quản một số dân cư trong khu vực chịu
ảnh hưởng của họ. Gọi họ là các "Chúa Lạc" (Lạc
lords) như cách gọi của tác giả có vẻ cường điệu quá
đáng. Họ chỉ là các "hào trưởng" thôi. Lê Lợi ở thế
kỷ XV cũng được sử coi là một hào trưởng như thế. Tác
giả biết nghĩa của từ Lạc hầu, và từng dịch chữ
Lạc
hầu thành "Lạc Marquis", nhưng trong suốt cuốn sách,
khi nói đến họ, thay vì gọi họ là Lạc Marquis, tác
giả chỉ gọi họ là Lạc lords - "Những hào trưởng
Lạc." Họ, các "hào trưởng" ấy, và các "vua Hùng" không
có quan hệ vua tôi, mà sống nương tựa vào nhau. Tác giả
viết: Dường như các vua Hùng bảo vệ các hào trưởng
Lạc chống lại sự tấn công và xâm lấn từ các vùng núi,
trong khi các vị hào trưởng Lạc hỗ trợ các vua Hùng bằng
sức ngưởi và của cải của họ" [2].
Các hào trưởng Lạc này có thể gây áp lực với các "vua"
Hùng trong một số vấn đề nhất định.
Vì những người
được sử cũ gọi là Lạc hầu, Lạc tướng chỉ là
những "hào trưởng" dân sự, chớ không phải quan tước triều
đình, cho nên khi Thục Phán "đánh chiếm" nước Văn Lang, ông
ta không phải giao chiến với các Lạc hầu Lạc tướng
nào. Trong nước Nam Việt của Triệu Đà, các hào trưởng
Lạc vẫn tồn tại bên ngoài triều đình. Lộ Bác Đức đánh
chiếm Nam Việt, y cũng không hề bắt bớ giết chóc một Lạc
hầu, Lạc tướng nào cả, mà để yên cho các hào trưởng
Lạc quản lý dân chúng trong khu vực của họ như cũ. Về
các hoạt động của Lộ Bác Đức ở Nam Việt, tác giả viết:
"Tuy vậy, những biến cố này không làm xáo trộn cuộc
sống của người dân, và vị thế của các hào trưởng Lạc
vẫn không thay đổi." [3]
Vì các hào trưởng
Lạc không phải là Lạc hầu Lạc tướng gì của triều đình
nên không phải là đối tượng đánh giết của quân Hán.
Tác giả viết: "trong thời gian này phần lớn các hào trưởng
Lạc vẫn còn giữ vững đất đai và kiểm soát được dân
chúng của họ." [4]
Khi Mã Viện đánh
hai Bà Trưng, sử chép y giết hàng vạn người nhưng không
có một dòng nào nói y giết một Lạc hầu hay Lạc
tướng, vì giai cấp này không hề tồn tại, chỉ có các
hào trưởng dân sự mà cho đến khi nhà Hán đồng hóa họ
vào ngạch quan lại và cấp cho họ "ấn đồng tua thau" thì
họ mới trở thành người của chánh quyền cai trị chính
nhân dân mình. Và "các hào trưởng Lạc phải đối diện
với sự chọn lựa hoặc trở thành quan lại cấp dưới trong
chánh quyền Hán hoặc phải làm lính ra chiến trường." [5]
Đó là chuyện
"Lạc hầu".
Trong suốt cuốn
sách, dường như tác giả không một lần nào đề cập đến
các "Lạc tướng." Lý do là người Việt cổ thời Hùng
vương không duy trì quân đội chính quy nên không hề có ông
tướng nào để gọi là
Lạc tướng cả! Khi cần chiến
đấu chống kẻ địch nào đó, người dân tự biến thành
chiến sĩ dưới quyền chỉ huy của...các mẹ, các chị! "Trong
xã hội Lạc người phụ nữ có vị thế tương đối cao.
Như chúng ta sẽ thấy, khi các hào trưởng Lạc nổi lên chống
lại ảnh hưởng ngày càng nặng nề của Trung quốc, các cuộc
nổi dậy của họ đều do phụ nữ lãnh đạo." [6]
Vậy, chấm dứt
huyền thoại lâu đời về chuyện Lạc hầu, Lạc tướng.
Trận đánh của
Ngô Quyền trên sông Bạch Đảng diễn ra vào mùa đông năm
938 nhưng tác giả sách The Birth of Việt Nam ghi nhầm vào
mùa thu. Dù vậy, ông hiểu rõ ý nghĩa của sự việc này.
"Trận đánh trên sông Bạch Đằng và sự nổi lên của
Ngô Quyền là một sự kiện cực kỳ lớn lao gây rúng động
cả dân tộc. Từ đây họ có thể tưởng tượng được một
vị vua Việt Nam của mình;" [7]
tác giả đã ghi một nhận định bình thường nhưng từ đó
chúng ta có thể hiểu ra một điều quan trọng mà cho đến
nay dường như chưa một sử gia nào gợi ý: "Ngô Quyền
đặt việc xưng vương của mình vào truyền thống vương quyền
của đất nước." [8]
Và "Ngô Quyền
củng cố việc xưng vương của mình với sự tôn trọng phù
hợp với quan niệm của người dân bản địa về quyền lực
chính trị."[9]
Tiến sĩ K. W.
Taylor nói đến "truyền thống vương quyền" và "phù hợp với
quan niệm của người dân bản địa về quyền lực chính
trị," nhưng có lẽ chính ông cũng chưa nhận ra nội hàm rất
đặc biệt trong từ Vương của "truyền thống vương
quyền" của người Việt Nam.
Vương là
một từ thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), hay nói cách khác,
nó là từ "thuần Việt" được người Tàu viết với dạng
biểu ý nên nó có vỏ chữ Tàu, chớ nó không phải là "tiếng
Hán".
Chữ "Vương"
gồm ba vạch ngang song song (三)hội
ý tượng trưng tam tài Thiên – Địa – Nhân, và một vạch
dọc ở giữa nối liền ba gạch ngang ( 王 ).
Vậy Vương ngụ ý là người "nối thông tam tài," hoặc
đấng liên kết con người với trời đất. Trong ngữ nghĩa
đó, Vương là một hiền giả, một nhà minh triết của
nền văn minh nông nghiệp, hiểu rõ lẽ nhân sinh và thiên văn
địa lý, chớ không phải người cai trị chính trị (vua).
Có lẽ trong mỗi cộng đồng dân cư người Việt nguyên thủy
với nền văn minh nông nghiệp sơ khai đều có một nhà lãnh
đạo tinh thần là Vương mà quyền lực chính là uy tín
cá nhân người đó.
Với vai trò "nối
thông tam tài" hoặc "liên kết con người với trời đất"
có lẽ vương gần với một pháp sư hơn. Hoặc vương
là pháp sư của một cộng đồng. Sách (Đại) Việt Sử
Lược viết: "Vào thời Chu Trang Vương (696 – 682 trước
CN) ở Gia Ninh có một dị nhân dùng pháp thuật thu phục tất
cả các bộ lạc. Ông tự xưng là Hùng Vương." "Dị
nhân dùng pháp thuật" chính là cách biểu thị một pháp
sư. Cả nước có thể có nhiều "vương" (pháp sư) trong
từng cộng đồng dân cư nhỏ, nhưng thỉnh thoảng xuất hiện
một người có pháp thuật cao cường hoặc sự minh triết
vĩ đại, uy tín bao trùm cả nước, như một bậc thánh nhân;
người đó được tôn là Hùng Vương, nếu không phải
tự xưng như sách (Đại) Việt Sử Lược nói. Vậy,
HÙNG
VƯƠNG
CHỈ CÓ NGHĨA NÔM NA LÀ VỊ ĐẠI PHÁP SƯ hoặc
vị
PHÁP SƯ TRƯỞNG của quốc gia, với tất cả sự
thiêng liêng và tôn nghiêm, có thể có cả sự huyền bí nữa,
dành cho chức vị này, như thấy trong chế độ thần quyền
của một số dân tộc thời sơ khai, và cả trong giới tăng
lữ ở châu Âu tồn tại mãi đến thời Trung cổ. Điều này
phù hợp với phát hiện mới về ngôn ngữ học: "từ Hùng
có nguồn gốc từ một danh hiệu của người thủ lĩnh đến
nay vẫn còn tồn tại trong ngôn ngữ của các dân tộc nói
tiếng Môn-Khmer sống tại các vùng núi ở Đông Nam Á,cũng
như trong tiếng Mường, thứ ngôn ngữ miền trung du gần gũi
chị em với tiếng Việt." [10]
Vậy, nghĩa nguyên
thủy của Vương không phải là "Vua". Hùng Vương không
có nghĩa và không phải là "vua" Hùng, không có tính thừa kế
liên tục. Ở đâu đó nhà ngôn ngữ học Trung quốc Vương
Lực cho Vua là âm cổ của Vương là điều đáng
ngờ. Hai từ đó phải chỉ hai thực thể khác nhau. Trong nền
văn minh nông nghiệp hiền hòa với sự lãnh đạo của các
vị vương đó, ông vua chưa có mặt.
