Gần
đây, qua cuốn "Vua Duy Tân 1916" (Nguyễn Trương Đàn, nxb Văn
Học, 2014), chúng ta biết đến một số tư liệu mới, quan
trọng về cuộc Khởi nghĩa Duy Tân 1916, từ Trung tâm Lưu trữ
hải ngoại ở Aix-en-Provence, Pháp.
Đó
là 3 hồ sơ:
- Hồ
sơ AOM – GGI 65530 [1]
Troubles de l’Annam 1916 (Cuộc dấy loạn ở Trung Kỳ 1916)
-Hồ
sơ AOM - GGI - 9588: Cour d’Annam - Complot à Hue - Evasion et Deposition
de S.M. Duy Tan (Triều đình Annam - Cuộc mưu phản ở Huế -
Sự đào thoát và truất phế Vua Duy Tân)
-Hồ
sơ AOM - GGI - 1499: Rapports politiques de M. le Resident Superieur à
M. le Gouverneur General de l’Indochine (Những báo cáo chính
trị của Khâm sứ Trung kỳ gởi Toàn quyền Đông Dương).
Những
tài liệu trong 3 hồ sơ này rất phong phú, cung cấp cho chúng
ta nhiều thông tin về cuộc Khởi nghiã bất thành năm 1916,
nhờ đó chúng ta thấy cần kiểm chứng lại những hiểu biết
chưa đầy đủ và đôi khi sai lạc trước đây về cuộc khởi
nghiã này.
Chưa có được đầy
đủ hồ sơ quý già này, chúng tôi chỉ mong nêu lên một vài
sự kiện, mà tư liệu mới hé lộ.
1.
VỀ HAI TỜ TRÁT CỦA VUA DUY TÂN
1.2
TỜ TRÁT DƯƠNG ĐỨC TUYÊN
•
Phiên âm:
Trung Hưng Nam công ty
Vi trát sự nội ty Dương
Đức Tuyên
TRÁT:
tứ nguyệt sơ tam vãng
ngũ điểm tùng giá tại Nghi Phụng Môn
Bất tác vô diện
Trung ty đồng ký
Đương diện thụ trát
ấn
ấn
Văn ký mật sát
Ngự tiến chi bửu
Khâm sứ tòa phụng
sao
Bản sao
Sao
y nguyên bản
Q.
trưởng phòng
Sogny
đã ký
Đóng
dấu Tòa Khâm sứ Trung kỳ
•
Dịch nghĩa:
Trung Hưng Nam công
ty
TRÁT:
Trát đòi Dương Đức
Tuyên, làm việc tại nội ty, phải có mặt lúc năm giờ ngày
mồng ba tháng tư tại Nghi Phụng Môn để theo hầu. Không
được vắng mặt.
Trung ty đồng ký
Trát này được trao
tận tay
ấn
ấn
Văn
lý mật sát
Ngự tiền chi bửu
Tòa Khâm sứ phụng
sao
Bản sao
Sao y nguyên bản
Q.
trưởng phòng
Sogny
đã ký
Đóng
dấu Tòa Khâm sứ Trung kỳ
1.3
TRÁT CHO TÔN THẤT ĐỀ VÀ LÊ ĐÌNH THƯỞNG
•
Phiên
âm:
Trung Hưng Nam Quốc công
Vi trát phái nội ty
nhị danh
TRÁT:
Tôn thất Đề Lê đình
Thưởng
tứ nguyệt sơ tam nhật
vãng ngũ điểm
tựu tại Tây Nam môn
sĩ giá, phụng bổng võ phục y quan dữ Văn lý mật sát chi
bửu
Bất đắc dự đãi
Trung ty đồng ký
Đương diện thụ trát
ấn
ấn
Văn ký mật sát
Ngự tiền chi bửu
Khâm sứ tòa phụng
sao
Bản sao
Sao
y nguyên bản
Q.
trưởng phòng
Sogny
đã ký
Đóng
dấu Tòa Khâm sứ Trung kỳ
•
Dịch
nghĩa:
Trung Hưng Nam Quốc
công
TRÁT:
Trát đòi hai người
ở nội ty là
Tôn thất Đề và Lê
đình Thưởng
ngày mồng ba tháng tư,
lúc năm giờ, đến tại cửa Tây Nam phò giá, đem theo võ phục,
mũ và ấn Văn lý mật sát.
