Thi
sĩ Nguyễn Nhược Pháp hơn sáu mươi năm trước, diễn tả
cuộc hành trình chùa Hương bằng tâm tình ngây thơ của cô
thiếu nữ mười lăm tuổi. Theo gót ông, tôi cũng đi thăm
viếng chùa Hương, một giấc mơ xưa mà tôi ngỡ rằng chẳng
bao giờ thành sự thật.
Trang bị không phải
túi thơ bầu rượu mà bằng một cái ba lô nặng trĩu, gồm
hai cái máy hình, mấy ống kính và phim đủ loại. Tôi hy vọng
sẽ chụp được vài tấm hình, đem về xứ Mỹ, khoe với
bạn bè những hình ảnh quê hương xinh đẹp.
Hôm qua, chân ướt
chân ráo đến Hà Nội, chúng tôi đi thăm Văn Miếu. Thấy
có bán mấy bộ áo tứ thân, yếm đào, thắt lưng thiên lý,
khăn vành nhung tím với cái đuôi gà ngộ nghĩnh. Diễm, cô
bạn đồng hành trẻ tuổi thích quá, vòi vĩnh chồng mua cho
mình một bộ, để ngày mai diện đi chùa Hương, mặc vào
chụp ảnh. Ẩn, anh chàng bác sĩ trẻ, hiền như bụt, lúc
nào cũng cười cười, chiều vợ nên móc tiền ra chi. Thấy
Diễm hồn nhiên vui vẻ, lòng tôi cũng phấn khởi vô vàn.
Trí tôi tưởng tượng ra biết bao nhiêu là cảnh đẹp chùa
Hương, có Diễm làm một cô người mẫu xinh đẹp. Mắt cô
đen tròn, môi cô mọng. Da cô trắng như trứng gà bóc, dáng
cô mình hạc xương mai... Cô thật là yêu kiều trong chiếc
áo tứ thân với cái đuôi gà phất phơ bên má. Tôi sẽ có
dịp tạo ra nhiều tác phẩm nhiếp ảnh để đưa cô bé chùa
Hương từ thế giới thi ca, đi vào thế giới nhiếp ảnh.
Mặc dầu trí óc tôi phần lớn dành riêng để mơ những giấc
mộng hão huyền, nhưng giấc mộng tạo hình cô bé chùa Hương
này thật đầy hy vọng. Ðêm ấy, sau khi kiểm soát đầy đủ
những dụng cụ trong ba lô, tôi hy sinh, không tham dự cuộc
đi chơi đêm Hà Nội. Tôi cần gìn giữ sức khỏe để ngày
mai chịu đựng cuộc hành trình vất vả.
Tôi cư ngụ gần
trung tâm thành phố, khách sạn nhỏ nhưng lịch sự, sang trọng
và tiện nghi không kém gì những khách sạn xứ Mỹ. Tắt đèn
phòng, tôi luyến tiếc mở màn cửa sổ, dí mũi vào cửa kính
nhìn ra đường để thưởng thức một chút hương vị của
Hà Nội về đêm. Bên kia công viên, người đã vắng. Trên
hè phố, một vài gánh hàng rong còn qua lại. Dưới đường,
xe đạp, xe gắn máy không còn đông đảo như ban ngày. Ngắm
phố một lúc, tôi không muốn đi ngủ nữa, đồng hồ mới
chỉ chín giờ đêm, tôi lò mò khóa cửa phòng, xuống phố
đi dạo một mình. Vừa bước ra khỏi thang máy, cô nhạc sĩ
dương cầm nhìn lên mỉm cười, hai bàn tay trắng như ngó
sen, thoăn thoắt dạo trên những phím ngà quen thuộc. Ban chiều,
sau khi cô đàn bản "Lara's song" theo lời tôi yêu cầu, tôi
nán lại bên cô nói chuyện tầm phào, biết được cô là
giáo sư dạy nhạc, ban đêm chơi đàn cho khách sạn. Thấy
cô vui vẻ, dễ chịu, các bạn tôi đã kéo đến yêu cầu
cô đàn hết bản này đến bản nọ. Chú gác cửa khách sạn,
mặc bộ đồng phục màu xanh biển, mũ đồng màu, trên áo
có những hạt nút vàng bóng nhoáng trông ngộ nghĩnh như những
chú lính trong tuồng "nutcracker". Thấy tôi bước ra, chú chạy
tới chào, mở cửa cho tôi ra đường.