Vương thì
có nhiều trong các cộng đồng địa phương, nhưng Hùng
Vương thì rất hiếm. Có thể hàng trăm năm mới xuất
hiện một người. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong suốt
thời gian 2622 năm chỉ có 18 vị Hùng Vương (mà trong Việt
Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim tính bổ đồng mỗi
vị trị vì đến gần 150 năm!)
Sách Hán Tự
Tố Nguyên ( 汉字溯源)của
Lý Lạc Nghị nói dạng kim văn của chữ Vương là tượng
hình lưỡi rìu, (
) với ý nghĩa người cầm lưỡi rìu là người nắm giữ
quyền lực, tức là vua. Kim văn là chữ tượng hình khắc
trên đồ đồng từ đời nhà Thương được phát hiện tại
các di chỉ ở Ân Khư, kinh đô nhà Thương, thuộc tỉnh Hà
Nam, Trung quốc. [11]
Người ta biết lưỡi rìu là vũ khí đặc trưng của người
Việt cổ. (Vũ khí đặc trưng của người Tàu là kiếm). Nhìn
hình dạng lưỡi rìu người ta nghĩ ngay đến một ông vua
người Việt (chớ không phải một ông vua nào khác.) Thế
nhưng hình cái lưỡi rìu không chứa trong nó nội hàm lớn
lao là Vương đạo mà người Trung quốc cổ rất ngưỡng
mộ nhưng không theo, và Khổng tử dành cả đời để thuyết
giảng nhưng không vua chúa nào chịu nghe vì Vương đạo
là truyền thống của người Việt. Hơn nữa, dạng giáp cốt
văn của chữ Vương () là hình một người (pháp sư) dang tay
cầu khẩn (với trời đất.)
Người Trung quốc
biết rõ Vương là một tôn hiệu mang một khái niệm
ngoại lai chớ không phải từ bản ngữ với nội dung của
tinh thần dân tộc họ. Trong toàn bộ lịch sử Trung quốc,
chỉ có các vua nhà Chu (từ thiên niên kỷ I đến thiên niên
kỷ II trước Công nguyên) xưng Vương. [12]
Lý do là trước đó các bộ lạc du mục từ miền Tây Bắc
nước Tàu cổ tràn xuống phương Nam, sống chung với đại
chủng người Việt (mà người Tàu gọi là Yüeh) nói
tiếng Nam Á, phía dưới sông Hoàng Hà, và bị tiêm nhiễm
văn hóa Việt, nên các vua của họ mới xưng Vương theo người
Việt. Nhưng như đã biết, trong văn hóa của người Việt,
Vương
là một hiền giả, một người minh triết, một đấng thánh
nhân, có thể cũng nắm giữ vị trí lãnh đạo xã hội, chủ
yếu bằng đức độ và sự minh triết, chớ không phải bằng
quyền lực và vũ lực. Thiên Hồng Phạm trong Kinh Thư viết:
"Thiên tử tác dân phụ mẫu, dĩ vi thiên hạ vương" 天子作民父母,
以為天下王
(Bậc
thiên tử là cha mẹ của dân, làm vương thiên hạ.)
Tức nói về đức độ lãnh đạo của bậc vương, là Vương
đạo, chớ không phải quyền lực cai trị. Cha mẹ thương
yêu nuôi nấng dạy bảo con cái chớ không dùng quyền lực
cai trị con cái bao giờ. Kinh Thư là một trong những tác phẩm
kinh điển được viết vào thời nhà Chu tức thời người
Trung quốc chịu ảnh hưởng văn hóa Việt này. [13]
Danh hiệu Bố
Cái Đại Vương mà Phùng An tôn xưng người cha vĩ đại
đã qua đời của mình là trong ý nghĩa đó.
Bố Cái Đại
Vương = Đấng
Cha Lành Vĩ Đại.
Chớ không phải
"Vua cha mẹ vĩ đại." Đại Vương không phải và không
có nghĩa là "ông vua lớn." Và Phùng Hưng không bao giờ là
ông "vua lớn" hay ông vua vĩ đại cả.
Nhân đây, trong
một ghi chú trong sách (số 96, dưới trang 204) tác giả viết:
(trích): "Ý kiến của Haudricourt cho rằng "Bố Cái" phải
được dịch là "vua cái", "vua vĩ đại" (John DeFrancis,
"Colonialism and language Policy in Vietnam," (Chủ nghĩa thực
dân và chính sách về ngôn ngữ ở Việt Nam, trang 22) là có
lý và hấp dẫn, nhưng như thế là bỏ qua sự kiện trong văn
bản của
Việt Điện U Linh Tập giảỉ thích một cách
rõ ràng rằng: ‘Vì, theo cách nói của người địa phương,
người ta gọi cha là bố, và gọi mẹ là cái"
(Việt Điện U Linh Tập, 6) (hết trích).
André-Georges Haudricourt
là nhà nhân chủng học và ngôn ngữ học người Pháp của
Trường Viễn Đông Bác Cổ. Ông hiểu rõ từ "Cái"
(Nhưng "Bố" là Cha chớ không phải là Vua.) Cái
là một từ cổ trong tiếng Việt có nghĩa "chính," "to lớn,"
"quan trọng," "đứng đầu"... Ví dụ Sông cái, đường
cái, ngón tay cái, thợ cái (Thợ cái là người
đứng đầu trong nhóm thợ) [14]
v.v... Cái không bao giờ có nghĩa là Mẹ như được hiểu
lầm. Trước kia tại một số địa phương ở miền Bắc và
miền Trung, có người gọi mẹ là
u, vú, hoặc
vì một số lý do đặc biệt nào đó, có người có thể gọi
mẹ là dì hay chị, nhưng không nơi nào có người
gọi mẹ là là "Cái" bao giờ.
Trong câu tục
ngữ "Con dại cái mang", từ "Cái" không hề có nghĩa
là mẹ. Cái là người lớn nhất, có vai trò quan trọng
nhất trong gia đình. (Chỉ trong chế độ mẫu hệ, vai trò
"cái" đó mới do người mẹ nắm giữ)
Dân tộc Việt
Nam thuộc văn minh nông nghiệp; người Tàu nguyên thủy thuộc
nền văn minh du mục. Từ nhiều ngàn năm trước người Tàu
đã biết rõ sự khác biệt đó. Họ "vẽ" từ nước (quốc
gia) của hai chủng dân bằng hai mặt chữ khác nhau. Chữ Quốc
để chỉ quốc gia của những người Việt có vương đạo
được vẽ một hình vuông bao bọc một chữ vương ở
trong ( 囯
): đất nước của
văn minh nông nghiệp với vương đạo của các nhà hiền triết.
Đó là chữ quốc "đơn" chỉ dùng để chỉ quốc gia của
người Việt thôi, chớ bản thân người Tàu không bao giờ
dùng; mà họ cũng không dùng nó để chỉ một quốc gia nào
khác. Nếu coi chữ
Vương là hình lưỡi rìu kim văn thì
chữ Quốc ( 囯
) càng mang nghĩa
xác định nước của người Việt.
Ai học chữ Hán
cũng biết, không kể chữ Quốc "đơn" với chữ Vương
đó, hiện nay trong chữ Hán có hai chữ Quốc nữa, mà một,
chữ quốc xưa, chữ quốc phồn thể, biểu hiện tính cách
du mục của dân tộc Trung quốc.
Thoạt đầu người
Tàu vẽ khái niệm quốc gia của minh bằng hai vạch ngang (二),
ở giữa hai vạch là một cái ô vuông. Hai vạch tượng trưng
trên là trời, dưới là... bãi chăn thả. Dưới trời và trên
bãi chân thả là... người Tàu (cái ô vuông – chữ khẩu
(口) – tượng trưng cho người).
Trong cuộc sống du mục họ thường phải cạnh tranh giành
bãi chăn thả của nhau, nên cần phải có vũ khí để bảo
vệ - và để xâm lăng. Vạch ngang phía trên được vẽ thêm
vài nét thành một món vũ khí – cái qua. (戈)(Can
qua (干戈) là cái qua và
cái khiên, hai món biểu tượng cho chiến tranh). Cụm hình vẽ
đó gọi là chữ "hoặc " hay "hoắc," ( 或
)
hàm nghĩa "có người". Về sau, khi khái niệm quốc gia
phát triển lên một mức cao hơn, họ vẽ thêm chữ "vi",
(囗) một ô vuông to hơn, bao
bọc chung quanh chữ "hoặc" – như biên giới bảo vệ
chỗ "có người." – Đó là chữ Quốc phồn thể (國)
hàm nghĩa đất nước của người du mục, có vũ khí để
xâm lăng và tự vệ.
