Huế
từng là nơi tá túc thơ mộng của nhiều văn nghệ sĩ tiền
chiến.
Trong số nhà văn
Bắc vào thăm Huế sớm bậc nhất có Vũ Bằng. Năm 1924, 25
gì đó, ông Vũ đã thuê một cái gác trong một căn nhà ở
Bến Tượng ngó ra sông Hương. Vũ Bằng nằm dài ở Huế trong
một cơn thất chí. Ông lại đang nghiện thuốc phiện. Người
nghiện chẳng những thường ngủ muộn mà hình như còn hay
ngủ "thức", tức ngủ mà giác quan và óc vẫn chập chờn
hoạt động. Chính trong những giờ
đêm đã về sáng và trong cái trạng thái say thuốc lơ mơ,
mà Vũ Bằng đã được nghe hò Huế cách thấm thía nhất.
Ông kể: "Tôi còn nhớ như in (...) vừa mới thiu thiu thì ở
xa xa đưa lại một tiếng gì như tiếng chuông (...) âm ba nhè
nhẹ trên mặt nước (...) vọng lên căn gác nhỏ (...) vỗ
về mình, đu đưa mình (...) Ủa, sao lại có tiếng hát lẫn
vào tiếng chuông? Tại sao cứ sau một tiếng ngân của chuông
thì lại có kèm câu hát?".(1)
Chuông rồi hát,
chuông rồi hát, quái lạ. Hóa ra tiếng chuông không phải tiếng
chuông, mà là tiếng hò (hò trước hát sau)! Hóa ra "người
chưa
vĩnh biệt Phù Dung" (2) đã
bị nàng tiên nâu ru cho say la đà đến nỗi nghe gái Huế chèo
thuyền đi chợ hò mái đẩy mà tưởng mình đang thưởng thức
tiếng chuông Thiên Mụ! (3)
*
Trong cái giờ khắc
khí âm còn thịnh, nằm nghe cùng một điệu hò, có người
khách xa tưởng tiếng chuông chùa, rồi có người khách xa
khác lại tưởng "tiếng ma đưa".
Sau Vũ Bằng có
lẽ mười lăm năm, Tô Hoài cũng vào Huế nằm ngủ. "Dế Mèn
Phiêu Lưu Ký" ngủ đò, nhưng không phải thứ đò ngủ kỹ
nữ nổi tiếng đâu, mà là "đò nhà trọ, giường chiếu tềnh
toàng như cái lều trên mặt nước", là "chỗ ngả lưng cho
người nhỡ độ đường nhẹ túi".
Tô Hoài không nghiện
thuốc phiện như Vũ Bằng nhưng ngủ có lẽ cũng không "kỹ",
vì túi nhẹ ngày chỉ hai bữa cơm hến, ăn có no đâu. Nhờ
ngủ ngay trên mặt nước, lại ngủ nhẹ nhàng, tỉnh táo,
ông được nghe những âm thanh khó quên: "Nhớ nhất nửa đêm
về sáng, những câu mái đẩy cất lên như tiếng ma đưa trong
những thuyền chở cau, chở củi mạn ngược về chợ, tiếng
nỉ non lạnh ngắt dài theo tiếng chèo thơm nước mùi cỏ
thạch sương bồ từ đầu nguồn đưa xuống." (4)
*
Trước sau Tô Hoài
một đôi năm, Nguyễn Bính cũng ghé Huế.
Nhà văn hẳn vào
Huế dịp xuân hạ hay chớm thu nên được đêm đêm "gác cả
hai chân lên mạn thuyền" nghe tiếng ma đưa và hít mùi nước
cỏ bồ. Nhà thơ vào hơi muộn trong năm nên chỉ được "nằm
mốc" trên bờ ngày nọ qua ngày kia nghe "mưa tong tả" mà "sầu
nghiêng mái quán", mà than thở "Trời mưa ở Huế sao buồn
thế" đến bốn lần trong một bài thơ!(5)
Thu mới hơi già
mà Huế đã buồn:
"Suốt trời không
một điểm sao
Suốt trời mực
ở nơi nào loang ra
Lửa đò chong
cái giăng hoa
Mõ sông đục
đục, canh gà te te
Chừ đây bên
nớ bên tê
Sương thu xuống
gió thu về bồng bênh
Ðàn ai chừng
đứt dây tình
Nổi lên một
tiếng buồn tênh rồi chìm" (6),
nên đông tới thì
trên trời ngày đêm lúc nào cũng "ngao ngán một loài mây",
mặt trời mặt trăng "điểm sao" đông miên đâu hết, thì
dưới đất sông Hương thiếu điều tràn bờ, đò nọ đò
kia lên cạn nằm la liệt như bát úp.
Quả thực, nếu
không "nón lá áo tơi ra quán chợ" để uống cho xỉn thì thi
nhân "đi đày" Nguyễn Bính chịu đời sao thấu! (7)
*
Huế bây giờ, du khách
dầu có chịu khó thức tới... trắng tóc trong khách sạn Hương
Giang cũng không sao nghe được một câu hò mái đẩy, vì đò
đã "mọc" đuôi tôm cả rồi, có cô gái Huế nào phải chèo
đẩy gì nữa đâu mà nửa đêm về sáng cất tiếng vang như
chuông hay nỉ non như giọng ma đưa?
Huế đêm đã thôi
hò. Huế đông cũng không còn mưa buồn ra thơ. Ðọc ghi chép,
tâm sự của khách du xưa, rồi thấy bâng khuâng...
(Viết
năm 2008)
____________
(1)
Vũ Bằng, "Thương về câu hò tiếng hát của xứ Huế xanh
xanh", Tạp văn Vũ Bằng, nxb. Hội Nhà Văn, VN, 2003, tr.
209-210.
(2)
Vũ Bằng có tác phẩm tên Phù dung ơi, vĩnh biệt (tên
khác là Cai).
(3)
Ca dao: "Gió đưa cành trúc la đà / Tiếng chuông Thiên Mụ..."
(4)
Tô Hoài, Bút ký, nxb. Hội Nhà Văn, VN, 2000, tr. 287.
(5)
Bài "Trời mưa ở Huế".
(6)
Bài "Lửa đò" của Nguyễn Bính.
(7)
Bài "Trời mưa ở Huế": "Không hiểu vì sao hai đứa lại /
Chung lưng làm một chuyến đi đày". |