Không được vắng mặt.
Trung ty đồng ký
Trát này được trao
tận tay
ấn
ấn
Văn lý mật sát
Ngự tiền chi bửu
Tòa Khâm sứ phụng
sao
Bản sao
Sao y nguyên bản
Q.
trưởng phòng
Sogny
đã ký
Đóng
dấu Tòa Khâm sứ Trung kỳ
1.4
Hai tờ trát cho chúng ta biết những gì?
- Từ
năm 1915, Việt Nam Quang Phục đã liên lạc được với vua
Duy Tân và vua Duy Tân đã nhận lời tham gia Việt Nam Quang Phục
Hội. Người Pháp đã tìm thấy 1 tờ chế đề ngày 20 tháng
3 năm Duy Tân thứ 9 (5.5.1915) giấu dưới viên gạch lót phòng,
mà nội dung là phong chức cho Hoàng Trọng Mậu (Hà Tĩnh),
Nguyễn Bùi Lễ (ở Quãng Nam), Trần Phú (Hà Tĩnh) và Vũ Đình
Xán(Nghệ An). Hoàng Trọng Mậu (tức là Nguyễn đức Công)
là một nhân vật trọng yếu của Việt Nam Quang Phục hội
(thành lập ở Quảng Châu năm 1912).
Đó là người sẽ chỉ
huy quân đội trong một cuộc khởi nghĩa…!
Ở tờ chế này có
mấy điểm đáng chú ý:
- Vua tự tay viết tờ
chế.
- Vua đã có liên lạc
với Việt Nam Quang phục hội (kỳ bộ Trung kỳ), có thể là
tứ Thái Phiên.
Thời gian này Phan Bội
Châu đã bị bắt giam ở ngục Quãng Châu (1913-1917). Nguyễn
Thượng Hiền thay Phan Bội Châu lãnh đạo hội, giao thiệp
với đại sứ Đức và được giúp đỡ. Thái Phiên liên
lạc với VNQPH qua ngả Hồng Kông và Thái Lan.
Đó cũng là lý do để
VNQPH, trong hội nghị ở Huế, tháng 9-1915, có kế hoạch tiếp
xúc chính thức với nhà vua và mời vua đứng ra lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa năm 1916.
Danh xưng VNQPH được
che giấy dưới mật danh Trung Hưng Nam công ty, một danh xưng
có nghĩa tương đồng với Việt Nam Quang Phục. Trong Công ty,
vua Duy Tân được gọi với mật danh Trung Hưng Nam Quốc Công.
Do đó, vua Duy Tân trong
hai tờ trát đều xưng danh và các thị vệ Tôn Thất Đề,
Lê đình Thưởng, Dương Đức Tuyên tiếp nhận sai phái như
là các hội viên của Việt Nam Quang Phục Hội với danh xưng
mới: nhân viên nội ty!
2.
Về Văn thư của Phủ Phụ Chính gửi Khâm sứ Trung kỳ về
việc kết án Trần Cao Vân và Thái Phiên cùng những người
tham gia cuộc khởi nghĩa. (Ảnh 3).Văn
thư của Phủ Phụ chính gửi Khâm sứ về việc kết án Trần
Cao Vân và Thái Phiên cùng những người tham gia cuộc khởi
nghĩa.
2.1 Bản dịch
Phủ Phụ chính kính
gửi thư đến Charles đại nhân, quan Đại Pháp sung Khâm
sứ đại thần tại Kinh đô xét rõ.
