Nhắc
tới dòng nhạc tiền chiến hẳn khán thính giả vào những
năm
trước
75 không quên một giọng hát cao, trong, thanh nhã và hiếm quý
của Kim Tước. Kim Tước là một trong những giọng hát làm
vừa lòng không những giới thưởng ngoạn biết và yêu nhạc
mà cả những nhạc sĩ thuộc thành phần khó tính nhất. Dáng
dấp quý phái, tiếng hát chuẩn lúc nào cũng đi sát với kỹ
thuật của cô, đã chinh phục được trái tim những người
biết nhạc và họ có thể nhắm mắt để thưởng thức mà
khỏi cần xem sự phô diễn của ca sĩ. Nhạc sĩ Vũ Thành,
ông bầu của ban nhạc đại hoà tấu thời bấy giờ là một
ông bầu rất khó tính mà trong đôi tai thẩm âm rất chọn
lựa, chỉ có giọng hát Kim Tước và Anh Ngọc vừa tai ông
thôi. Đồng thời, Kim Tước cũng được trân quý trong tầng
lớp nhạc sĩ qua mấy thế hệ như Dương Thiệu Tước, Nguyễn
Văn Quỳ, Vũ Thành, Phạm Duy, cho đến Hoàng Trọng, Văn Phụng,
Cung Tiến, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Lê Văn Khoa, Hoàng
Quốc Bảo...
Cô tên thật là Nguyễn Kim Tước, sinh tại Nam
Ðịnh. Cô học trường Pháp và đậu tú tài Pháp. Năm 14 tuổi,
cô bắt đầu bước vào ca hát chuyên nghiệp. Trong một cuộc
thi tuyển ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội, Kim Tước đoạt
giải nhất của giọng ca nữ. Kim Tước hát, trên đài Pháp
Á, trong ban nhạc giao hưởng của nhạc sĩ Nguyễn Phụng và
ban đại hòa tấu của nhạc sĩ Vũ Thành. Năm 1956, cô đã
trình bầy một số nhạc phẩm cổ điển của Mozart bằng
tiếng Pháp tại dinh tổng thống và là ca sĩ duy nhất được
vinh dự nhận hoa trao tặng từ tay tổng thống Ngô Đình Diệm.
Ban Tiếng Tơ Đồng
Từ trái: NS Hoàng Trọng,
Duy Trác, Thanh Sơn, Kim Tước, Tuyết Anh, Ánh Tuyết, Mai Hương
Trịnh Thanh Thủy: T được biết chị
đi hát từ khi còn bé và đoạt giải nhất trong cuộc thi tuyển
lựa ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội. Xin chị cho nghe chuyện
ngày ấy.
Kim Tước: Lúc đó tôi mới 11 tuổi, Bà
Minh Đỗ là dì ruột của tôi đang hát ở đài phát thanh Hà
Nội. Tôi mới di cư về thì bà ấy dẫn đi học đàn piano
với giáo sư Nguyễn Cầu. Nhà bà có cái đàn piano nên tôi
cứ đến tập. Có một hôm bà ấy dẫn tôi lên đài phát
thanh để xem bà ấy hát. Thế thì đúng vào ngày hôm đó có
cái cô ca sĩ nào đó không biết bị đau nên bà ấy bảo cứ
cầm bài mà hát đi. Vì từ nhỏ tôi đã biết xướng thanh
nên cầm cái bài hát là hát luôn. Một thời gian ngắn sau,
đài phát thanh Hà Nội bắt đầu tổ chức những cuộc tuyển
lựa ca sĩ và tôi đã ghi tên dự thi ngay trong lần thi hát
đầu tiên. Tôi chiếm giải nhất về giọng ca nữ, trong khi
Thanh Hiếu đoạt giải nhất dành cho giọng ca nam.
TTT: Cảm tưởng của chị ra sao?
KT: Tôi không thấy gì hết ngoài sợ. Mà
sợ lắm cơ, vì mấy ông giám khảo toàn những tay đại cổ
thụ của âm nhạc và đài phát thanh khảo thí như Hoàng Trọng,
Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Trần Văn Nhơn. v..v..Tôi phải
qua đủ các vòng thi cho đến khi vào chung kết thì đã quá
khiếp vì sợ. Mãi cho đến lúc sau này lớn lên gặp họ lại
vẫn còn sợ. Đã vậy về đến nhà có thêm nỗi sợ bố
la mắng, vì ông là người nệ cổ, không thích âm nhạc và
theo quan niệm "xướng ca vô loại". Do đó tôi không cảm thấy
vui vẻ gì dù được đoạt giải.