Năm 1949,
trong khi cải tổ chữ viết họ nói chữ Quốc phồn
thể nhiều nét rắc rối, khó nhớ quá, phải đơn giản thôi.
Tuy vậy, họ vẫn không dùng chữ quốc minh triết của
người Việt đã có sẵn từ nhiều ngàn năm. Họ sửa nó
bằng cách thêm một dấu chấm vào cạnh nét sổ dọc của
chữ Vương, biến chữ Vương (王)
thành chữ ngọc ( 玉 ).
Đó là chữ Quốc thứ ba, (国)
giản thể, hiện nay, ngụ ý: Trung Quốc (中国)
là đất nước của ngọc ngà châu báu (chớ không phải của
Vương đạo - Vương đạo là thứ của dân tộc Việt thuộc
văn minh nông nghiệp.)
Người Tàu biết
rõ như thế, còn người Việt (xưa) có lãnh hội điều đó
không?
Có.
Không những có
biết mà tiền nhân ta đã tỏ ra rất tự hào về điều này.
Có một giai thoại
kể chuyện trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tàu. Trong
một cuộc chiêu đãi các sứ thần ngoại quốc ngay tại triều
đình Trung quốc, vị hoàng đế Trung quốc có ra đề thơ hay
câu đối gì đó và yêu cầu các sứ thần đáp lại. Do ngôn
ngữ bất đồng, các sứ giả phải dùng cách bút đàm. Bài
thơ (hay câu đối) của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi được
chấm giải nhất, với lời nhận xét của vua Tàu: về sau
con cháu sẽ "có nước", nhưng vì trạng nguyên dùng chữ Quốc
"đơn" nên phúc phận con cháu không nhiều.
Không xét chuyện
"phúc phận" của con cháu Mạc Đĩnh Chi ra sao, chỉ cần thấy
một ông trạng nguyên, chắc chắn là người học vấn giỏi
nhất thiên hạ, từng đọc thiên kinh vạn quyển biết rõ
người Tàu không đánh giá cao vương đạo của dân tộc
mình, thế mà giữa triều đình của đại quốc, trước mặt
"thiên tử" ông điềm nhiên viết ra cái hình vẽ rạng rỡ
mang niềm tự hào dân tộc!
"Trong nền văn
minh du mục, người lãnh đạo nắm toàn quyền cai trị và
thống nhất xã hội bằng vũ lực. Chính sự bắt chước theo
văn hóa Việt đã làm phân hóa xã hội của chủng dân du mục.
Tước vị Vương của nhà Chu chỉ cho họ một điều
thích hợp duy nhất là tôn người lãnh đạo lên bậc chí
tôn, thiên tử, con trời. Nhưng vì không có quyền lực và
vũ lực trong tay nên ông con trời đành bất lực nhìn đất
nước phân tán nát bấy. Nhà Chu có tới tám trăm nước chư
hầu. Tức là tám trăm bề tôi của cùng một ông vua đều
mỗi người làm vua một cõi mà thiên tử nhà Chu yếu thế
không có vũ lực trong tay, không làm gì được, kể cả khi
đám bề tôi đó liên tục nhân danh thiên tử để triệt hạ
và thâu tóm lẫn nhau.
"Vì thấy rõ
cái Vương đạo của người Lạc Việt chỉ phù hợp
cho chủng dân với nền văn minh nông nghiệp hiền hòa và minh
triết, không thể áp dụng được cho chủng dân vốn xuất
phát từ nền văn minh du mục, nên mặc cho Khổng Tử mang Vương
đạo đi rao giảng khắp nơi mòn giầy lỏng gối mà chẳng
ai thèm nghe theo.
"Khi Tần vương
Doanh Chính thống nhất thiên hạ, ông ta quyết định xưng
Đế theo truyền thống của người dân du mục trước đó.
Thủy Hoàng Đế: Hoàng Đế đầu tiên." (Thiếu Khanh, "Ai
đã ru ngủ chúng ta?" http://www.art2all.net/tho/tho_tk/aidarunguchungta.html
)
Xưng mình là
Hoàng đế đầu tiên, Tần Thủy Hoàng đế mặc nhiên "xổ
toẹt" tất cả truyền thống đã bị nhiễm văn hóa Việt
trước đó để lập lại một truyền thống hoàn toàn mới
của người Trung quốc.
Sao vậy?
Thì trong truyền
thống cũ, các ông "đế" của chủng dân văn hóa du mục nhiễm
văn hóa Việt và bắt chước người Việt xưng vương;
các ông
đế cũ trước đó được gọi tên theo trật
tự ngữ pháp tiếng Việt, những Đế Thuấn, đế Nghiêu,
đế Minh, đế Lai... không còn "thuần túy" nữa. Từ đó, từ
sau nhà Tần trở đi, nước Tàu dù trải qua những thời kỳ
chia năm xẻ bảy manh mún, (Tam quốc, Lục triều, ngũ đại
hay ngũ quý) các lãnh tụ chiến thắng lên ngôi đều xưng
đế.
Tất cả họ hiểu rõ mình không thuộc nền văn minh vương
đạo nhu hòa của chủng người Lạc Việt.
Vì Hùng vương
(Pháp sư trưởng) không phải là vua, ông ấy không cai trị
cho nên không có triều đình với bá quan văn võ rành mạch
như của Tàu. Cho rằng "Các vua Hùng duy trì uy thế với
một cuộc sống triều đình sung túc, [15]"
là không có cơ sở. Các "vua" Hùng có thể có những gia đình
riêng sung túc, nhưng một triều đình với vua quan cai trị
như triều đình của Tàu thì không hề có. Sử chép ngoài
các con, trai gọi là Quan Lang, gái gọi là Mỵ nương,
và những người giúp việc cho ông ấy được gọi là Bồ
Chính, Hùng vương không có quan viên nào khác. Vì vậy,
các lạc hầu, lạc tướng chỉ là do người Tàu bịa
đặt theo quan niệm truyền thống với triều đình của họ
mà thôi.
Việt Nam Sử
Lược của học giả Trần Trọng Kim theo các cổ thư Tàu,
viết: "Quyền chính trị [của các "vua" Hùng] thì cha truyền
con nối, gọi là phụ đạo" [16]
cũng là nói theo lời của các sử gia Tàu bịa đặt, chớ
thời bấy giờ dân tộc Việt còn ở chế độ mẫu hệ, chưa
chuyển qua phụ hệ, làm gì có chuyện "cha truyền con nối
gọi là phụ đạo"! Những cuộc nổi dậy do phụ nữ lãnh
đạo như ta đã thấy. Mỵ nương đi chơi, gặp cậu thanh niên
nghèo rớt mồng tơi trên bờ sông Chử (Chử Đồng tử), nàng
lấy làm thích, bèn tự ý và chủ động "bắt" làm chồng
mà chẳng thèm hỏi ý cha mẹ hay triều đình nào cả; chẳng
phải đó là một bằng chứng rõ ràng của chế độ mẫu
hệ và tình trạng Hùng Vương không có triều đình đó sao?
Không những đến đầu Công nguyên, cuộc khởi nghĩa của
hai bà Trưng vẫn mang đậm màu sắc và tinh thần mẫu hệ
("Các nguồn tư liệu Trung quốc nói rõ Thi Sách phục tùng
sự lãnh đạo của vợ,") [17]mà
đến cuộc khởi nghĩa của bà Triệu trong thế kỷ II Công
nguyên, tàn tích mẫu hệ vẫn còn. Nếu không phải do tàn
dư của tinh thần mẫu hệ thì liệu hàng vạn người lính
nam giới kia có chịu vâng lệnh một cô gái 23 tuổi không?
Phải, lúc đó "bà" Triệu là một thiếu nữ chưa chồng, 23
tuổi. Khi bà Triệu đem binh giúp anh là Triệu quốc Đạt,
thì sử sách không nhắc đến tên Triệu Quốc Đạt nữa.
Người anh đó đã phục tùng sự chỉ huy của em gái mình.
Chúng ta biết
dân tộc mình thuộc nền văn minh nông nghiệp nhưng thường
quên rằng với nền văn minh có tính cách nhu hòa đó, tổ
tiên người Việt thời tiền sử sống trong chế độ mẫu
hệ. Sau hàng ngàn năm bị Tàu đô hộ, bị chúng "cưỡng bách
cải đạo" một cách khắc nghiệt từ mẫu hệ sang phụ hệ,
như chúng ta thấy tên thái thú Nhâm Diên thực hiện ở Cửu
Chân, từ đó chúng ta quen nhìn lịch sử nước nhà qua lăng
kính phụ hệ của người Tàu. Chúng ta luôn nói chuyện 18
ÔNG Hùng Vương, để đi đến kết luận về tính "cha truyền
con nối gọi là phụ đạo."