Nay nhận được (phúc
trình của) Hội đồng (xử án) gồm
Tham trị bộ Hình
Hoàng Quảng Phu,
Thị lang bộ Binh
kiêm Phó sứ Hộ thành binh mã Võ Liêm
Ngự sử Viên Đô
sát Tôn thất Uyển
Trình rằng:
Vào ngày mồng sáu tháng
này, vâng sai phái, Hội đồng đã tra xét về khoản phản
nghịch của Trần Cao Vân, Thái Phiên, đã lấy đủ lời cung
khai, xét rằng:
Trần Cao Vân đã từng
can án, được phóng thích nhưng không xét bổn phận của mình,
biết được Hoàng thượng nhỏ tuổi, đã dám ngầm bàn bạc
việc bên ngoài. Thái Phiên cùng âm mưu tụ tập bè đảng,
ngầm đến Kinh thành, tìm suất đội Siêu và tam đẳng (thị
vệ) Đề, ngầm liên lạc tin tức, xúi giục Hoàng thượng,
trộm lấy chiếu văn, tự phong quan tước, lại đòi xa giá
ra ngoài để tiện hiệu triệu.
Suất đội Nguyễn
Siêu, tam đẳng thị vệ Tôn thất Đề đều là những người
chầu hầu trong Nội, lại dám liên lạc với người
ngoài. Siêu thì nhận chức nguyên soái, trấn giữ hoàng thành.
Đề thì làm người thân cận hộ vệ khi vua đi ra ngoài.
Còn bốn tên Dương Đức
Tuyên, ngũ đẳng (thị vệ) Lê đình Thưởng, viên đội khố
vàng Hoàng văn Trí, Nguyễn Soạn tức Năm Hựu, Lê Châu Hàn,
Phạm Thành Chương, Lê Cảnh Vận, Nguyễn Khoan tức Ấm Vệ,
suất đội Lê Viết Kinh, Nguyễn Duy tức Xã Dụng đều là
cùng âm mưu.
Thất phẩm đội trưởng
Tôn Thất Quyền, bát phẩm đội trưởng Võ Nhàn. cửu phẩm
Mai Trí, Võ Ngô và Lại Hà đều biết sự tình.
(Hội đồng) đã phân
biệt xem xét xử tội đúng theo điều luật mưu phản đại
nghịch có ghi rằng:
"Phàm mưu phản (bất
lợi cho nước gọi là mưu làm nguy hại xã tắc) và đại
nghịch (bất lợi cho vua, như là mưu hủy phá tôn miếu, lăng
tẩm và cung điện) hể người cùng âm mưu không phân biệt
thủ xướng hay tòng phạm, và đã thi hành hay chưa, đều bị
xử tử lăng trì.Theo đó, bốn tên Trần Cao Vân, Thái Phiên,
Nguyễn Siêu, Tôn Thất Đề xin chiếu theo luật này, nhưng
miễn lăng trì, mỗi người đều bị chém lập tức,
bêu đầu để làm tỏ rõ luật pháp.
Còn ba tên Dương Đức
Tuyên, Lê Đình Thưởng, Hoàng Văn Tri tình tội nặng, nhưng
so với bốn tên Trần Cao Vân có khác, cần phải xử chém
ngay hay xử chém sau, xin do phủ chúng tôi thẩm định.
Đến như các tên Nguyễn
Soạn, Lê Châu Hàn, Phạm Thành Chương, Lê Cảnh Vận, Nguyễn
Khoan, Lê viết Kinh, Nguyễn Duy, Tôn thất Quyền, Võ Nhàn, Mai
Trí, Võ Ngô và Lại Hà xin đợi tra xét tội danh đích xác
và chờ lấy đủ cung khai sẽ tiếp tục trình lên xem xét.
Phủ chúng tôi đã bàn
chiếu theo bản án của Hội đồng ấy thì đã căn cứ theo
tình tội, chiếu luật xét xử phù hợp. Nhưng các tên
phạm Vân, phạm Phiên, phạm Siêu, phạm Đề xin cho xử trảm,
nhưng miễn việc bêu đầu. Còn ba tên Dương Đức Tuyên,
Lê đình Thưởng, Hoàng văn Tri xin chờ tiếp tục xét xử,
ngoài ra thì theo như hội đồng đã định.
Vì thế, xin viết văn
thư mong (Ngài) cho phiếu thẩm định để thi hành và tuân
theo với hết lòng kính trọng.
Ngay kính thư.