TTT: Tên bài hát đoạt giải của chị?
Xin kể một vài kỷ niệm đẹp thưở nhỏ.
KT: Đó là
bài "Ngọc Lan" của Dương Thiệu Tước. Ai cũng bảo bài đó
khó hát tại sao lại chọn. Tôi chẳng biết tại sao.
Sau khi đoạt giải tôi bắt đầu đi hát ở
các đài phát thanh để kiếm tiền giúp đỡ gia đình vì khi
ấy gia đình mới di cư từ ngoài Bắc vào còn túng thiếu
lắm. Tôi là chị cả trong gia đình 5 con và rất thương hai
cụ, nhất là mẹ tôi. Tôi còn nhớ một kỷ niệm suốt đời
không bao giờ quên. Khi ấy mẹ sinh cô em thứ ba, tôi khoảng
3, 4 tuổi, mẹ bị đau ngực vì cô em bú không hết nên sữa
ứ. Cụ rất nhiều sữa, bà bắt tôi bú cho ngực đỡ đau,
đỡ căng. Ối giời ơi, tôi không thể tưởng tượng được
sao ngày ấy tôi có thể làm được. Bên Việt Nam thường
sau một tuổi, đứa bé thường dứt sữa, tôi lớn rồi mà
vẫn phải bú sữa ứ. Mấy đứa sau cũng thế, do đó mỗi
lần cụ sinh tôi sợ lắm, một nỗi sợ kinh hoàng xen lẫn
mắc cở. Đã vậy sau khi sinh em, cụ thường đau tay chân,
tôi hay ngồi giúp mẹ bóp tay chân cho đỡ mỏi. Khi lớn lên,
lập gia đình và có con tôi mới hiểu và thương mẹ nhiều
hơn. Trời sinh ra phụ nữ với thiên chức làm mẹ phải chịu
nhiều đớn đau khi sinh con, vượt cạn, lại còn chăm sóc
chúng, cho bú mớm, chịu biết bao đau đớn, nhọc nhằn. Ngày
xưa các cụ còn sinh con ở nhà, nên tôi chứng kiến cái cảnh
đau đẻ kinh khủng như thế nào.
Tôi cảm thấy may mắn và hãnh diện được
trải nghiệm và sống qua những cảnh tượng rất hạnh phúc.
Thưở ấy, mỗi mùa hè, mẹ cho về nhà bà ngoại ở Nam Định.
Cụ ngoại có một trang trại(ấp) giống như đồn điền vậy.
Cụ vừa làm ruộng vừa nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, dê,
heo .v.v..Trong trại có một villa lớn. Cụ bắt tôi đi chăn
bò, cho bò ăn, vắt sữa bò. Khi ấy, tôi còn bé, sức thì
yếu, bàn tay bé tẹo. Tôi nắm cái vú lớn con bò mà vắt,
vừa vắt, tay vừa đau, mà con bò thấy khó chịu, đau, nó
đá cho một phát. Tuy thế được học những cái ở nhà quê,
tôi lấy làm sung sướng lắm. Cụ dạy nuôi tằm, dệt cửi,
tự dệt quần áo để mặc. Sau khi dệt thành vải may quần
đùi, tôi đem bùn và củ nâu giã nhỏ trét vào vải để nhộm
nâu rồi đem phơi. Tôi còn được học cách làm trà sen. Mỗi
sớm tinh sương, tôi chèo thuyền nan, thuyền thúng ra hồ sen.
Men hai bên bờ hồ có trồng cây vối, tôi hái nụ vối về
nấu nước pha trà. Rồi hái sen về, bóc hột đem phơi, và
lấy những tia vàng của hoa, đem về ướp trà cho các cụ
uống.
TTT: Sở hữu một giọng Mezzo Soprano(Bán
Kim), Chị có thể lên cao và xuống thấp trong một âm vực
rất rộng. Làn hơi dài giúp chị ngắt câu rất hợp cách.