Trong chế độ
mẫu hệ, tại sao nhất thiết phải là 18 ÔNG Hùng Vương?
Khi hiểu Hùng Vương là một Đại Pháp sư, hay một Pháp sư
Trưởng của cả nước, tại sao không là các BÀ Hùng Vương
nhỉ?
Vì văn hóa Nho
giáo của Tàu trọng nam khinh nữ, người phụ nữ trong xã
hội Tàu không được phép có mặt ở những nơi thờ phượng
tôn nghiêm hay tham dự các hoạt động xã hội hoặc các nghi
lễ có tính tâm linh. Văn hóa Việt Nam hoàn toàn trái lại.
Tiến sĩ K. W. Taylor nhận thấy tính song phương (bilateral) trong
xã hội cổ Việt. Nghĩa là trong xã hội Việt Nam người phụ
nữ có vị thế cao ngang bằng với nam giới. Cho đến thế
kỷ đầu Công nguyên, "tinh thần mẫu hệ của thời này
còn được xác nhận mạnh mẽ hơn nữa với sự kiện là
mộ và đền thờ của thân mẫu bà Trưng Trắc vẫn còn đó
mà tuyệt không thấy có di tích gì cả của phụ thân bà." [18]cho
thấy vai trò người đàn ông trong xã hội còn ở đâu đâu
và... chưa là cái đinh gì hết! "Hình luật của các triều
đại Việt Nam trong các thế kỷ muộn về sau phản ảnh một
vị thế tương đối cao của người phụ nữ, biểu thị sự
đề kháng ảnh hưởng chế độ phụ quyền từ Trung quốc.
Xã hội Việt Nam thời thượng cổ có thể là không phải
chịu sự kiểm soát của phụ nữ, nhưng rõ ràng là phụ nữ
có các quyền thừa kế cho phép họ đảm nhiệm các vai trò
lãnh đạo chính trị." [19]
Thế thì rất
có thể đã tồn tại các BÀ Hùng Vương!
Sự xuất hiện
của An Dương Vương sau đời Hùng Vương thứ 18 là một điều
bí ẩn mà cho đến nay dường như chưa có một giả thuyết
nào giải thích thỏa đáng. Người ta không biết ông ấy từ
đâu đến. Các thuyết cho rằng ông ta từ xứ Thục bên Tứ
Xuyên qua hay từ Cao Bằng xuống đều không ổn. Nếu ông ta
từ một nơi nào đó ở ngoài Việt Nam đến đánh hạ "vua"
Hùng, chiếm nước Văn Lang, ắt là ông ta phải để lại dấu
vết nào đó để các nhà nghiên cứu nhận thấy. Nhưng "Không
có bằng chứng cho thấy sự nổi dậy của An Dương vương
để lại dấu vết gì trong ngôn ngữ Việt Nam, và rõ ràng
là không có sự thay đổi lớn nào về nhân số." [20]
Tức An Dương Vương không phải từ bên ngoài vào. Ông ta cứ
như trên trời rớt xuống. Lặng lẽ và êm thấm; không gây
ra một sự xáo trộn hay thêm bớt nào, cả trong dân số và
ngôn ngữ. Có thể nào An Dương Vương chính là vị Hùng Vương
thứ 19 không? Ông ta không hề lật đổ vị Hùng Vương 18.
Hùng Vương 18 qua đời bao giờ không ai nhớ. Và một "Pháp
sư" mới xuất hiện tại chỗ. Lần này là nam giới. Ông đổi
quốc hiệu, xây dựng thành Cổ Loa, thành lập quân đội.
Có thể do các hoạt động đó nặng tính cai trị thế tục,
không hợp với truyền thống thiêng liêng của bậc vương,
hoặc giả các Hùng Vương trước đó toàn phụ nữ, bây giờ
An Dương Vương là nam giới cho nên chưa được xã hội tôn
phong danh hiệu Hùng Vương cao quý ấy chăng?
Nếu không phải
vậy, mà cố chứng minh cho được rằng An Dương Vương là
người ngoài ở đâu đó chưa rõ, mang ba vạn quân vào đánh
chiếm nước Văn Lang, rồi sáp nhập Văn Lang vào nước Tây
Âu để lập ra nước Âu Lạc, thì An Dương Vương có khác
gì đối thủ của ông là Triệu Đà? Thế sao về sau các sử
gia đố kỵ bài xích Triệu Đả mà kể An Dương Vương vào
quốc thống Việt Nam?
Dù sao, sau một
ngàn năm nô lệ, Ngô Quyền – và dân tộc Việt Nam – vẫn
nhớ truyền thống của dân tộc mình là Vương đạo.
Ngô Quyền xưng vương là nối lại quốc thống. Tiến
sĩ Keith Weller Taylor có thể chưa hiểu rõ nội dung nhưng đã
nhận ra, và gọi đúng nó là truyền thống vương quyền
của đất nước (a local tradition of kingship), tuy sau
đó các sử gia của ta có lý do để sắp xếp lại, không
đặt Ngô Quyền ở phần
Bản Kỷ của sử ký nữa mà
thay bằng Đinh Bộ Lĩnh (xưng đế).
Do truyền thống
Vương đạo trong đó xã hội chưa có vua, chỉ được đặt
dưới sự lãnh đạo tinh thần của một nhà hiền triết,
nên khi Ngô Quyền xưng vương để nối lại quốc thống,
ông phải đối diện một thực tế khác. Sau một ngàn năm
bị đô hộ, hoàn cảnh đất nước và xã hội đã thay đổi.
Bản thân ông xuất thân là võ tướng, ông chưa hề là một
pháp sư hay nhà minh triết bao giờ. Chính võ công hiển hách
trời long đất lỡ đã đưa ông lên vị trí một ông vua cai
trị. Rất có thể từ Vua đã xuất hiện trong tiếng
Việt vào thời kỳ này, cùng lúc với sự phát sinh vị thế
lãnh đạo chính trị của Ngô Quyền, khi ông không phải là
bậc
Vương truyền thống. Ông là Vua. Vua thì phải có
một triều đình với bá quan văn võ. Cho đến đó, cả dân
tộc Việt Nam chưa hề có kinh nghiệm về vua chúa như vậy.
Thế nên tiến sĩ K. W. Taylor thấy "Triều đình do Ngô Quyền
thiết lập là bắt chước theo các kiểu cách truyền thống
của Tàu, ngay cả quy định về màu sắc phẩm phục cho các
quan." [21]
Tuy Ngô Quyền
có công quyét sạch giặc ngoại xâm, giành lại độc lập
và nối lại quốc thống cho đất nước, nhưng các sử gia
của ta sau Ngô Sĩ Liên đã có lý do để không đặt ông ở
phần Bản kỷ trong sách sử ký nữa, mà thay ông bằng Đinh
Bộ Lĩnh, dù ông này xưng đế chớ không xưng vương,
mở ra một truyền thống mới của Việt Nam.
Vương là
một hiền giả, một nhà minh triết, thậm chí có thể là
một thánh nhân, nối thông tam tài, hiểu thấu các nguyên lý
của trời đất và con người. Một bậc như thế phải có
địa vị cao hơn các vua chúa trần gian. Thế nhưng, người
Trung quốc, vốn biết rõ Vương là khái niệm mang giá
trị tinh thần của riêng người Việt, chớ không phải của
họ, nên họ không dành sự tôn trọng đặc biệt cho nó. Trong
truyền thống của Trung quốc, con trai trưởng của hoàng đế
được phong đông cung thái tử để sau này nối ngôi đế
của cha. Vương trở thành một tước vị, chỉ được
dùng để phong cho các con trai thứ của vua. Thế là từ Vương
bị tước mất ý nghĩa tinh thần thiêng liêng và trở thành
một tước hiệu thế tục. Những ông con trai thứ của hoàng
đế thì minh triết cáí nỗi gì, và làm sao là người có
thể nối thông tam tài Thiên Địa Nhân được!
Mặt khác, Đinh
Bộ Lĩnh với hùng tâm chia đôi thiên hạ với người Trung
quốc, ngang nhiên đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, ngang
nhiên xưng Hoàng đế đầu tiên của truyền thống Việt, ngang
ngửa với Hoàng đế của Tàu, trong tinh thần "mỗi bên làm
đế
hùng cứ một phương," để sau này Lý Thường Kiệt ung dung
cất giọng "Nam quốc sơn hà Nam đế cư!"
Đó là lý do
khiến các sử gia triều đình sau Ngô Sĩ Liên không muốn tiếp
tục truyền thống
vương đạo để chịu thua kém Tàu,
vua mình ngang hàng con cái của vua Tàu, nên đã dời mốc Bản
Kỷ của sử ký vào sự nổi dậy của Đinh Bộ Lĩnh: Đinh
Tiên hoàng đế của Việt Nam độc lập.
