Thường
đi qua một nước lạ, tôi hằng mong được ngắm nhìn những
phụ nữ bản xứ trong y phục của họ. Hơn nữa, nếu được
chiêm ngưỡng trang phục trong một lễ cưới tràn đầy hạnh
phúc thì lại là một nỗi vui mừng khác. Hồi qua viếng Séoul,
tôi được biết người Hàn Quốc, như ở Paris, thích làm
đám cưới ngày thứ bảy và sau đó đôi uyên ương xúng xính
trong y phục cổ truyền đem nhau ra công viên chụp ảnh kỷ
niệm. Thế là tôi tranh thủ đi xem cho kỳ được vì nếu
may mắn thì chỉ trong một buối sáng có thể thỏa mãn ước
vọng. Và cơ duyên đưa đẩy tôi đến một ngôi nhà gọi
là điện Khổng Tử vào lúc một đám cưới đang bắt đầu.
Ở một nước xưa kia theo Phật gíáo, ngày nay chỉ còn khoảng
30%, thế vào là 30% Công giáo, 20% đạo Tin lành, chân đứng
của Khổng giáo còn vững chắc được bao lâu ?



Khổng
giáo nhập cảng từ Trung Quốc dưới thời Tam Quốc, đã ảnh
hưởng nhiều lên người Hàn Quốc, dần dần trở nên một
thành phần cốt yếu của hệ thống đạo đức, lối sống
và luật lệ. Qua thời đại Joseon, nhiều trường phái xuất
hiện và vào giữa thế kỷ XVI, phát triển đồng thời với
Lão giáo và những thuyết vật linh, Khổng giáo đạt tuyệt
đỉnh với những nhà tư tưởng danh tiếng như Yi Hwang, Yi
Yi tức Julgok. Trong ngũ thường của đạo thuyết Khồng tử,
Lễ là điều thứ ba sau Nhân, Nghĩa và trước Trí, Tín. ‘’Nhơn
sanh vạn vật tối linh, lễ giả thiên địa chi tự giả. Lễ
là khuôn viên trọng thể của con người, làm người sở dĩ
linh hơn muôn vật, chỉ nhờ biết giữ lễ mà đặng phần
tôn quí hơn. Qui cũ chữ lễ là để chế sửa phong tục, nhân
quần xã hội, quan hôn, tang tế. Chữ lễ ở đây không chỉ
là lễ phép, đức độ kính trên nhường dưới trong đạo
vua-tôi, cha-con, vợ-chồng, anh-em mà còn thể hiện qua
những hình thức lễ nghi theo truyền thống đương thời’’.
Vì vậy, ngày nào người Hàn Quốc còn trọng chữ Lễ thì
bất chấp đạo giáo, đám cưới còn được tổ chức, nếu
không ở đền Khổng Tử thì ít nhất cũng ở tư gia, nếu
không y phục cổ truyền thì cũng áo quần chỉnh tề, trừ
phi giới trẻ theo trào lưu thế giới, trai gái ăn ở với
nhau mà không cưới hỏi như trước.



Tên y phục truyền
thống của người Hàn Quốc là hanbok, gọi tắt danh
từ hangukboksik. Hơn là một trang phục cổ truyền, nó
là một trang phục quốc gia, phản ảnh bản sắc và di sản
văn minh đất nước. Lịch sử trang phục nầy đi đôi với
lịch sử Hàn Quốc vì nhiều dấu vết đã thấy trên các
tranh tường lăng tẩm các vị đế vương và nhà quý tộc
vương triều Goguryeo (37tTC-668). Trong hệ tư tuởng Khổng giáo,
cách ăn mặc phản ảnh một tổ chức xã hôi chặt chẽ :
bất chấp ở trường hợp nào, mỗi người phải có y phục
của giai cấp mình. Trải qua nhiều thế kỷ, áo hay váy thay
đổi độ dài, cánh tay hay váy thay đổi độ rộng… y phục
thường xuyên thay đổi ít nhiều cho đến thời đại Joseon
(1392-1910) mới thấy một hiện tượng thời trang do các bà
truyền bá, đưa đến thể dạng ngày nay. Theo nguyên tắc áo
quần không được dính vào mình mà phấp phới, tương tự
y phục Việt Nam, từ đấy có tên ‘’y phục gió’’, hanbok
có nét đẹp dựa lên những màu sắc hài hòa, những nét uốn
cong uyển chuyển. Màu sắc ngày càng nhiều, càng sặc sỡ,
áo ngày càng ngắn lại, chỉ có váy mặc đã cao quá ngực
thì khó lòng cao thêm. Tuy nhiên, trời nóng nực, cần vận
động nhiều thì áo quần cũng cần được cải tiến cho hợp
với xu hướng của một nước từng biết dung hòa hiện đại
và truyền thống. Trước khi chấp nhận y phục phương Tây
cách đây gần một thế kỷ, nhất là bên phía nam nhi, hanbok
là áo quần hằng ngày của người Hàn Quốc. Ngày nay, trang
phục nầy tuy đã cải tiến, được xem như là lễ phục,
chỉ mặc khi có đám cưới.hay một lễ hội, mỗi lễ có
một bộ khác nhau.