Ði vòng vo qua vài
khu phố, tôi kiếm được khu bán trái cây ở cuối phố hàng
Giầy. Mấy chị bán hàng thấy tôi chào mời rối rít. Trái
cây đủ loại bày trên những cái mẹt lớn. Nhãn lồng thơm
phức cột từng chùm. Những trái thanh long đỏ hồng ngày
xưa là sản phẩm đặc biệt của Nha Trang bây giờ đầy đường
Hà Nội. Măng cụt, mãng cầu, sầu riêng, cam, quít và trái
mơ chồng chất lên nhau. Tôi chỉ thích nhãn nên mua mấy ký,
hí hửng xách về khách sạn. Sau khi ăn một bụng đầy trái
nhãn, tôi lại thay áo quần, chải răng, thoải mái bò lên
giường. Lim dim đôi mắt, tôi thả hồn theo ông Trang Tử,
hóa thành cánh bướm trắng, chập chờn bay vào giấc mơ hoa.
*
Tiếng chuông đồng
hồ báo thức reo chát chúa làm tôi bàng hoàng tỉnh giấc.
Mỗi buổi sáng khác, thế nào tôi cũng bịt tai, kéo chăn che
kín đầu, ỉ ôi rên rỉ một hồi lâu mới lồm cồm bò dậy.
Hôm nay, tôi hăng hái nhảy xuống giường, lôi tấm mền khỏi
người anh Tuấn hối thúc:
"Dậy lẹ lên đi
ăn sáng không thôi trễ!"
Anh hé một con mắt
ra nhìn:
"Mệt quá, phải
chi hồi tối đừng đi Karaoke thì đỡ biết mấy!"
Tôi ngạo nghễ
nhìn anh:
"Hối hận thì đã
trễ rồi, tí lên xe ngủ tiếp để có sức mà vác máy hình."
Anh giẫy nẩy:
"Thôi hôm nay anh
không chụp hình, đi chơi tay không cho khỏe."
Nghe câu anh nói,
lòng tôi áy náy buồn bã lắm. Tôi tiếc giùm anh những cơ
may hãn hữu, sợ anh mất đi những tấm hình đẹp. Nhiều
lúc anh nghe lời tôi năn nỉ, mang máy theo, bị nặng nề khó
chịu, than đau lưng, đau cổ, mặt mày méo xẹo, tiu nghỉu
mất vui, nên lần này tôi không dám nói năng gì cả. Tôi lẳng
lặng thay y phục, khoác ba lô xuống phòng ăn. Hôm nay khách
sạn chìu khách, dọn thức ăn điểm tâm từ ba giờ sáng.
Thức ăn đầy đủ như mọi buổi sáng khác chỉ thiếu có
món phở. Ãn sáng xong, tôi ngồi trước phòng khách, chờ một
hồi lâu không thấy Ẩn và Diễm. Tôi tự nghĩ, chắc cô bé
sửa soạn kỹ quá nên giờ này vẫn chưa xong. Chỉ còn mấy
phút nữa là xe tới, chị hướng dẫn áy náy đi lui đi tới
trước cửa thang máy, anh Tuấn đòi chạy lên phòng ngủ để
kiếm. Cửa thang máy vừa mở thì thấy Ẩn và Diễm lọt tọt
chạy ra. Cô bé chùa Hương áo lụa, đuôi gà chả thấy đâu,
chỉ thấy một cô bé hốt hoảng, hốc hác, bơ phờ vì mới
ngủ dậy. Cô nhìn chúng tôi, bẽn lẽn:
"Bọn em quên để
đồng hồ báo thức."
Ẩn thì cứ cười
cười chả nói năng gì.
Xe vừa mới đến,
anh Tuấn xách mấy trái chuối và phó mát đưa cho Diễm:
"Ðây, cô cầm lên
xe ăn cho đỡ đói."
Anh Tuấn dễ thương
như vậy đó, khi đi chơi chung, anh không những chỉ săn sóc
cho vợ mà còn lưu tâm đến tất cả mọi người.
Thấy Diễm không
có thì giờ trang điểm và mặc áo tứ thân để đi chùa Hương
tôi cũng hơi buồn. Diễm bây giờ mặc quần tây, áo cánh,
mái tóc thề rủ dài mướt như một tấm lụa phủ ngang lưng.