Cuốn sách The
Birth of Vietnam của giáo sư K. W. Taylor có chứa một điều
gây tranh cãi lớn mà hơn ba mươi năm qua (từ khi sách ra đời)
dường như chưa có nhà phê bình nào muốn đá động đến.
Đó là việc ông ghép triều đại Triệu Đà với nước Nam
Việt vào lịch sử Việt Nam và cho rằng "Các sử gia Việt
Nam về sau ghi nhận Triệu Đà là một vị vua đã chống lại
quân Trung quốc xâm lược để bảo toàn lãnh thổ. Ông được
tôn thờ tại nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam" [22]
Và "Việc ông [Triệu Đà] nắm giữ cái móng của
thần Kim quy biểu thị sự hợp thức của ông trong tâm trí
của người Việt Nam, và giải thích uy thế của ông cao hơn
An Dương vương."[23]
Người ta nghĩ
Lê Văn Hưu là sử gia đầu tiên đưa Triệu Đà vào lịch
sử truyền thống Việt Nam trong cuốn Đại Việt Sử Ký
của ông mà về sau Ngô Sĩ Liên căn cứ vào đó để làm bộ
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư và đặt Triệu Đà ở phần Ngoại
Kỷ. Thực ra, nó bắt nguồn từ một cuốn sử khác trước
đó nữa.
Khi quân Minh đô
hộ nước ta vào cuối nhà Trần, chúng cướp hết sách vở
của nước ta mang về bên Tàu, trong đó có một cuốn sử
tên là Đại Việt Sử Lược. Về sau, một học giả
Tàu phát hiện cuốn
Đại Việt Sử Lược trong thư khố
của triều đình của họ, bèn đem khắc in, nhưng chúng bỏ
đi chữ Đại. Cuốn sách còn tên Việt Sử Lược.
Trong Việt Sử Lược đã có Triệu Đã mở đầu trang
sử nước ta ở đó rồi. Và người ta nhận ra cuốn Việt
Sử Lược hay Đại Việt Sử Lược là bản tóm lược
của cuốn
Việt Chí (không còn) củaTrần Phổ, một
sử quan dưới triều Trần Thánh Tông. Lê Văn Hưu được cho
là đã hiệu đính cuốn
Việt Chí nên đã đưa Triệu
Đà từ đó vào bộ sách
Đại Việt Sử Ký của mình.
Trong bài Bình
Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi cũng kể Triệu Đà vào truyền
thống lịch sử Việt Nam:
自 趙 丁李陳之肇造我國,
與 漢唐宋元而各帝一方
Tự Triệu
Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường
Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Từ Triệu,
Đinh, Lý, Trần, gây nền độc-lập;
Cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương. (Trần Trọng
Kim dịch)
Dường như Ngô
Thời Sỹ là người đầu tiên lên tiếng không công nhận
Triệu Đà: Trong sách
Việt Sử Tiêu Án, ông đặt Triệu
Đà vào Kỷ Ngoại thuộc:
"Xét sử cũ:
An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu,
chép to 4 chữ: "Triệu Kỷ Vũ Đế". Người đời theo sau đó
không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải,
Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung,
muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc
quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng
đến ở nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà
đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi
ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều
xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu
Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nướcThục,
nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện,
thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương.
Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt với
nội thuộc vậy." [24]
Học giả Đào
Duy Anh, trong Lịch Sử Cổ Đại Việt Nam cùng ý kiến
phản bác đó, viết rõ chữ lớn như một lời tuyên bố to
tiếng: NHÀ TRIỆU KHÔNG PHẢI LÀ QUỐC TRIỀU" và có lời lẽ
nặng nề hơn: "Các sử thần đời Lê kế tục phương pháp
và quan điểm của Lê Văn Hưu ở đời Trần (quan điểm lịch
sử phản dân tộc) không thấy rằng Triệu Đà làm vua nước
Nam Việt ở miền Quảng Đông, Quảng Tây đối với nước
Âu Lạc mà nghỉ xâm lược, chỉ là một tên giặc cướp
nước chớ không phải một đế vương chính thống." [25]
Quan điểm của
học giả Đào Duy Anh cũng được nhiều nhà sử học khác
của Việt Nam chia xẻ. Sách Lịch Sử Việt Nam (tập
I) của các tác giả Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn
Tấn, và Lương Ninh, sau khi kể ra một số chi tiết về "chính
sách mị dân" của Triệu Đà, "dùng nhiều thủ đoạn và khôn
khéo để tranh thủ các thủ lĩnh người Việt," đã kết lại:
"Và cũng chính cái thực tế Nam Việt phức tạp đó đã làm
cho nhiều nhà viết sử của ta thời phong kiến ngộ nhận,
coi nhà Triệu như một triều đại chính thống của nước
ta và viết thành một Kỷ nhà Triệu trong chính sử." [26]
Không những thế,
sách Lịch Sử Việt Nam (Tập 1) của Ủy Ban Khoa Học
Xã Hội Việt Nam, tức phản ảnh quan điểm chính thức của
nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cũng coi Triệu Đà
là kẻ xâm lược, gọi ông ta bằng "y" . "Triệu Đà kéo quân
sang xâm chiếm Âu Lạc lúc đầu bị thất bại, sau y phải
dùng mưu mô quỷ quyệt kết hợp với hành động quân sự
mới chiếm được." [27]
Trong giới sử
học miền nam trước năm 1975 dường như không có sự thảo
luận nào về vị trí của Triệu Đà trong lịch sử truyền
thống. Trong cuốn Việt Nam Sử Lược nổi tiếng của
sử gia Trần Trọng Kim soạn trước năm 1945, Triệu Đà được
kể vào chính sử trước thời kỳ Bắc thuộc, nhưng sử gia
Phạm Văn Sơn trong bộ
Việt Sử Toàn Thư (Saigon, 1960)
cũng cùng lập trường tẩy chay Triệu Đà như các sử gia
ngoài Bắc. Trong lúc đó, tên Triệu Đà được đặt cho một
con đường ở khu vực Ngã Sáu Chợ Lớn từ năm 1955 và tồn
tại đến năm 1975 [28]
Chúng ta cần
nhớ lại quan điểm của vua Quang Trung về chuyện này. Sử
gia Trần Trọng Kim viết trong Việt Nam Sử Lược: "[...]
đến năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu xin cầu
hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc
ấy tuy không phải là bản ý nhưng muốn mượn chuyện để
thử ý vua nhà Thanh." [29]
Tuy yêu cầu này
chưa chính thức nói ra với phía nhà Thanh vì vua Quang Trung
băng hà, nhưng đó là một sự kiện lịch sử được ghi chép
vào sách chớ không phải truyền thuyết dân gian.
Đất Lưỡng
Quảng tức là hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nằm trong
lãnh thổ nước Nam Việt của Triệu Đà xưa. Nếu Triệu Đà
không được kể là đế vương chính thống trong lịch sử
Việt Nam, thì đất nước Nam Việt đó cũng không phải của
Việt Nam, Vua Quang Trung căn cứ vào đâu để đòi đất?
Ngày nay, chuyện
đòi đất đó có thể đã trở thành viễn tưởng, nhưng không
phải cái mộng vu vơ với ký ức xa xưa về một đất nước
mênh mông "phía bắc giáp Động Đình hồ (Hồ Nam), phía nam
giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Từ
Xuyên), phía đông giáp Nam hải" [30]
đó tắt hẳn trong lòng người Việt.
Cuốn sách The
Birth of Vietnam đã có mặt từ hơn 30 năm nay, trong đó phần
viết về "kỷ" Triệu Đà ở giai đoạn đầu của lịch sử
Việt Nam, như một phần của lịch sử dân tộc Việt, có
phần nào gián tiếp gợi lại đại mộng oai hùng của vị
hoàng đế bách thắng Quang Trung, người từng buộc Tổng đốc
Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị phải mở đường thoát thân qua
ngõ... ống đồng! Dường như chưa một sử gia Việt Nam nào
ngừng lại ở chỗ này để ngẫm nghĩ. [31]
Điều bận tâm
lớn nhất của các nhà sử học nghiên cứu lịch sử Việt
Nam từ trước đến nay là vấn đề nguồn gốc Dân tộc Việt
Nam.
Trong Việt
Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim viết: "Theo ý kiến
những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và
người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt
Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía đông nam, lập ra nước
Việt Nam ta bây giờ. [...] Lại có nhiều người Tàu và người
Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống
[người] Tam Miêu ở, sau giống Hán Tộc (tức là người Tàu
bây giờ) ở phía tây bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu
đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu,
rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẫn núp
vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ." [32]
Trước khi cuốn
sách Việt Nam Sử Lược ra đời, từ thập niên 20 thế
kỷ XX trong giới nghiên cứu sử học Việt Nam đã có thêm
một thuyết mới, cũng của một người Pháp, là Leonard Aurousseau,
cho rằng dân tộc Việt Nam là hậu duệ của dân nước Việt
của Câu Tiển thời Chiến Quốc bên Tàu. Khi nước Việt này
bị nước Sở diệt, dân Việt đó chạy đến chiếm lĩnh
vùng đất mà sau này trở thành miền Bắc Việt Nam, và sau
đó họ trở thành dân tộc Việt Nam.
