Ngút ngàn ở giữa rừng xanh
Hiện lên ngọn tháp một mình cô đơn
Người xưa đã chọn mặt tường
Để lưu giữ lấy tâm hồn thiêng liêng
Văn Lê
Tổ tiên gia đình Võ tộc làng Nam Phổ ngoài Bắc
nối gót Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong theo phong trào Nam tiến
đầu thế kỷ XVII. Cách đây hơn mười thế hệ, họ sớm
tách rời ra thành Cánh nhỏ lập gia phả riêng để dễ gần
gũi, thân mật nhau hơn trong những ngày tảo mộ, hiệp kỵ.
Chỉ ghi chép sơ lược để nhớ ngày mất, ít người được
ghi rõ tên họ vợ, ngày giờ sinh và quê quán. Trong số các
Cánh ấy có họ Võ Quang. Như trai trẻ thời ấy, họ là hai
anh em còn trẻ cùng nhau đi phiêu lưu, lúc đầu làm nhà nông-binh
sĩ khai phá đất hoang, tự lực bảo vệ cho đến lúc khai
khẩn đủ đất đai để thiết lập thôn xã và được gia
nhập vào lãnh thổ chúa Nguyễn. Năm 1949 đến lượt tôi có
dịp đi du học ở Pháp. Trong gia đình tôi ở mỗi thế hệ
thường có một người đi hoang, tôi tưởng tôi là người
thế hệ ấy. Không ngở chính biến bùng nổ, vào khỏang 1975,
gia đình nào cũng có người ra đi, đua nhau chạy tán loạn...Không
gia đình, không vợ con, tôi thông cảm hai vị tổ tiên của
tôi tìm ngưởi bạn đường bản xứ, lập gia thất với phụ
nữ địa phương, chắc chắn không cùng văn hóa, ngôn ngữ,
ở một môi trường phong tục, thủy thổ, tập quán, dù sao
khác hơn thời buổi bây giờ. Hồi ấy, miền Trung Việt Nam
là nơi định cư của nhiều nhóm Đông
Nam Á, đặc biệt Môn Khơ Me, trong ấy có Chăm, Bru Van
Kiêu, Cô Tu, Ê Đê...và Ta Oi. Gần đây, về Huế tôi được
đưa viếng những trại trồng cây ở A Lưới và gặp được
dân làng Van Kieu, Ta Oi, ít người Kinh. Nghe nói họ vừa mới
bị buộc định cư, nhà cửa sạch sẽ, con cái đông đúc
...Tôi tưởng tượng trong cơ thể tôi cũng như biết bao đồng
bào miền Trung, có thể có máu Chăm, Van Kiều hay máu Ta Oi,
Ê Đê ...từ dạo ấy đã hoà lẫn mà không biết, có người
cũng không muốn biết nữa.
Về làng, xem gia phả dòng họ, tôi nhận thấy
không có tên con gái các cụ bà trong số những cặp ông bà
đẩu tiên: phải chăng các cụ không phải là người Kinh?
Như vậy thì như nhiểu đồng bào khác, máu người dân tộc
trong cơ thể người Việt có đã từ lâu, sau mấy trăm năm
đã bị loãng dần đến nỗi người dân không xác định đươc
mình là ai. Hôm ở phòng thí nghiệm tại Paris, tôi có dịp
tiếp một cô sinh viên tuổi đôi mươi, người Pháp, dong dỏng
cao, tóc vàng, mắt xanh, xưng tên Huon. Tôi đánh bạo hỏi như
một người rành biết dân cư Pháp: Cô là người vùng Bretagne?
Cô cau mặt nhìn thẳng tôi, trả lời bằng tiếng Pháp trôi
chảy như người Pháp, lẽ tất nhiên cô là công dân Pháp
đã mấy đời: Dạ không, thưa ông, tôi là nguời Việt Nam!