Mặt mày cô xanh xao thiếu ngủ, buồn xo. Cô giống như cô
Nga, người thiếu nữ trong bài thơ Nguyên Sa:
Hôm nay Nga buồn
như con chó ốm
như con mèo ngái
ngủ trên tay anh...
đôi mắt cá
ươn như sắp sửa se mình...
Rõ ràng là chỉ
vài phút sau khi trèo lên xe, Diễm dựa đầu vào vai Ẩn, ngái
ngủ như một chú mèo con.
Tôi và Tuấn trèo
ra tận băng cuối, không ai thích ngồi băng cuối vì sợ đường
xấu xe dằn, trừ hai đứa tôi ra. Tôi và Tuấn là những kẻ
phiêu lưu, chúng tôi đưa nhau đi chơi đầu ghềnh cuối bể
nên chẳng sợ gì một chút xíu nhọc nhằn. Ghế trên chúng
tôi nhường cho nữ nhi yếu đuối và các cụ thâm niên. Ngồi
sau tôi dễ dàng quan sát những điều xảy ra trước mắt.
Trong lúc chờ xe
chuyển bánh, tôi quan sát Hà Thành bừng tỉnh giấc nồng qua
cửa kính. Bên vỉa hè, những người bán hàng rong bắt đầu
đến, quang gánh nhịp nhàng trên đôi vai. Một bà cụ già
tóc bạc trắng, đặt hai chiếc thúng lớn bên đường. Bà
lấy ra cái mẹt, xếp đặt từng bó hành ngò tươi xanh mơn
mởn. Trong tiệm, sau lưng bà, một bà cụ đang làm bánh cuốn.
Bà cụ này mặc áo nâu, tóc bạc quấn trong chiếc khăn vành
nhung đen, quanh cổ đeo một chuỗi ngọc xanh, những hạt ngọc
lớn bằng viên bi giữa ngực. Tôi nhớ rằng ngày xưa thuở
nhà còn khá giả, mẹ tôi cũng có một chuỗi ngọc xanh tương
tự. Sau ngày tôi di cư sang Mỹ, ba tôi mất, mẹ phải bán
chuỗi ngọc để nuôi các em tôi, cho đến ngày tôi bắt được
liên lạc, có thể gởi chút ít tiền về giúp đỡ gia đình.
Bà cụ này chắc cũng khá giả vì có được một gian nhà
ngay phố chính để làm tiệm ăn. Bà thoăn thoắt đổ vá bột
lên tấm vải căng trên miệng nồi hấp. Tráng bột thật mỏng
và đậy cái vung lại. Trong vòng ba mươi giây, bà lấy một
thanh tre dài, nâng tấm bánh mỏng tanh, đặt lên cái khay nhôm.
Bà lấy chút xíu nhân thịt, bỏ vào giữa tấm bột, cuốn
lại tròn trĩnh. Diễn tả thì lâu lắc thế nhưng động tác
của bà rất là nhanh nhẹn. Chỉ trong vòng năm phút, bà đã
làm ra cả chục cái bánh cuốn trên dĩa. Nóng hổi, thơm phức
mùi hành chiên. Bà mỉm cười, hàm răng đen nhánh, đặt dĩa
bánh trước mặt một người khách đang kiên nhẫn chờ đợi.
Có lẽ bụng đang kêu rột rột và nước dãi đang ứa đầy
mồm, như cảm giác tôi đang có.
Trên đường, các
cô gái bán hoa tươi bắt đầu đến từ một chợ hoa nào
đó. Các cô đạp xe đạp, mặc áo bà ba, đội nón lá. Sau
lưng cô là một thúng hoa đầy. Hoa cúc vàng, hoa huệ tây,
hoa hồng, thược dược. Các cô nhanh nhẹn, len lỏi qua dòng
xe cộ khắp ngả đường đã tràn ngập người đi.
Xe bắt đầu chạy,
chốc lát đã ra ngoại ô Hà Nội. Dọc đường lộ, có những
khu chợ nhỏ, tụ họp đông đảo. Tôi chăm chú nhìn những
món hàng bày ra trên đất. Xe chạy chậm để tránh những
rổ rá, gồng gánh bạn hàng bày cả ra đường. Rau cải, bầu
bí, thịt tươi, cá sống, gà vịt và cả mấy con lợn nằm
ọt ẹt trong rọ tre. Qua khỏi khu chợ, ruộng lúa, ao đầm
trải dài hai bên xa lộ. Trời tờ mờ sáng, sương mù giăng
trắng xóa, xa xa, những con đường đất nhỏ chạy giữa đám
ruộng xanh. Dọc đường, hàng cây cao, thân mỏng manh, lá lăn
tăn rủ lướt thướt như cây lệ liễu, nhạt nhòa trong sương
sớm.