Có những ca sĩ hơi không đủ, mới hát được hai ba chữ
đã hết hơi, nên hay ngắt câu tầm bậy, Duy Cường gọi những
ca sĩ ấy là chẻ vụn ca khúc như thái rau diếp! Xin chị cho
biết âm vực (quãng rộng) của giọng hát chị. Là một ca
sĩ được nhạc sĩ Phạm Duy và Vũ Thành ngợi khen và quý
trọng vì khi hát chị rất coi trọng kỹ thuật và cảm xúc
của tác giả. Xin chị chia sẻ chút kiến thức và kinh nghiệm
trong kỹ thuật luyện thanh.
KT
: Giọng hát của tôi giúp tôi có thể lên cao và xuống
thấp rất dễ dàng, nốt cao nhất tôi có thể lên là nốt
Đô. Chuyện mấy ông ngợi khen, thật ra tại ngày xưa mấy
ông nhạc trưởng hay nhạc sĩ chỉ muốn ca sĩ hát cho đúng
kỹ thuật và bài bản mà thôi, không được nhét tình cảm
vào. Trong khi họ sáng tác thì lại dựa trên tình cảm mà
viết, nhưng nếu ca sĩ hát theo lối cảm xúc dạt dào thì
họ không bằng lòng. Riêng tôi, họ viết sao tôi hát theo làm
vậy, không tự mình uốn éo, luyến láy thêm bớt. Ngoại trừ
họ viết uốn éo thì tôi uốn éo theo. Một thời gian sau,
theo thời thế, dĩ nhiên họ phải chịu sự thay đổi. Chính
họ cũng cảm thấy hát cứng quá thiếu sự truyền cảm và
khi viết nhạc họ cố viết sao cho có sự truyền cảm hơn.
Giới ca sĩ những thế hệ sau này, tự họ tạo ra lối hát
riêng của họ. Tôi thì tôi không thể bắt chước, cũng như
người khác không thể bắt chước lối hát của tôi được.
Thành ra các nhạc sĩ hiểu ra, người ca sĩ này sẽ hát theo
lối này, người khác sẽ hát theo lối khác, tự họ sẽ phải
mềm mại đi để theo những lối hát khác nhau của các ca
sĩ.
TTT: Vào thập niên 60, chị và Châu Hà,
Mộc Lan, hợp thành một ban tam ca Mộc Kim Châu nổi tiếng.
Xin cho biết phạm vi hoạt động của nó? Đầu thập niên
ấy, ngoài ban tam ca nữ này còn có một ban tam ca nữ nào không?
Sau khi ra hải ngoại, chị lại cùng Mai Hương và Quỳnh Giao
thành lập ban Tiếng Tơ Đồng, ban này hoạt động bao lâu
và tại sao lại tan rã.
KT: Ngày ấy tôi, Châu Hà, Mộc Lan hát
trong các ban nhạc khác nhau và nhận thấy ba giọng hát hợp
nhau(nhưng không giống nhau), nên đã gom lại thành ban tam ca
Mộc Kim Châu. Không dám tự hào nhưng ba giọng hát chúng tôi
rất hoà hợp. Thí dụ giọng của chị the thé, tôi có thể
hát the thé. Nếu giọng của chị xuống trầm, tôi có thể
làm theo như vậy được. Chúng tôi đã hiểu nhau đến độ
theo nhau, nương nhau mà hát rất thoải mái. Vì thế nó thành
một ban tam ca rất quyện nhau. Chúng tôi hát với nhau sung sướng
đến độ vừa hát xong một bài, cả ba cùng phá lên cười.
Chúng tôi cùng tự hỏi, tại sao có thể hát giống nhau, hợp
nhau như một cây đàn đến thế mà không ai ganh tị lẫn nhau.
Hát hợp ca khó ở chỗ đó, không có người nào trổ giọng
ra, để tỏ ra giọng mình hay hơn, nổi trội hơn người khác.
Chúng tôi được nhạc sĩ Hoàng Trọng hướng dẫn và viết
hoà âm cho. Chúng tôi trình diễn ở các đài phát thanh, nhiều
nhất là Đài Phát Thanh Sài Gòn. Chúng tôi cũng xuất hiện
ở vài sân khấu xi nê trong phần phụ diễn trước khi chiếu.