Phỏng theo kiểu
mẫu thời Joseon, cả hai giới đều mặc một cái áo ngắn
geogori,
nhưng nếu áo đàn ông ít thay đổi, áo đàn bà ngày càng
ngắn lại. Tuy vậy, trên thực tế ngày nay áo phụ nữ vẫn
dài hơn áo nam nhi. Áo gồm có một phần lớn nhất gọi là
gil
bao phủ trước và sau phần trên cơ thể và cánh tay, một
dải lụa
git trang trí cổ áo trắng
dongleong có
thể tháo ra. Đàn ông mặc một cái quần
paji, lụng
thụng so với quần Tây phương, bó lại ở mắt cá. Sở dĩ
quần có kích thước nầy là vì thiết kế cho những người
thường ngồi trên mặt đất, thói quen ở Á Đông. Phủ lên
bộ áo quần nầy khi có lễ là một chiếc áo khoác durumagi
màu
trắng, xám hay xanh. Dùng để mặc chống rét còn các loại
áo choàng po
(hay
jumagi),
jokki, magoja. Áo po
thiết
kế từ thời Goryeo còn được dùng cho tới triều đại Joseon.
Hai áo jokki
và
magoja sáng tạo chậm hơn, vào cuối
triều đại Joseon, tuy chịu ảnh hưởng Tây phương, vẫn được
xem như là trang phục truyền thống. Tương truyền áo magoja,
còn gọi
magwae, được Heungseon Daewongun tức hoàng thân
Gung, thân phụ vua Gojong triều đại Joseon, đem về từ cuộc
lưu đày ở Mãn Châu, rất được phổ biến nhờ khả năng
giữ ấm cơ thể. Tùy thời tiết nóng lạnh, áo durumagi
có thể may bằng lụa, sợi, gai, hay vải, bông, len. Những
áo nhiều màu nầy đã được tặng cho đại biểu các nước
lại dự Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Busan năm 2005. Trên
đầu họ thường đội một cái mũ đen rộng vành gọi là
gat
làm bằng tre nhẹ lợp lông ngựa cứng rất thoáng khí. Đôi
dày kotsin bằng lụa thường được thêu với những
mẫu hình hoa, một trong những nét thanh lịch của trang phục.
Cả hai giới đều sử dụng tất ngắn beoseon, khác nhau
chút ít ở đường may, bên đàn ông thẳng hơn.


Phụ nữ mặc váy
truyền thống chima, danh từ chung cho các loại váy. Lớp
váy trong gọi là sokchima
lúc đầu giống váy ngoài nhưng
dần dần đai áo đuợc thêm vào và váy trong trở thành áo
lót không tay hay váy lót. Qua thế kỷ XX, chima được
mặc cùng váy lót, dưới áo
jeogori ở bên ngoài có thêm
cổ tay kheutdong khác màu. Thường váy chima từ
thân xuống rất thấp để tăng vẻ yêu kiều của người
mặc. Nó có thể là đơn giản một tấm vải hay kết đôi
hay có lớp lót. Có hai loại : xẻ đằng sau là pul-chima,
khâu lại là tong-chima. Để trang trí chima, mọi
mẫu đẹp hỗn hợp màu sắc đều được thêu vào. Phần
trên trang phục jeogori nếu rộng và đơn giản bên đàn
ông, tương đối ngắn và được trang trí nhiều bên đàn
bà. Có nhiều mẫu áo
jeogoritùy hàng vải, từ đó có
nhiều màu sắc khác biệt và cũng có nhiều kỹ thuật khâu
may. Phần lớn cácjeogori
đếu có thêm hai băng dài lủng
lẳng trước váy chima, thắt ngay dưới ngực thành cái
nút otgoreum, một trong những tiêu chuẩn cốt yếu đánh
giá nét đẹp và màu mè của y phục. Hai tiêu chuẩn khác là
đường vẽ hình cong mái nhà cổ truyền, lặp lại thành phần
dưới baerae tay áo jeogori hay áo ngoài magoja,
và cách chải chuốt băng vải kit quanh cổ áo jeogori.
Cổ áo trắng
dongleong đóng góp vào sự hài hòa của
toàn bộ y phục, đặc biệt vào việc làm nổi bật nét duyên
dáng đường cong của cổ các cô, các bà.