Xe chạy vun vút
trên đường gập ghềnh. Lòng tôi đảo điên bối rối vì
chỉ mong được dừng lại để chụp mấy tấm hình. Mỗi
lần thấy mặt mày tôi nhăn nhó đau khổ, anh Tuấn lại đưa
tay lên miệng ra dấu cho tôi yên lặng, đừng xin xe ngừng
sợ làm phiền kẻ khác. Sau một hồi lâu, chịu không nổi
nữa, tôi nói nhỏ với chị hướng dẫn nếu thuận tiện
cho xe ngừng vài phút để tôi chụp mấy tấm ảnh. Anh tài
gãi gãi cái đầu bờm xờm:
"Ðể tôi lui lại
cái cầu hồi nãy, có mấy bụi tre, chỗ đó đậu xe rộng
rãi!"
Lòng mừng khấp
khởi, tôi mở ba lô, lấy cái máy hình đeo lên cổ, len lỏi
ra hàng ghế trước đứng sẵn chờ xe ngừng.
Xe vừa ngừng, tôi
nhảy xuống chạy một mạch lên chiếc cầu bắc ngang sông.
Hai đầu cầu tre xanh mọc rậm rạp. Dưới sông, một cái
chòi tranh nho nhỏ, nổi cao trên mặt nước, nâng đỡ bằng
những nhánh tre khô. Chắc đây là chòi đựng lưới hoặc
những dụng cụ làm chài. Một anh ngư phủ mặc áo quần rách
rưới, chống chiếc thuyền nan nho nhỏ từ từ tiến đến
bên chòi. Nghe tiếng người, anh ngoảnh mặt nhìn lại chỗ
tôi đứng. Tôi nâng máy hình, bấm thật nhanh mấy tấm rồi
lật đật trở lên xe. Lòng tôi buồn buồn trước cảnh quê
nghèo, tôi lẩn thẩn nghĩ đến tấm áo rách vai và ánh mắt
của chàng ngư phủ. Từ khi trở về quê hương, biết bao lần
tôi phải nhìn những bờ vai áo rách, những chiếc nón xơ
vành, những bàn chân bùn lầy nứt nẻ để xót thương cho
thân phận nhược tiểu của dân tộc mình.
Xe lại chạy bon
bon trên đường thiên lý, chả mấy chốc trời đã sáng hẳn.
Người hướng dẫn dặn dò:
"Ai có hỏi anh chị
từ đâu đến thì cứ nói là ở miền Nam ra tham quan chứ
đừng nói thêm gì nữa. Ai có mời mọc mua sắm gì, nếu không
có ý định mua thì đừng nhìn hoặc trả giá. Dân ở đây
họ hay dây dưa lắm."
Nghe tiếng đối
thoại ngoài cửa xe, nhìn ra, tôi thấy có người cỡi xe Honda,
đi kèm theo xe chúng tôi, đang kêu gọi điều gì đó với anh
tài xế. Chị hướng dẫn giải thích: những người chủ ghe,
chạy ra tận đường lộ để tranh giành khách.
Ðến bến Ðục,
chúng tôi được đưa xuống một chiếc thuyền gỗ nhỏ chút
xíu, phải lót thêm mấy tấm ván ngang mới có đủ chỗ ngồi.
Chúng tôi ai nấy đều hồi hộp vì thấy thuyền quá khẳm.
Ghe rời bến Ðục,
trôi ra giữa dòng nước lênh đênh. Nhà cửa hai bên bắt đầu
thưa thớt. Trên dòng nhiều chiếc thuyền con lướt nhanh thoăn
thoắt, mỗi chiếc chèo bởi một chị đàn bà. Các chị đội
nón lá, có chị bịt mặt, chỉ chừa hai con mắt. Những người
này làm việc trên dòng suối Én. Họ chuyên chở những tảng
đất sét lớn, nạy lên từ dưới lòng sông bởi những chàng
thanh niên đang dìm mình tận bụng trong dòng nước. Sau khi
các cô cập chiếc thuyền đầy những tảng đất sét ấy
vào bờ suối, một toán thanh niên khác nâng đất ra khỏi
thuyền để đắp lên bờ suối. Chú lái đò cho tôi biết
rằng sau một ngày làm việc, mỗi nhân công ấy được lãnh
lương chừng độ một đồng rưỡi tiền Mỹ kim.