Tôi ngã người, sửng sốt, không dè mình đến tuổi nầy
chưa phân biệt được người đồng hương, đồng xứ. Hỏi
thêm cặn kẻ thì tôi mới biêt và giải thích cho cô hay ông
cố của cô, dân Breton tùng chinh qua Việt Nam trước thế chiến,
có con với một bà tên Hường, con gái một ông Chánh tổng,
nhưng không cưới, có lẽ đã có vợ ở Pháp. Tuy vậy tôi
có biết chuyện thân phụ ông Harter, giáo sư toán của tôi
ở trường Trung học Khải Định, có bà mẹ cưới hỏi đàng
hoàng, có tên ghi trong sổ bạ. Như nhiều người thời ấy
(và ngay cả bây giờ) vì chỗ đứng trước sau, lầm lần
tên với họ và khi làm giấy tờ, ông không muốn (hay không
thể) để họ Pháp của mình và, trong trường hợp nầy, khai
Hường là họ của vợ. Sau nầy về Pháp, họ Hường dần
dần mất chữ g, dấu huyền, râu ư ơ vốn gốc Bồ, và còn
lại Huon trần trụi. Sau bốn đời, tóc đen, răng nhuộm, nhường
chỗ cho tóc vàng mắt xanh, thường được xem là không phải
gen trội, thấy rõ trong một cô gái chỉ còn một phần tám
máu dân tộc Kinh. Cô không nói tiếng Việt nhưng tự hào là
người Việt! Cô Dominique Rolland, nhà dân tộc học, cháu ngoại
ông Harter mấy đời, vẫn còn nhạy cảm với những vấn đề
người Việt, chú ý đến thời sự ở Việt Nam.
Giờ đây, các cháu tôi, bà và mẹ người Pháp,
đều có tóc vàng, mắt xanh, ít nhất khi mới sinh. Tôi có
đứa cháu nội dáng dấp hoàn toàn người Âu, lúc còn nhỏ
ở trường tiểu học, trước mặt bạn bè trong lớp ngạc
nhiên, bảo một cậu bạn cùng lớp họ hoàng phái: gia đình
mày có nợ với gia đình tao, nhân nói đến
chuyện cụ Hồ Oai bị Đoàn Trung chém đứt lỗ tai khi
đóng cửa thành nội để cứu sống
vua Tự Đức! Ngay sau đó, vua
Tự Đức ban cho ông cố ngoại tôi một chiếc tai vàng
để tạ ơn và trong sử triều Nguyễn có sự tích Lỗ Tai
Vàng. Tôi không biết người Chăm hay người Ta Oi có những
đặc tính gì nên tôi không biết tôi có gì giống họ. Dù
sao, tôi có dáng đấp người Đông
Nam Á, thân thấp, tóc đen như bao bạn bè, thành thử
khi qua Nam Dương tôi không lấy làm lạ khi anh bạn hướng
dẫn Bali gọi đùa tôi cậu bà con phương xa. Một hôm, từ
Katmandou, chúng tôi được đem xem mặt trời mọc ở chân Hy
Mã Lạp Sơn. Thấy ông sĩ quan biên giới Nepal chăm chăm nhìn
tôi, tôi nhờ anh hướng dẫn hỏi thì được giải thích:
tôi giống người bản xứ Newa, những nghệ nhân chạm trổ
đồ gỗ trong vùng, mà suốt buổi sáng chẳng nghe tôi nói
một tiếng Newa! Thật vậy rất hiếm người Newa biết nói
tiếng nước ngoài. Thành thử, khi về Việt Nam, đi viếng
các tháp Chăm, bọn cháu khó hiểu khi tôi giảng máu chúng
có thể hòa tan, tuy một phần nhỏ, máu Chăm của các nghệ
sĩ đã xây dựng lên những kiệt tác nầy và những
bà răng nhuộm đen, hút thuốc lá là hậu duệ tổ tiên bên
ngoại. Định cư trên đất Pháp hơn một nửa thế kỷ, vào
lúc gần đất xa trời, tôi cảm thấy đất nước Việt xa
xăm mà sao lại gần gũi trái tim mình thế! Và di tích đền
đài Cham Pa là di sản đang còn tồn tại trong lòng người
miền Trung...
Phụ nữ, trẻ em Van Kiêu, Ta Oi
Thành
Xô mùa thu 2017
|
|
|
kẻ tha hương Võ Quang
Yến
|
|