Cho đến thời
điểm ra đời của cuốn sách Việt Nam Thời Khai Sinh
của Giáo sư Nguyễn Phương, các thuyết liên quan đến "người
Thái" và "Tam Miêu" chẳng còn hấp dẫn, mà nhiều nhà nghiên
cứu cũng đã tỏ ra không mặn mà lắm với thuyết di dân
của Leonard Aurousseau do thiếu tính chính xác lịch sử. Các
phát hiện khảo cổ học mở ra cho các sử gia hướng nghiên
cứu mới.
Giáo sư Nguyễn
Phương dành nửa cuốn sách nghiên cứu các kết quả khảo
cổ học mà cho đến lúc đó đã hiện khá rõ các mốc lớn
trong quá trình tiến hóa liên tục của chủ nhân các nền
văn hóa khảo cổ trên đất nước. Nhưng có lẽ do bị "kẹt"
trong "tiền đề" của các nhà nghiên cứu nước ngoài không
tin các nền văn hóa đó là của người Việt cổ, nên ông
vẫn không rời bỏ định hướng đưa dân bên ngoài vào làm
dân Việt. Ông cho rằng: "Dân Việt Nam là người Trung quốc
di cư sang từ thời Bắc Thuộc." [33]Và
"Sự hình thành của dân Việt Nam đã bắt đầu từ thời
nhà Hán sang cai trị cổ Việt và kéo dài suốt mười thế
kỷ mới hoàn tất với sự Ngô Quyền rồi Đinh Bộ Lĩnh tách
rời ra khỏi Trung quốc để lập một nước mới." [34]
Nói như Giáo
sư Nguyễn Phương, nếu dân tộc Việt Nam chỉ mới hình thành
từ khi nhà Hán sang cai trị cổ Việt, thì trước đó đất
cổ Việt đã có ai đâu? Dân Hán chưa di cư đến thì họ
sang cai trị ai? Còn nếu trước nhà Hán đã có dân Tàu di
cư tới ở đông đúc đợi người Hán sang cai trị, như Giáo
sư Nguyễn Phương nói, thì đất đó là của nhà Hán, sao người
Hán lại sang chinh phục đô hộ đồng bào mình và lại gọi
đó là đất cổ Việt, dân Cổ Việt? Mà có phải họ chờ
đến mười thế kỷ sau, có đông người rồi mới xuất hiện
Ngô Quyền và Đinh Bộ Lĩnh đứng lên "tách rời ra khỏi Trung
quốc để lập một nước mới" đâu? Ngay từ thế kỷ đầu
Công Nguyên, hai bà Trưng đã "tách ra" để xưng vương rồi
đó. Nếu hai Bà Trưng cũng là dân Tàu di cư sao hai bà lại
nói người Tàu xâm lược mình và chống lại họ cho tới
chết? Sau hai Bà Trưng, những cuộc nổi dậy lớn nhỏ chống
lại Trung quốc xâm lực không ngớt xẩy ra luôn trong mười
thế kỷ. Không có một cuộc nổi dậy nào được sử sách
chép là người Tàu đòi ly khai cả! Ngay cổ thư Tàu cũng không
sách nào nói thế.
Cuốn sách của
Giáo sư Nguyễn Phương xuất bản năm 1965; từ năm 1967 trở
đi mới xuất hiện các phát kiến mới của nhà nhân chủng
học (anthropologist: nhà nhân loại học) người Mỹ Wilhelm G.
Solheim II (1924 - 2014) về những cuộc di dân của các chủng
người Nam Đảo – Nam Á. Và mới đây là tác phẩm Eden
in the East (Địa đàng ở phương Đông) của bác sĩ người
Anh Stephen Oppenheimer, cho các nhà nghiên cứu cảm hứng trong
hướng giải quyết mới về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
Tuy các nhà nghiên cứu còn nhiều việc phải làm trước khi
đi đến kết luận cuối cùng, nhưng từ nay thuyết Aurousseau
không còn gây "lăn tăn" gì nữa.
Thuyết của Giáo
sư Nguyễn Phương không đến nổi khó nghe như có người nói
dân tộc Việt Nam chỉ mới bắt đầu "hình thành từ năm
1930 theo hướng dân tộc xã hội chủ nghĩa," [35]
nhưng cũng không thuyết phục, như đã thấy.
Tuy không đặt
trọng tâm giải quyết vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt
Nam, cuốn sách
The Birth of Vietnam khẳng định tính bản
địa và liên tục của người Việt Nam qua các giai đoạn
văn hóa khảo cổ học phát hiện trên đất nước Việt Nam.
Trước khi người Tàu đến, dân tộc Việt Nam đã có tổ
chức quốc gia và có một nền văn hóa riêng biệt.
Với thuyết "người
Hán tràn ngập," Giáo sư Nguyễn Phương bi quan cho rằng: "Theo
đà tiến triển của việc cai trị nhà Hán và các đời sau,
dân Lạc Việt dần dần đã mất tính cách của một dân riêng,
một phần do sự đồng hóa rất khó nhọc, và rất chậm rãi
với văn hóa Trung quốc (sự đồng hóa này không bao giờ thành)
phần khác do sự gia tăng ngày càng đông hơn của người Tàu
đến lập nghiệp ở Giao Chỉ Cửu Chân, khiến cho thổ dân
cuối cùng trở thành thiểu số; phần khác nữa thổ dân lại
có tính đố kỵ với văn minh phương bắc nên cố tránh những
chỗ có người Tàu lập cư để rút vào xa hơn – có lẽ
không xa lắm – trong chỗ rừng hoang cây rậm, để sống mãi
cuộc đời tự do phóng khoáng của người man di." [36]
Tiến sĩ K. W. Taylor, trái lại, nhận thấy: "Các nghiên cứu
mới đây về nhân chủng học vật lý cho thấy một sự liên
tục đặc biệt trong tiến hóa về mặt chúng tộc của người
miền bắc Việt Nam từ thời kỳ tiền sử xa xưa nhất cho
đến hiện tại. Một sự liên kết chủng tộc rõ rệt từ
kỷ nguyên này đến kỷ nguyên khác đã gạt bỏ bất cứ
[giả
thuyết về] một cuộc di dân ồ ạt đột xuất nào đủ
lớn để coi đó là nguồn gốc của một dân tộc." [37]
Còn về di dân
người Hán, tiến sĩ K. W. Taylor cho biết: "Di dân người
Hán vào Việt Nam không quá đông đảo với số lượng tràn
ngập. Điều này được thấy rõ trong một nghiên cứu về
các thống kê dân số, chỉ ra rằng không hề có một sự
thay đổi bất thường nào về dân số ở miền Bắc Việt
Nam trong thời nhà Hán. Dường như có đủ di dân [người Hán]
để lập nên một tầng lớp thuộc giai cấp cai trị Hán –
Việt cấu kết nhau, nhưng không đủ nhiều để có thể thống
trị xã hội người bản địa về mặt hành chánh và văn
hóa." [38]Và
tuy người dân bản địa "lệ thuộc thế giới của
đế quyền phương bắc, nhưng họ là sản phẩm của một
nền văn hóa phương nam." [39]
Mặt khác, trong
khi Giáo sư Nguyễn Phương cho rằng: "Dân Việt Nam do dân Trung
Hoa di cư sang chớ không phải do người Lạc Việt mà ra nên
mới có phong tục giống như người Trung Hoa," [40]
thì Tiết Tổng (HsüehTsung), một người phục vụ dưới quyền
Sĩ Nhiếp ngay vàothời đó đã nói ngược lại. Ông ta cho
rằng" việc khai hóa [tức là đồng hóa] người phương
nam gần như là vô vọng. Tính ô hợp của các nhóm dân tộc
khác nhau đủ để làm nản lòng hầu hết các nhà cai trị.
Phong tục không đồng nhất, và ngôn ngữ thì không hiểu nhau,
phải cần đến nhiều lượt người thông dịch mới giao tiếp
với nhau được." [41]Thế
là thuyết dân Việt gốc Tàu của Giáo sư Nguyễn Phươngđã
bị chính người Tàu tại chỗ thời bấy giờ bác bỏrồi
đó.
Và Tiến sĩ K.