Thuyền cập bến
chùa Trình. Người hướng dẫn mời chúng tôi lên bờ, cúng
Trình để xin phép vào chùa Hương. Các anh chị Phật tử mua
hương hoa, đi van vái các bàn thờ Phật. Tôi xách máy hình
rảo quanh chùa, ngắm mấy cây đa, rể dài lòng thòng, tàng
lá rậm rạp. Tôi lững thững đi ngược bờ sông, dừng lại
ngắm những người đắp đê. Họ cười nói huyên náo mặc
dù lao lực mệt mỏi dưới nắng. Trông họ đầy sức sống,
đầy nghị lực, đang vươn lên tìm sự sinh tồn.
Trở lại bên chùa
Trình, thấy mọi người hoang mang chờ thuyền. Chị hướng
dẫn bảo chúng tôi:
"Chủ ghe muốn đòi
thêm tiền nên làm khó dễ, bắt đi bằng hai chiếc thuyền
nhỏ."
Nhìn xuống bến,
hai chiếc thuyền rỉ sét, nằm cạnh bên nhau, mỗi chiếc chở
chừng độ bốn người, trong khi đoàn tôi gồm mười tám
mạng. Chủ ghe bảo rằng mỗi chiếc thuyền nhỏ ấy chở
được mười người. Chiếc thuyền lớn kia phải chở tới
"ba mươi nhăm người mới lấy lại vốn." Chị hướng dẫn
một lần nữa lại phải kỳ kèo, mặc cả. Sau khi điều đình
tiền bạc xong thì chiếc thuyền lớn trở lại rước chúng
tôi lên đường.
Lênh đênh trên
dòng suối Én, tuy gọi là suối nhưng dòng nước lớn như
một con sông. Từ chùa Trình trở đi, nước bắt đầu trong
như lọc, nhìn được cả rong rêu dưới đáy. Trong lòng suối
có nhiều mảnh đất sói, tròn như cái mâm. Chú lái đò cho
biết rong rêu những chỗ ấy bị chết vì người ta cắm điện
xuống lòng suối để giết cá. Hai bên bờ suối, những rặng
núi thấp, cây cối xanh tươi, lác đác vài ngôi chùa nho nhỏ,
mái cong rêu phủ, ẩn hiện sau đám cây. Một rặng núi chạy
dài, uốn khúc như lưng con rồng nổi trên mặt nước. Từ
bờ suối đến chân núi đồng ruộng xanh tươi, chú bé phụ
lái đò mới có mười tuổi nhưng tinh khôn lắm, chỉ cho tôi
cách phân biệt ruộng lúa tẻ và lúa nếp. Chú nói chuyện
láu lỉnh, vì chú đã ra đời sớm, sống lẫn lộn trong kiếp
thương hồ, tiếp xúc với người hành hương bốn phương
tám hướng.
Thuyền trôi chầm
chậm trên dòng, gió hiu hiu thổi, tiếng nước róc rách qua
mạn chèo, phong cảnh tuyệt vời như những bức tranh thủy
mạc.
Thỉnh thoảng tôi
thấy một người câu cá, đứng đơn độc trên con thuyền
nhỏ. Một chị đàn bà ngồi giặt chiếu bì bõm, trên chiếc
thuyền vắt đầy những chiếc chiếu cạp điều. Thấy cảnh
đẹp, tôi đứng giữa lòng thuyền để chụp hình, thuyền
tròng trành làm thiên hạ la lên oai oái:
"Coi chừng lật
thuyền người ta, có cái thân bồ tượng mà không chịu ngồi
yên, chết cả đám bây giờ."
Tôi phì cười,
nhìn xuống đáy suối, nước chỉ sâu chừng hơn một thước,
nhưng tôi đành ngậm cười ngồi xuống. Chỉ vì đi với một
đám người nhát gan mà tôi không có nhiều hình ảnh suối
Én, một dòng suối thơ mộng nhất trong cuộc đời du lịch
của mình.