2.2 Nguyên văn (phiên
âm)
Conseil de Régence
Thời hiệu no. 135
Le 17 mai 1916
Phụ chính phủ thiểm
liệt kính thư Đại Pháp khâm sung trú kinh Khâm sứ đại thần
Sa quý đài đại nhân thanh giám.
Tư tiếp Hội đồng
Hình bộ Tham tri Hoàng
Quảng Phu
Binh bộ Thi lang kiêm
hộ thành binh mã phó sứ Võ Liêm
Lãnh Hình bộ Thị
lang Ưng Ân
Đô sát viện Ngự
sử Tôn thất uyển, trình tự:
Bổn nguyệt sơ
lục nhật, thừa phái Hội đồng tra cứu Trần Cao Vân, Thái
Phiên đẳng phản nghịch chi khoản, nghiệp dĩ cụ thủ cung
tiếu tại án phụng thẩm: Trần Cao Vân tiết kinh can án thích
hồi, bất sủy bổn phận văn đắc hoàng thượng xung linh,
cảm dữ ám thông ngoại sự chi Thái Phiên mưu đồng củ tập
đảng Khỏa tiềm vãng Kinh sư, tầm suất đội Siêu, tam đẳng
Đề ám thông tin tức túng dũng hoàng thượng, biển thủ chiếu
văn, tự phong quan tước, hựu yêu giá xuất ngoại, dĩ tiện
hiệu triệu. Suất đội Nguyễn Siêu, tam đẳng thị vệ Tôn
Thất Đề quân hệ thị hậu tại Nội, khước cảm thông
dữ ngoại nhân. Siêu tắc thọ nguyên soái chi chức, trấn
thủ hoàng thành. Đề tắc dĩ cấm chi thân tuỳ
giá xuất ngoại. Kỳ dư tứ đẳng Dương Đức Tuyên,
ngũ đẳng Lê Đình Thưởng, hoàng Khổ tân binh Hoàng Văn Tri,
Nguyễn Soạn tức Năm Hưu, Lê Châu Hàn, Phạm Thành Chương,
Lê Cảnh Vận, Nguyễn Khoan tức Ấm Vệ, đương liệt suất
đôi Lê viết Kinh, Nguyễn Duy tức Xã Dụng đẳng quân hệ
công mưu. Thất phẩm đội trưởng Tôn thất Quyền, bát
phẩm đội trưởng Võ Nhàn, cửu phẩm Mai Trí, Võ Ngô,
Lại Hà đẳng quân hệ tri tình. Phân biệt nghĩ xử tội,
thành ưng đắc cẩn án mưu phản đại nghịch luật tái nội
nhất khoản.
"phàm mưu phản (bất
lơi ư quốc, vị mưu nguy xã tắc) cập đại nghịch (bất
lợi ư quân, vị mưu hủy tôn miếu, sơn lăng cập cung khuyết)
đản công mưu giả bất phân thủ tòng. dĩ vị hành) giai lăng
trì xử tử đẳng nhơn. Kỳ Trần Cao Vân, Thái Phiên,
Nguyễn Siêu, Tôn Thất Đề đẳng tứ danh thỉnh ưng chiếu
thử luật miễn kỳ lăng trì, các hướng trảm lập quyết
Kiêu thị dĩ chính điển hình.
Tồn Dương Đức Tuyên,
Lê Đình Thưởng, Hoàng Văn Tri đẳng tam danh tình tội giảo
trọng nhưng thị dữ Trần Cao Vân đảng tứ danh hữu gián,
hữu ưng lập quyết hoặc hoãn quyết chi xử, thỉnh do thiểm
phủ thẩm định.
Chí như Nguyễn Soạn,
Lê Châu Hàn, Phạm Thành Chương, Lê Cảnh Vận, Nguyễn Khoan,
Lê Viết Kinh, Nguyễn Duy, Tôn Thất Quyền, Võ Nhàn, Mai Trí,
Võ Ngô, Lại Hà đẳng khẩn sỉ tra cứu tội danh xác tạc
tính dữ thượng vi đáo cứu đẳng khoản, sỉ duy thủ cung
tiếu lánh phụng tục trình tư biện các đẳng nhơn.