W. Taylor cũng nhận thấy một sự thật: "Xã hội Việt Nam
thường trái ngược với các giá trị của xã hội Trung quốc." [42]Và"
Chắc chắn là di dân Trung quốc chịu ảnh hưởng từ văn
hóa Việt Nam cũng nhiều như họ có thể bắt văn hóa Việt
Nam chịu ảnh hưởng của văn minh Trung quốc." [43]
Tiến sĩ K. W.
Taylor nhận xét: "Việt Nam tiếp nhận văn minh Trung quốc
mà không làm mất bản tính của mình. [...] Sau một hay nhiều
thế hệ cư trú ở Việt Nam, các di dân Trung quốc, bất kể
ngoài mặt họ tỏ ra trung thành với các lý tưởng thiên triều
Trung quốc, họ không thể nào không chịu ảnh hưởng từ
các giá trị và kiểu thức của xã hội Việt Nam." [44]
Về nguồn gốc
tiếng Việt, Giáo sư Nguyễn Phương viết: "Hầu như có thể
nói được rằng tiếng Việt Nam ngày nay sau mười thế kỷ
độc lập vẫn còn là chính tiếng Tàu nhưng đọc lên hơi
khác với các cách đọc của những tiếng địa phương ở
Trung quốc." [45]
Vào thập niên
60 của thế kỷ XX, khi cuốn sách Việt Nam Thời Khai Sinh
ra đời, tính Nam Á (Austroasiatic) của tiếng Việt đã được
bàn đến,và ngay từ đầu thập niên đó, nhà ngôn ngữ học
kiêm nhân chủng học người Pháp A. G. Haudricourt đã đề xướng
tiếng Việt nằm trong nhóm các ngôn ngữ Nam Á. Lúc đó các
nhà ngôn ngữ học vẫn còn băn khoăn giữa những tranh cãi
của các ông... Tây: trong nhóm ngôn ngữ Nam Á người này nói
tiếng Việt có yếu tố tiếng Thái, người khác nói tiếng
Việt là tiếng Môn-Khmer; và dù có người có ý cho nó thuộc
ngữ hệ Tạng Miến (Tibeto-Burman) đi nữa, dường như không
mấy ai nói tiếng Việt là tiếng Tàu như Giáo sư Nguyễn Phương.
Vào những năm 1970 nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt đã được
xác nhận. Năm 1974 giáo sư ngôn ngữ học người Mỹ Gérard
Diffloth đưa ra bảng phân loại cho ngữ hệ này, nhưng sau đó
tự chính ông bác bỏ. Và đến hơn mười năm trước đây,
năm 2005 ông đưa ra cách phân loại mới, theo đó tiếng Việt
thuộc chi Việt – Katu (Các nhà ngữ học Việt Nam thường
xếp tiếng Việt vào chi Việt – Mường hoặc Việt – Chứt),
nhóm Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á, và là ngôn ngữ có nhiều thanh
điệu và nhiều người nói nhất trong hệ ngôn ngữ này.
Nửa thế kỷ
trước, nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc đã dùng phương pháp
ông gọi là "ngôn ngữ tỷ hiệu" để "Lột Trần Việt
Ngữ," [46]
chứng minh tiếng Việt là ngôn ngữ (của chủng người) Mã
Lai (tức Nam Á). Mới đây, Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng đã dành
33 năm đời mình để khảo sát và xác lập "lý lịch" (etymology)
mang tính Nam Á của 27,400 từ đơn tiếng Việt trong bộ Từ
điển Nguồn Gốc Tiếng Việt của ông (2014). Vậy là "căn
cước" tiếng Việt đã được xác định.
Còn tiếng Tàu
thì thuộc một hệ ngôn ngữ hoàn toàn khác đã biết rõ:
ngữ hệ Hán – Tạng. Làm thế nào mà tiếng Việt lại là
tiếng Tàu đọc hơi khác được chớ! Có lẽ Giáo sư Nguyễn
Phương muốn nói đến phương ngữ của một số địa phương
miền nam Trung quốc (mà chính người Trung quốc cũng gọi là
Việt ngữ), mà ông quên rằng dân ở vùng đó vốn là người
Bách Việt và họ cũng nói tiếng Nam Á. Còn tiếng Tàu thì
khác!
Tiến sĩ K. W.
Taylor ghi nhận: "Dù chịu sự kiểm tra và đánh thuế từ
các quan lại Tàu, người Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất
của mình. Họ không bao giờ để mất ngôn ngữ mẹ đẻ với
những cảm xúc và tư tưởng riêng biệt của dân tộc hàm
chứa trong ngôn ngữ ấy. Họ không bao giờ mất niềm tin vào
quá khứ và di sản của dân tộc trong quá khứ." [47]
Trong khi Giáo
sư Nguyễn Phương nhận thấy người Lạc Việt bản địa
không có cửa biến thành... Tàu vì "sự đồng hóa rất khó
nhọc, và rất chậm rãi với văn hóa Trung quốc (sự đồng
hóa này không bao giờ thành)", [48]
thì Tiến sĩ Taylor nhận thấy người Tàu dễ dàng bị văn
hóa Việt "tiêu hóa" mất tăm: "Ngôn ngữ của người Việt
Nam vẫn tồn tại, và có thể nói mà không sợ sai lầm rằng
sau thế hệ đầu hay thế hệ thứ hai (các hậu duệ) người
Hán đã nói tiếng Việt. Xã hội Việt Nam như một toàn thể
vẫn tách biệt với nền văn minh Trung quốc, và xã hội Hán
Việt tồn tại như một cánh (wing) của thế giới văn hóa
độc lập này. Di dân người Hán bị Việt Nam hóa dễ hơn
là người Việt bị Hán hóa." [49]
Đọc các nhận
xét đó trong cuốn sách The Birth of Vietnam, người đọc
có cảm giác tác giả gần gũi với mình và dành cho dân tộc
Việt Nam nhiều tình cảm yêu mến rất cảm động.
Người viết
không có kiến thức chuyên môn để bình luận về tác phẩm
Việt
Nam Thời Khai Sinh của Giáo sư Nguyễn Phương và các vấn
đề về "Khảo tiền sử"; các nhận xét trên đây chỉ là
mấy điều suy nghĩ của một dịch giả nhân dịch cuốn sách
The Birth of Vietnam của Tiến sĩ Keith Weller Taylor [50]
mà quảng cách thời gian ra đời của nó so với Việt Nam
Thời Khai Sinh, với nhiều kết quả mới trong nghiên cứu,
đã gợi cho tác giả của sách những nhận định tích cực
về thời thượng cổ trong lịch sử Việt Nam, so với những
hiểu biết từ nửa thế kỷ trước.
Dĩ nhiên quan
niệm của tác giả về lịch sử Việt Nam trong sách có thể
không hoàn toàn trùng hợp với sử quan của từng người chúng
ta. Ngoài mức độ nhận thức, tư liệu lịch sử có được
ở từng thời kỳ nghiên cứu cũng là những lý do khách quan
của các sai biệt có thể có.
Đôi chỗ tác
giả dịch các đoạn văn thơ từ nguyên tác chữ Hán và tư
liệu từ các sách
AnNam Chí Lược và Việt Điện
U Linh Tập sang tiếng Anh, khá lỏng lẻo và... tùy hứng.
Với hiểu biết về chữ Hán không đong đầy một chiếc lá
me, người viết đã phải cố gắng làm công việc cực kỳ
khó khăn là đối chiếu nguyên tác, và chú thích bổ sung vào
bản dịch một số bài thơ chữ Hán. Cũng với khó khăn như
vậy, để dịch các đoạn văn An Nam Chí Lược
và Việt Điện U Linh Tập từ tiếng Anh trở lại tiếng
Việt cho chính xác mà không tham khảo được nguyên bản chữ
Hán, người viết phải tìm bản dịch của Giáo sư Lê Hữu
Mục để chép lại cho được đầy đủ và trung thực. Xin
hương hồn Giáo sư Lê Hữu Mục thông cảm.
Thiếu
Khanh
|
|
|
Chữ Vương
Giáp cốt văn
(Hình pháp sư
cầu nguyện)
|
Chữ Vương
Kim văn
(Hình lưỡi
rìu)
|
Chữ Vương
(chữ khải)
(Nối thông tam
tài)
|
------------------------
[1]
- "Giao Chỉ
" means "intertwined feet" and refers to the custom
of sleeping in group with each person's head extending outward, while all
feet came together in the center. The Birth of Vietnam, page 26.
[2]
- The Hùng Kings seemingly protected the Lac lords against raids and invasions
from the mountains, while the Lac lords supported the Hùng kings with
their manpower and wealth. The Birth of Việt Nam, page 13.
[3]
- The life of the people was undisturbed by these events, however, and
the position of the Lac Lords remained unchallenged.
The Birth of Vietnam,
page 29)
[4]
- The Lac lords largely remained in control of the land and people during
this time. The Birth of Vietnam, page 29.