Tôi ngồi yên trên
thuyền, nắng mai ấm trên da, thò tay ra khỏi mạn thuyền,
dòng nước lùa qua kẽ tay mát rượi. Đàn chim nhỏ trong rừng
ríu rít, chỉ nghe tiếng mà không thấy hình. Có những dòng
lạch tách ra từ suối chính, vòng quanh co, biến mất sau rừng
cây. Trong một nhánh lạch, sen hồng khoe sắc trước ngôi cổ
tự. Một cặp vịt đi lạch bạch trên bờ, chợt nhảy tòm
xuống nước, duỗi cánh đập nước tung tóe. Đàn vịt con
theo gương mẹ, vội vã nhảy theo, có chú lật đật, trượt
chân lăn cù xuống nước, những chú vịt con cũng vẫy vẫy
cặp cánh nhỏ, thưa thớt lông vũ, lội quanh quẩn bên mẹ,
rúc cái đầu vàng tơ óng xuống nước tìm mồi.
Thấy tôi say sưa
nhìn đàn vịt, chú bé lái thuyền chỉ tay vào dãy núi xa xa,
nơi có những căn lều tranh lụp xụp:
"Dân trong ấy chuyên
nuôi vịt để sống, còn trồng trọt thêm khoai, sắn, chuối
để ăn."
Một bức tranh quê
đang vẽ ra trước mắt tôi. Nơi đây sông hồ lớn rộng,
chim bay, cá lặn, gió thổi mây ngàn, hồn lãng tử của tôi
tha hồ tung hoành, phiêu bạt.
Thuyền đi qua nhiều
ngọn núi. Chú lái thuyền chỉ hòn núi nhỏ, có đám cây um
tùm trên ngọn, bảo đây là "oản gà xôi." Quả thật, trái
núi tròn vun như một mâm xôi, những chùm cây um tùm trên ngọn
trông giống như một con gà luộc.
Tôi bảo Tuấn:
"Thơ ông Nguyễn
Nhược Pháp có câu: 'Qua núi oản gà xôi, bao nhiêu là khỉ
ngồi...' oản gà xôi phía bên kia còn đám khỉ thì đang ngồi
trên thuyền này."
Anh Tuấn lườm
tôi, ra dấu bảo đừng nói lớn, sợ các cụ nghe được thì
mất lòng. Tôi cụt hứng, không ba hoa nữa, tiu nghỉu ngắm
núi "con voi phục," lòng thầm khen ông Nhược Pháp, ông đặt
ra được một bài thơ tuyệt vời lại chính xác địa hình
địa vật. Bài thơ này có thể dùng làm tài liệu hướng
dẫn chuyến hành hương thơ mộng này. Mặt trời đã lên cao,
không khí bắt đầu nóng nực, thuyền cũng vừa cập bến
chùa Hương.
Dọc bờ suối, san
sát những sạp hàng bán nước, thức ăn và của tế lễ.
Bạn hàng thấy khách đến, nhao nhao mời mọc. Anh Tuấn mua
cho tôi một chai nước uống, tôi khoác ba lô lên vai rảo bước
theo các bạn đồng hành tiến lên con đường lát đá, cắt
ngang một cánh rừng thưa.
Ngoài cổng chùa,
một dãy nhà nhỏ, trống trải, có những sạp gỗ trải chiếu
hoa. Đây là dãy nhà trọ cho khách ngủ qua đêm. Mùa hội chùa
Hương đã hết nên khung cảnh êm ả, vắng lặng. Tôi đi vòng
quanh chùa, tò mò quan sát nhiều gian phòng thờ khác nhau, đại
khái gian nào cũng có lư hương, bàn thờ, nhang đèn, tượng
Phật, tượng Thần, Quan Âm Bồ Tát, ông Di Lặc, ông Quan Công,
bà Thị Mầu, Thị Kính... không biết đâu mà kể cho hết!
Tôi hì hục leo lên mấy chục bậc cấp, len lỏi vào các ngõ
ngách quanh co. Tình cờ tôi thấy một nhà sư trẻ, ngồi lắt
lẻo trên một bức tường thấp bên hông chùa. Thầy chăm
chú dùng kim chỉ, vá tấm áo cà sa bạc thếch của mình. Tôi
nấp trong bụi cây, kéo ống kính dài, len lén chụp hình thầy.