Ngày cưới, không
phân biệt địa vị xã hội, chú rể mặc trang phục giống
các vị phò mã rễ vua. Tóc búi lên đỉnh dầu, chú đội
mũ bokgeon sĩ tử hay mũ samo cánh chuồn, chân mang
ủng mokhwa. Phủ lên chiếc áo dài dopo là một
cái áo rộng dallyeong màu xanh nước biển hay màu đá
ngọc bích, thêu trên ngực hình hai con sếu màu trắng mào
đỏ. Trang phục samogwndae còn có một áo ngoài trên ngực
thêu hai con hạc trắng mào đỏ như quan văn trong triều, hay
thêu đôi sư tử trong trường hợp quan võ còn thường dân
thì chỉ thêu hoa văn trang trí. Trang phục cô dâu chuẩn bị
kỹ càng hơn. Hai đuôi sam tóc cô búi thành ssangye quanh nút
dari sau gáy, dưới khăn trùm đầu thêu hoa văn. Búi tóc
nầy tượng trưng cho cô gái chưa chồng, đám cưới xong thì
bện lại hay dùng jjokdaenggi.buộc lại thành dải. Áo
và váy phải là đồ mới may. Những cô dâu bình dân thường
mặc váy hai tầng màu đỏ, áo choàng ngoài màu vàng hay màu
xanh, thời trước màu xanh dành cho những cô mới lấy chồng.
Phụ nữ quý phái mặc một váy dài và rộng trang trí hoa văn
dát vàng seuranchima, áo khoác trang trí hoa văn màu đỏ tía
quanh tay áo và hoa cây bông tương trưng cho hạnh phúc quanh
cổ. Những cô công chúa còn có một áo choàng ngoài hwarof
hay wonsam có xẻ nách bằng lụa, thêu rồng phượng,
hoa văn dát vàng, thắt lưng
daedae rủ bên hông. Nói chung,
không có luật lệ khắt khe và mỗi gia đình tùy cơ định
liệu trang phục.





Trong đám cưới
truyền thống taerye, tất cả trang phục nầy còn được
giữ nhưng ngày nay, như ở mọi nước khác, thanh niên thiếu
nữ thích chọn y phục Au châu vừa tân thời vừa giản tiện
hơn. Tuy vậy, như ở nước ta, nếu nam nhi mặc đồ Tây, các
cô cỏn giữ y phục hanbok
truyền thống của mình. Về
tục lệ tuy được đơn giản hóa và thay đổi tùy gia đình,
một
vài chi tiết vẫn còn hiện hành : chọn ngày lành tháng tốt,
ứng định ngày cử hành hôn lễ thông qua bà mối, nhà trai
biếu tặng nhà gái một con ngỗng biểu hiện sự chung thủy,
nhà trai mang sính lễ tới nhà gái. Hộp quà tặng ham
không
có cau trầu mà thường đựng đồ trang sức cùng vải xanh
vải đỏ để may y phục truyền thống. Lễ cưới thường
đuợc tổ chức ở nhà cô dâu nếu không là ở điện Khổng
Tử. Trang phục chỉnh tề, khi chú rễ bước vào nhà gái thì
nhà cửa đã được bày biện : trên bàn thờ, đã được
đặt sẵn một bình gạo tượng trưng cho sự giàu có, những
quả táo sự trường thọ, một con gà sống sự sinh sôi, những
cành thông, cành tre sự chung thủy,…Cô dâu cũng ăn mặc chỉnh
tề, môi son má phấn, đặc biệt hai chấm son đỏ trên hai
má. Chú rễ có mang theo một con chim nhạn có màu sắc sặc
sỡ, đặt lên bàn thờ và quỳ vái. Ý nghĩa cử chỉ nầy
là cầu chúc cho đôi uyên ương mãi mãi yêu thương sống với
nhau như đôi chim nhạn. Sau đó, cô dâu chú rể đứng đối
diện nhau trước bàn cưới, vái nhau nhiều lần để tỏ vẻ
kính trọng nhau rồi cùng nhau uống rượu chú rễ trong một
cốc nhỏ, cô dâu trong một quả bầu cắt hai. Nghi lễ nầy
gọi là geunbairye nói lên sự hài hòa của đôi
uyên ương nay thành vợ chồng. Trước khi vào tiệc cưới,
cô dâu chú rễ vui mừng đón nhận những lời chúc mừng của
gia đình, bạn bè. Lễ nghi như vậy phần nào mất bề long
trọng nhưng tập tục truyền thống cơ bản của người Hàn
Quốc luôn vẫn còn được gìn giữ.
.

Rời điện Khổng
tử, theo lời dặn, tôi đi quanh công viên thì thật gặp được
một số vợ chồng vừa mới cưới đang làm mẫu cho những
nhà nhiếp ảnh. Lập tức tôi cũng tự nhiên lẫn vào trà
trộn với những nghệ sĩ bản xứ. Bất cứ trước cặp uyên
ương nào tôi cũng được tặng những nụ cười cảm ơn qua
ống kính đã tỏ ra có cảm tình với sắc đẹp của họ
và từ đấy cùng chia sẽ hạnh phúc với đôi vợ chồng mới
cưới. Các cô dâu luôn hớn hở tươi cười làm tăng vẻ
duyên dáng của cô gái trước một tương lai tươi sáng và
gây hào hứng cho một buổi lễ quan trọng trong đời. Có cô,
có lẽ tưởng tôi cũng là người Hàn Quốc, thêm vào một
tràng giải thích líu lo vui vẻ. Để khỏi làm cô thất vọng,
tôi gật đầu lặng thinh mĩm cười cảm ơn rồi vội vàng
rút lui để tránh làm phiền những cặp vợ chồng trong những
giờ phút hạnh phúc đầu tiên của đời họ.
ThànhXô
mùa Phật Đản 2558 ( 2014)
ảnh
trong bài chụp năm 1996
|
 |