Thiểm phủ thương chiếu
giá án Kinh cai hội đồng tùy chiếu tình tội chiếu luật
nghĩ xử phả hợp. Kỳ phạm Vân, phạm Phiên, phạm Đề,
phạm Siêu thỉnh vấn trảm quyết, miễn kỳ kiêu thị.
Tồn Dương đức Tuyên, Lê Đình Thưởng, Hoàng Văn Trị đẳng
tam danh sỉ lánh tục nghĩ, dư hưu hội đồng sở nghĩ.
Triếp thử kính
thư chỉ kỳ thẩm phiếu bằng biện kiêm tuân kính trọng
chí ý.
Kim kính thư.[2]
2.3 Nhận xét:
2.3.1 Hội đồng xử
án: Triều đình Huế muốn giảm tính chất quan trọng
cua cuộc Khởi nghĩa bất thành. Hội đồng xét xử, đứng
đầu chỉ là một tham tri (tương đương với chức thứ trưởng
ngày nay) bộ Hình, hai thị lang bộ Binh và bộ Hình cùng với
một ngự sử Đô sát viện.
2.3.2 Xét sử 18 bị can:
gồm có hai lãnh tụ cuộc khổi nghĩa là Trần Cao VÂn và Thái
Phiên cùng hai thị vệ là Tôn thất Đề và Nguyễn Siêu
cùng 14 người khác. Bản án chỉ kết tội Trần Cao Vân
tái Phiên vào tội danh mưu phản đại nghịch và hai tòng phạm
là Tôn Thất Đề, Nguyễn Siêu. Hình phạt là chém ngay
và bêu đầu. 14 nghi can khác được hoãn nghị án, chờ
điều tra thêm.
2.3.3 Vai trò của Vua
Duy Tân được giảm nhẹ khi phán rằng "hoàng thượng nhỏ
tuổi" bị "xúi giục" và "trộm lấy chiếu văn" "tự phong
quan tước" "đòi xa giá ra ngoài". Vậy là vua Duy Tân thoát
khỏi trách nhiệm trong vụ khởi nghĩa. Bản án không
xem vua là một bị can để xét sử dù rằng nhà vua. đã bị
bắt và giam tại Trấn bình đài (Mang Cá), một nhượng địa
của Pháp.
2.3.4 Điều đáng nói
là không có bản án dành cho vua Duy Tân như nhiều sách viết
trước đây. Trong toàn bộ hồ sơ, nhất là hồ sơ mang
số hiệu AOM-GGI.9588 về "Triều đình Annam - Cuộc mưu phản
ở Huế. Sự đào thoát và truất phế vua Duy Tân, không hề
hiện diện bản án mà ông Lê Thanh Cảnh cho rằng đã dịch
từ nguyên bản chữ Hán ra chữ Pháp mà ông trích dẫn một
đoạn
"Vọng thính sàm ngôn,
khuynh nguy xã tắc"…
"Thủy nhi Hậu Hồ thùy
điếu, thiện tả chiếu văn, nhi Thương Bạc đình thuyền,
yêu nghinh Thánh giá. Hà Trung mạch phạn, Ngũ phong kê thang,
thánh thể phong trần giai bỉ bối vi chi tội nghiệt.
Nghĩa là:
" Nghe theo lời bậy
bạ khiến xã tắc lâm nguy. Ban đầu buôn câu ở Hậu
Hồ, chuyên quyền tả lời chiếu, kế đến đậu thuyền bến
Thương Bạc, đón rước nhà vua. Thiết vua cơm nếp làng
Hà Trung, cháo gà úi Ngữ Phong, mình rồng phải chịu dãi dầu
gió bụi, tội nghiệt ấy đều do bọn kia gây ra cả" [3]
Trong tất cả tài liệu
hiện nay, kể cả trong Đại Nam thực lục chính biên, không
đâu chúng ta có thể tìm thấy bản án mà ông Lê Thanh Cảnh
dẫn một đoạn! Ngược lại, nhiều chứng cứ cho thấy
điều ngược lại (!). Không hề có bản án kết tội
vua Duy Tân!