Dường như có linh tính, thầy ngẩng mặt lên nhìn phía bụi
cây tôi núp. Bị bắt quả tang, tôi bấm vội tấm hình, mỉm
cười vẫy tay chào, nhảy ra khỏi lùm cây, chạy vội xuống
đường chính, trước khi bị quở. Chụp hình bên xứ này
tôi hay bị phê bình hoặc quở trách. Tính tôi thích chụp
hình nên thấy cái gì cũng chụp, lâu ngày tánh tình trở nên
lì lợm, da mặt trở nên dày dạn chai đá. Cách đây mười
phút, có tên rỉa rói:
"Ðồ quỷ sứ,
ăn mày đẹp đẽ gì mà cũng chụp."
Tôi mặt mày tỉnh
bơ, giả bộ mình là người Đại Hàn, chả biết thằng cha
khỉ mốc kia nói cái gì mà nhi nhô loạn xị!
Ðường từ từ
lên dốc, đá mòn nhẵn, tảng thấp tảng cao, có tảng lắc
lư xiêu vẹo, màu đá nâu nhạt, xám nhạt hoặc hồng, vân
đá bạc chạy chằng chịt rất đẹp. Đến gần chùa Giải
Oan, tôi bắt đầu cảm thấy nóng nực và mệt mỏi. Ẩn và
Diễm nhảy thoăn thoắt trên mấy bậc thềm kêu tôi:
"Cô lên chùa này
coi, có suối nước mát rửa mặt cho khỏe."
Tôi nghĩ đến những
bậc cấp lên chùa, lắc đầu không muốn bước. Nghỉ mệt
xong, tôi cương quyết đứng lên, tiến về hướng động Hương
Tích. Thỉnh thoảng tôi dừng bước, vừa nghỉ vừa ngắm
cảnh núi non hùng vĩ chung quanh. Từ đường lộ chính, rẽ
ra nhiều con đường nhỏ, khi lên đồi, khi xuống dốc, dẫn
đưa tới những ngôi chùa xa xôi, chênh vênh, hiểm trở trên
sườn núi, ẩn hiện lờ mờ trong khói sương. Tôi dừng lại
quán nước bên đàng, uống trái dừa tươi, đãi chị hướng
dẫn một chén chè khoai mài. Giải khát xong, tôi uể oải đứng
dậy, anh Tuấn thương hại tôi mỏi mệt, tình nguyện đeo
ba lô. Tôi giữ một cái máy hình bên ngoài, lâu lâu thấy
cảnh đẹp, gắng gượng sức tàn, nâng máy lên bấm cò mấy
cái.
Gần đến động
Hương Tích, chị hướng dẫn đứng lại bên một sạp hàng.
Sau cái bàn gỗ thấp kê sát đường, một thầy đồ mặc
áo dài the đen, đầu đội khăn đóng, đeo kính lão, chòm râu
bạc, phất phơ đạo mạo, đang ngồi viết chữ Tàu. Tôi ngồi
xuống tảng đá bên đường, nhìn những tờ sớ vàng đỏ
treo trên vách trong lúc chị hướng dẫn nhờ ông viết sớ.
Tôi nhớ lại bài thơ "Ông đồ già" của thi sĩ Vũ Đình Liên:
Mỗi năm hoa đào
nở
Lại thấy ông
đồ già
Bày mực tàu
giấy đỏ
Bên phố đông
người qua...
Vì ảnh hưởng
của bài thơ này, xót xa cho ông đồ già tội nghiệp ấy,
không muốn để cho "mực đọng trong nghiên sầu," tôi
bèn xin anh Tuấn tiền, nhờ anh thuê ông đồ viết giùm tôi
mấy lá sớ để tôi cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe cho
mẹ tôi. Trong lúc anh ngồi trước mặt thầy, tôi lợi dụng
"nước đục thả câu," bấm cò máy ảnh nhanh như gió.
Rời ông đồ già,
tôi cầm ba lá sớ đỏ chi chít chữ Tàu, hớn hở quên cả
mệt, trèo thêm mấy trăm bực cấp nữa. May thay, đây là chặng
đường cuối, qua một cái cổng đá, cửa Ðộng Hương Tích
hiện ra đen ngòm dưới dốc. Trên đường xuống động, thỉnh
thoảng chúng tôi dừng lại, chụp hình giùm cho những khách
thập phương khác.
Ngoài động, nhan
nhản những sạp hàng bán hương đèn, hoa quả, tràng hạt.