[5]
- The Lac lords were faced with the choice of becoming subordinate officials
in Han government or of taking their case to the battlefield" (The Birth
of Vietnam, page 37.
[6]
- Women enjoyed a relatively high status in Lạc society. As we shall
presently see, when the Lac lords eventually rose up against increasing
Chinese influence, they were led by women. The Birth of Vietnam,
page 13.
[7]
- The battle of Bạch Đằng River and the rise of Ngô Quyền, however,
had a stirring effect on the people. It was now possible for them to imagine
a Vietnamese king. The Birth of Vietnam, page 269.
[8]
- Ngô Quyền was laying claim to a local tradition of kingship, The
Birth of Vietnam, page 270.
[9]
- [Ngô] Quyền buttressed his royal claim with appropriate obeisance
to indigenous perceptions of political authority. The Birth of Vietnam,
page 270.
[10]
- The name Hùng derives from an Austroasiatic tittle of chieftainship
that has persisted up to the present time in the language of Mon-Khmer
speaking peoples living in the mountains of Southeast Asia, as well as
in Mường, the upland sister language of Vietnamese. The Birth of
Vietnam, page 3.
[11]
- Ân Khư có nghĩa là gò đống di vật đổ nát của
(kinh đô) nhà Ân.
[12]
- Ông vua cuối cùng của nhà Thương trước đó thường được
gọi là Trụ vương, thực ra danh hiệu ông ấy là Tân Tụ,
hoặc Đế Tân Trụ. Chỉ riêng một nhà Chu xưng vương.
[13]
- Giáo sư Linh mục Kim Định nói nhiều về thời kỳ này mà
ông gọi là "huyền sử" trong triết thuyết An Vi của ông.
[14]
- Theo nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc, "Cái là một danh
từ Mã Lai [tức ngôn ngữ Nam Á (ND)], có nghĩa như trên vào
thời xưa: Bố Cái là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ
lãnh [...] Hiện nay Mã Lai có danh từ Ibu Láki đúng nghĩa là
Bố Cái..." (Ibu: âm cổ của Bố; Láki: âm cổ
của Cái.), (Nguồn Gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam, Bách
Bộc xb, Saigon, 1971, trang 573)
[15]
- The Hùng kings maintained their prestige with a prosperous court life...
The
Birth of Vietnam, page 13.
[16]
- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, nxb Tân Việt,
Saigon, in lần thứ 6, 1968, trang 24.
[17]
- The Chinese sources make it clear that Thi Sách followed his wife's
leadership . The Birth of Vietnam, page 39.
[18]
- The matriachal flavor of the time is further attested by the fact that
Trưng Trắc's mother's tomb and spirit temple have survived , although
nothing remains of her father. The Birth of Vietnam, page 39.
[19]
- The law codes of Vietnamese dynasties in later centuries reflect a relatively
high status for women, indicating resistance to patriarchal influence from
China. Ancient Vietnamese society may not have been controlled by women,
but it is clear the women enjoy hereditary rights that allowed them to
assume roles of political leadership.
The Birth of Vietnam, page
77.
[20]
- There is no evidence that the rise of King An Dương left any mark on
the Vietnamese language, and it is clear that there was no major demographic
change. The Birth of Vietnam, page 17.
[21]
- The court that Ngô Quyền established was based on traditional Chinese
etiquette, even to the regulation of the color of garments to be worn by
officials. The Birth of Vietnam, page 270.
[22]
- Chao To was remembered by later Vietnamese historians as a king who defended
their lands against Chinese aggression. His spirit cult was eventually
honored in many parts of North Vietnam.The Birth of Vietnam, page
26 – 27.
[23]
- His possession of the magic turtle claw signified his legitimacy in the
minds of the Vietnamese and ascendancy over King An Dương. The Birth
of Vietnam, page 27.
[24]
- Ngô Thời Sỹ,
Việt Sử Tiêu Án, Hội Việt Nam Liên
lạc nghiên cứu Á Châu dịch, nhà xb Văn Sử, 1991, trang 10,
bản pdf.
[25]
- Đào Duy Anh, Lịch Sử Cổ Đại Việt Nam,
Nxb Văn Hóa Thông Tin, HN, 2005, trang 48.
[26]
--Phan Huy Lê et al. Lịch Sử Việt Nam, (Tập
1) nxb Đại học và Trung học Chuyên Nghiệp, HN, 1985, trang 154.
[27]
- UBKHXHVN, Lịch Sử Việt Nam, Tập 1. Nxb Khoa Học Xã
Hội, HN, 1971, ghi chú 1 ở trang 77.
[28]
- Sau năm 1975, đã được đổi tên Đường Ngô Quyền. Nhưng
nghe nói ở khu phố 2, phường Hiệp Phú, quận 9 đang có một
con đường mang tên Triệu Đà!
[29]
- Trần Trọng Kim,
Việt Nam Sử Lược, sách
đã dẫn, trang 383.
[30]
- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, sách đã dẫn,
trang 23.
[31]
- Chúng ta nên biết rằng các triều đại nhà Nguyên
(người Mông Cổ) và nhà Thanh (người Mãn Châu) xâm lược
và chiếm đóng Trung quốc được nhà nước Trung quốc hiện
nay coi là các triều đại chính thống trong lịch sử của
họ.
[32]
-Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, trang 17.
[33]
- Nguyễn Phương,
Việt Nam thời Khai Sinh, Phòng Nghiên
Cứ Sử, Viện Đại Học Huế, 1965, trang 226.
[34]
- Nguyễn Phương, sách đã dẫn, trang 244.
[35]
- "Hoàng Xuân Nhị trước đây nhận định dân tộc Việt Nam
hình thành từ năm 1930 theo hướng dân tộc xã hội chủ nghĩa
, nay cũng cho rằng, trước dân tộc xã hội chủ nghĩa, Việt
Nam đã có một quá trình hình thành dân tộc sớm hơn." Viện
Sử Học, Sử học Việt Nam trên đường phát triển,
nxb Khoa Học Xã Hội, HN, 1981, trang 60.
[36]
- Nguyễn Phương, sách đã dẫn, trang 191.
[37]
- Recent studies in physical anthropology reveal a remarkable continuity
of racial evolution in northern Vietnam from earliest prehistoric times
to the present. A marked racial connectedness from one era to another rules
out any large-scale, sudden migration of sufficient magnitude to account
for the origin of a people. The Birth of Vietnam page 17.
[38]
- Han immigration into Vietnam was not overwhelming. This is clear from
a study of census statistics, which indicate that there were no abnormal
demographic changes in northern Vietnam during Han. There were apparently
enough immigrants to form a coherent Hán-Việt ruling class society throughout
most of northern Vietnam, but not enough to administratively or culturally
dominate the indigenous society.
The Birth of Vietnam, page 54.
[39]
- They belonged to a northern empire, but they were of a southern culture.
The
Birth of Vietnam, page 130.
[40]
- Nguyễn Phương, sách đã dẫn, trang 194.
[41]
- (It was nearly hopeless to try to civilize the people in the south. The
heterogeneity of the different ethnic groups was enough to daunt most administrators:
"Customers are not uniform and languages are mutually unintelligible so
that several interpreters are needed to communicate." (The Birth of
Vietnam, page 75)
[42]
- (Vietnamese society frequently contradicted the values of Chinese society.
The
Birth of Vietnam, page 130)
[43]
- (Chinese immigrants were certainly influenced by Vietnamese culture as
much as they were able to influence it, The Birth of Vietnam, page
130).
[44]
- Việt Nam received Chinese civilization without losing its own personality.
[...] After a generation or more of residence in Việt Nam, Chinese immigrants
no matter how outwardly loyal they may have remained to the imperial ideals
of China. Could not helped being influenced by the values and patterns
of Vietnamese society. The Birth of Vietnam, 130.
[45]
- Sách đã dẫn, trang 230
[46]
- "Lột Trần Việt Ngữ" là tên một tác phẩm nghiên
cứu ngôn ngữ Việt của nhà văn Bình Nguyên Lộc, nxb Nguồn
Xưa, Saigon, 1972.
[47]
- Although registered and taxed by Chinese officials, the Vietnamese remained
true to themselves. They never lost their language, with the distinctive
emotions and thoughts it evokes. They never broke faith with their past
and its heritage. The Birth of Vietnam, page 181.
[48]
- Và Lưu Hy thời Sĩ Nhiếp đã nói là vô phương.
[49]
- (The Vietnamese language survived, and it is reasonable to assume that
after the first or second generation Han immigrants spoke Vietnamese. Vietnamese
society as a whole remained separate from Chinese civilization, and Han-Viet
society existed as a wing of this autonomous cultural world. Han immigrants
were more effectively "Vietnamized" than the Vietnamese were sinicized"
The
Birth of Vietnam, page 53)
[50]
- Bản dịch do công ty Văn hóa Truyền Thông Nhã Nam sắp in.
|