Ngày ấy 1 xuất xi nê chỉ dài độ 1 tiếng. Phần phụ diễn
thường là tân nhạc hoặc có khi là hài kịch. Ban tam ca ra
trình diễn được xem là mới mẻ vì lúc ấy làm gì có tam
ca. Chỉ có ban tam ca chúng tôi là độc nhất thôi. Chúng tôi
cũng hát phụ hoạ cho các ca sĩ thâu đĩa như Hà Thanh hay Khánh
Ly nhưng chưa bao giờ chúng tôi thâu đĩa với nhau. Đôi khi
chúng tôi gọi đùa nhau là "Les Trois Mousquetaires"(Ba chàng ngự
lâm quân pháo thủ).
Sau 1975, Ban Tam ca Tiếng Tơ Ðồng do tôi và Mai
Hương, Quỳnh Giao ra đời nhưngvì mỗi người định cư ở
một nơi, lâu lâu mới họp lại hát rất bất tiện nên chỉ
hoạt động được một thời gian.
Ban
Tiếng Tơ Đồng Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao
TTT: T nghe nói trong quá khứ, chị có
điạ vị xã hội là phu nhân của một đại tá Hải Quân
chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang. Vào những năm
trước 75, chị hoạt động ca hát thường xuyên, chuyện này
có ảnh hưởng hạnh phúc gia đình chị không?
KT: Ngày đó tôi đi làm và ca hát, nhà
tôi thì đi lính, xa nhà hoài, đời sống cả hai thiếu sự
gần gụi. Sau này chúng tôi xa nhau thật, vì thiếu sự vun
đắp tình cảm đưa đến sự tan vỡ. Tuy nhiên khi còn ở
với nhau, tôi vẫn làm tròn trách nhiệm của tôi nghĩa là
trong các buổi tiệc tùng như tiếp đón các quan chức trong
nước cũng như ngoại quốc, tôi đều lo toan. Tỷ như trong
vai trò tiếp đón ông Nguyễn Cao Kỳ, các hạm trưởng Hải
Quân hay Chỉ Huy Trưởng Đệ Thất
Hạm Đội của Hoa Kỳ, mọi người đều giao lại cho
tôi vì thời đó rất ít các phu nhân thạo ngoại ngữ, và
tôi nói được cả tiếng Anh lẫn Pháp. Ngày ấy, tiếng Việt
với tôi lại là ngôn ngữ thứ hai. Ngay từ nhỏ, tôi may mắn
được các cụ cho đi học trường sơ Pháp, nói toàn tiếng
Pháp. Bà sơ dạy tiếng Pháp lại gốc Ăng Lê nên tôi được
học cả tiếng Anh, giọng Anh của tôi lai giọng Ăng Lê.
TTT: Vậy chị là người thấm đẫm
văn hoá Tây Âu từ bé, trong lối suy nghĩ, hành xử và sinh
hoạt trong đời sống gia đình chị có bị Âu hoá không? thoáng
hơn, cởi mở hơn, thậm chí nổi loạn?
KT: Tuy được giáo dục trường lớp Tây
Âu nhưng nếp sống của tôi vẫn trong vòng lễ giáo vì bố
tôi là người trọng Nho học nên làm gì thì làm tôi cũng
phải khép vào khôn khổ Việt Nam. Ước vọng của tôi vẫn
là được tự do và phóng khoáng, nên một ngày nào đó nó
bung ra. Khi qua đến Mỹ tôi hấp thụ được văn hoá và lối
suy nghĩ của họ nên trong lối hành xử tôi thấy thoải mái
và tự do hơn.
TTT: Sắp tới chị và các thân hữu
có tổ chức một buổi nhạc thính phòng "Hát cho vui đời".
Sau một thời gian dài chị nghỉ hát, sao chị trở lại?, xin
cho biết lý do và cảm tưởng của chị.
KT: Lý do rất dễ hiểu vì các cô em tôi
muốn tôi trở lại hoạt động cho vui, nhân tiện có cơ hội
cho chị em hát với nhau. Tôi bảo họ làm lần này, còn tương
lai không biết bao giờ tôi có hứng được nữa. Có lẽ vì
bây giờ tôi không chịu được áp lực, không muốn nghĩ ngợi,
gò bó lại sợ bị nhức đầu. Tuy nhiên biết đâu, nếu còn
cơ duyên, hay tôi còn hát được thì hát tiếp. Nếu cảm thấy
hát không được nữa thì tôi dừng. Mình phải tự biết mình.
TTT: Cầu chúc cho tiếng hát vượt thời
gian của chị còn hoài cho khán thính giả ái mộ được thưởng
thức mãi.
Trịnh Thanh Thủy
(*) chữ của Vũ Thùy Hạnh