Trong động, khói hương mù mịt, thạch nhũ như những giọt
nến khổng lồ chảy xuống từ trên trần cao, tạo thành những
hình thù kỳ bí. Không rành cung cách lễ Phật, tôi đi theo
chị hướng dẫn. Thấy chị lạy; tôi cũng lạy; thấy chị
vái, tôi cũng vái; thấy chị để mấy lá sớ trên bàn thờ,
thắp nhang, kê lên trán lâm râm cầu nguyện, tôi cũng lật
đật làm theo. Trong lúc tinh thần bối rối, tôi chỉ nhớ
cầu Trời Phật cho được trúng lô độc đắc của California.
Cầu xong, tôi đứng dậy, lòng tràn đầy hy vọng, bước theo
chị ra đốt sớ trong một cái lò than đen đủi đặt ngay
ngoài cửa động.
Trước khi rời
động, tôi nhìn lên dốc, thấy bóng anh Tuấn in lên nền trời,
giữa một vùng ánh sáng chan hòa. Ánh sáng viền trên những
bậc đá đen chạy dài xuống tận nơi tôi đứng, tôi đưa
máy ảnh lên, vội vàng thu lấy tấm hình trước mặt. Hình
ảnh anh đứng trong nguồn sáng ấy có thể là câu trả lời
của Trời Phật, nhắc cho tôi biết rằng mình nên vui hưởng
sự bình an trước mặt, trong vòng tay che chở và săn sóc của
anh chăng?
Ðường xuống núi,
mọi người vui vẽ chuyện trò, ai cũng sung sướng thỏa mãn
vì trong đời mình, ít nhất cũng một lần thăm được Động
Hương Tích. Anh Tuấn rất hãnh diện thấy tôi đã chiến thắng
được tất cả sự mệt mỏi, lười biếng, nóng nực để
hoàn thành cuộc hành hương. Anh luôn miệng khen ngợi tôi làm
cho tôi rất khoái chí vì ngỡ rằng mình giỏi thật. Chúng
tôi có ngừng lại nghỉ ngơi vài chặng, chiêm ngưỡng những
người dân quê, gánh gồng tre, củi, tranh, nặng nề di chuyển
xuống núi. Chuyện trò với du khách từ Bắc Âu hoặc châu
Úc đến và giả vờ điếc khi bị một anh chàng bán chim kiểng
càu nhàu vì chúng tôi không dừng lại mua chim cho hắn.
Xuống thuyền rời
bến chùa Hương, một lần nữa chúng tôi lại lững lờ trôi
trên dòng suối Én. Tôi ngắm lần cuối cùng những rặng núi
thấp chung quanh. Mùi nắng nồng nàn thơm da thịt, mồ hôi
mặn chảy trên mắt môi. Gió chiều hiu hiu thổi làm mọi người
buồn ngủ, mắt lờ đờ. Không ai hào hứng trò chuyện nữa
vì đã thấm mệt. Tôi cất máy vào ba lô lặng lẽ ngắm những
cô thiếu nữ chèo thuyền thoăn thoắt xuôi ngược trên dòng.
Tôi liên tưởng đến những con dã tràng miệt mài xe cát,
những con kiến lửa cặm cụi kéo hạt cơm, thời còn bé tôi
thường say sưa nhìn ngắm. Đời những con dã tràng và con
kiến ấy sẽ đi về đâu? Đời những người con gái ấy
sẽ đi về đâu?
Ngày mai, tôi đi
về khung trời mênh mông khác, hành trang là kỷ niệm, và xấp
hình ảnh quê hương. Một ngày nào đó trong đời, nhìn lại
mấy tấm ảnh xưa, chắc thế nào lòng tôi cũng xao xuyến
não nề, vẩn vơ tự hỏi:
Hỡi người muôn
năm cũ
Hồn ở đâu
bây giờ?
Hình ảnh cô bé
chùa Hương vẫn là một bóng hình bất diệt trong tâm tư tôi.
Ngày xưa, cô đi đôi guốc cao trên lối đời mộng tưởng.
Ngày nay tôi đi giày Reebok, vai đeo máy hình, tha thẩn mấy
dặm đường quê. Tôi cũng như cô, nhưng mỗi người dệt
riêng một giấc mộng.
(Nguyệt
San Thế Kỷ 21,1998)
Tu
chỉnh và thêm hình ảnh 06/05/2019_
|