Đại Nam thực lục
chính biên – Đệ lục kỷ Phụ biên ghi chép về cuộc khởi
nghĩa bất thành năm 1916 với lời lẽ tương tự "bản án"
của ông Lê thanh Cảnh:
Mùa Hạ, tháng
4 (Quý Tỵ). Đêm ngày 2 (Canh Tý) vua tự rời ngôi báu.
… Lúc đầu giả
làm người câu cá sau hồ Tịnh Tâm, mưu xin chiếu văn, kế
tới Thương bạc dừng thuyền lừa mời ngự giá.
….
Kế mời xa giá
trở về ở đài Trấn Bình trong thành ngày 3 tháng 6 hộ tống
tới Nam kỳ. Mùa đông, tháng 10 lại đón phế đế Thành
Thái từ Cap Saint Jacques, cùng đáp tàu máy tới cư trú ở
đảo Réunion thuộc địa của nước Đại Pháp. (trang 642-643)
Một đoạn khác, cũng
trong Đại Nam thực lục Đệ thất kỷ, khẳng định rằng
Vua Duy Tân không hề bị kết án.
Khi bàn về việc tịch
thu tài sản riêng của vua Duy Tân, chính quyền Pháp trước
sau bất nhất:
- Ngày 28 tháng 4 năm
nay (Bính Thìn ) Quyền Khâm sứ Đại thần Le Marchand de Trigon
đã ủy nhiệm quan Hội lý Orband nghĩ định xử trí các khoản…
Tiền chi dụng còn thừa của Phế đế Duy tân thì ban ơn cho
làm tài sản riệng nhưng do Nam Triều giữ cấp.
…. Đến kỳ hội thương
ngày 8 tháng này,… Marchand nói xét lại khoản xử trí tài
sản của Phế đế Duy Tân… vĩnh viễn không được có tài
sản riêng!
Thượng tư Nguyễn Hữu
Bài nói "Phế đế không có bản án kết tội thì không được
tịch thu tài sản"
Marchand cho rằng vua Duy
Tân đã chống Pháp thì phải thịch thu tài sản còn Cơ
mật viện không muốn dùng chữ "tịch thu" vì không có bản
án thì dùng chữ gì thích hợp tùy các đại thần. Nhất
thiết phải sung vào ngân sách Nam triều gồm có 16.931 đồng
cùng hai tờ giấy gửi tiền ngân hàng! (trang 100 -101)
Nếu có thể xem là bản
án kết tội vua Duy Tân thì đó chính là bức thư của toàn
thể quan lại Nam triều gửi cho Toàn quyền Đông Dương ngày
10.5.1916 (tài liệu số 74 hồ sơ AOM-GGI.65530).
Bức thư có những cáo
buộc nặng nề và xác quyết rằng nhà vua không còn xứng
đáng tại vị:
"Chúng tôi nhận định
rằng, đức vua Duy Tân đã phản bội danh dự và lẽ phải
vì đã thiếu trách nhiệm đối với tổ tiên cao quý của
chính Ngài.
… Hành động của đức
vua đã làm cho Ngài từ nay không còn xứng đáng với vai trò
là vua của một nước nữa.
… Chúng tôi yêu cầu
Ngài [Toàn quyền Đông Dương] quan tâm đến bức tâm thư này
và nhanh chóng thông báo về quý chính phủ" [4]
Ngay sáng hôm đó, 10.5.1916,
Phủ Phụ chính họp tại toà Khâm sứ với sự có mặt của
Toàn quyền Đông Dương Roume. Các thành viên Phủ Phụ chính
được yêu cầu phát biểu ý kiến của mình.
- Phụ chính đại thần,
Trương như Cương: không một ai trong Phủ Phụ chính có thể
làm việc nếu nhà vua được giữ lại ngội vị!
- Thượng thư Bộ Hình
Thôn Thất Hân: Phải có một tân vương trong vài ngày tới
sau khi truất phế vua Duy Tân.
- Thương thư Bộ Lễ
Huỳnh Côn: Truất phế ngay vua Duy Tân và tìm người kế vị
- Thượng thư Bộ công
Nguyễn hữu Bài: Cần truất phế ngay nhà vua.
- Thượng thư Bộ Học
Hồ Đắc Trung: Nếu trì hoãn việc truất phế và tôn vua mới
tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
- Thượng thư Bộ Hộ
Đoàn Đình Nhàn: Việc truất phế vua Duy Tân và tìm người
kế vị là cần thiết, để chậm trễ sẽ bất lợi và bọn
phiến loạn sẽ có cơ hội nổi dậy.
- An Thành vương Miên
Lịch: truất phế vua càng sớm càng tốt.
Vậy là số phận của
vua Duy Tân đã được quyết định. Chẳng những thế
Tôn thất Hân còn đề nghị phải đày vua Duy Tân ra khỏi
Đông Dương và cuối cùng Phủ Phụ chính cho rằng tốt nhất
là nhân dịp này, đưa vua Thành Thái và Duy Tân ra khỏi Đông
Dương!
Không có bản án cho
vua Duy Tân như từ trước đến nay vẫn nghĩ, không có một
ai trong Nam Triều bên vực vua Duy Tân. Đó là sự thật.
(1)
AOM-GGI: viết tăt. của Archives Nationales d’Otre-Mer – Gourverneur
General de l’Indochine.
(2)
Phiên âm và bản dịch của Trần Đại Vinh
(3)
Hoàng Trọng Thược – Hồ sơ vua Duy Tân, nxb Mõ làng, in lần
thứ hai, San Francisco, USD, 1993, trang 161-162
(4)
Ký tên dưới bức thư là 39 nhân vật đã dự bàn việc truất
phế :
- TÔN NHƠN PHỦ : 1.
An thành vương Miên Lịch 2. Tuyên Hóa công Bửu Toàn 3. Hưng
Nhơn công Bửu Liêm 4. Phụ chính Tôn thất Hân 5. Tả tôn Khanh
Ưng Huy 6. Hữu tôn khanh Ưng Hào 7. Phụng Hộ sứ Ưng Bàn 8.
Hộ phó sứ Ưng Trì 9. Thủ hộ sứ Bửu Thạch
- PHỦ PHỤ CHÍNH: 10.
Phụ chính Thương thu (TT) Bộ Lại Trương Như Cương 11. Phụ
chính, TT Bộ Lễ Hoàng Côn 12. Phụ chính, TT Bộ Công Nguyễn
Hữu Bài 13. Phụ chính, TT bộ Học kiêm quản Quốc tử giám
Hồ Đắc Trung 14. Phụ chính, TT Bộ Hộ Đoan Đình Nhàn.
- QUAN CHỨC VĂN VÕ NAM
TRIỀU:
15. Trung quân Đô Thống
HuongThỏa 16. Đô thống Dề đốc hộ thành Võ Văn Bân 17.
Tham tri Bộ Binh Nguyễn Kế 18. Tham tri Bộ Hộ Hường Khẳng
19. Tham tri bộ Lễ Cao Xuân Tiểu 20. Thống chế Trương Điềm
21. Thị lang Bộ Lại Hồ Văn Tri 22. Thị lang Bộ Binh, Phó
sứ Hộ Thành Võ Liêm 23. Thị lang Bộ Công Hồ Lương 26. Thị
lang Bộ Hình Ưng Ân 27. Thị lang Bộ Hộ Tạ Thúc Đĩnh 28.
Chưởng vệ Tả Tam Dương Đức Phú 29. Chưởng vệ Hữu Tứ
Lê Văn Bá 30. Giảng tập Mai Khắc Đôn 31. Thị lang, thự Tham
tri Bộ Hộ, Tham biện Phủ Phụ Chính Đặng Ngọc Oánh 32.
Thị lang thủ quỹ Bộ Lại Hồ Văn Tri 33. Hiệu trường trường
Hậu Bổ Nguyễn Đình Hòe 34. Thị lang Bộ Công Hồ
Lương 35. Tế tửu Quốc tử giám Nguyễn Văn Trình 36. Tham
viện Nội các Phạm Hoàn 37. Bang biện Phủ Phụ chính Nguyễn
Hy 38. Phó đốc giáo Hậu Bổ Lê Văn Miến 39. Thị lang, Thự
tham tri Bộ Công Nguyễn Xuân Tiêu.