|
7. Áo tứ thân, khăn
mỏ quạ
|
|
|
Trai xứ Huế thường ngẩn ngơ ngắm các nàng thong
dong trong tà áo dài phấp phới trữ tình, dân miền Nam thích
chòng ghẹo các cô vui tươi, rắn rỏi sau chiếc áo ngắn bà
ba, người miền Bắc một thời không ngớt ca ngợi các liền
chị liến thoắng, nhí nhảnh qua bộ áo tứ thân ngày nay chỉ
còn thấy ở các lề hội truyên thống hay trong các đoàn biểu
diễn nghệ thuật trên sân khấu. Áo tứ thân đi đôi với
khăn mỏ qụa, nón quai thao dải yếm đào, dây lưng xanh, quần
nái đen, tóc đuôi gà ,,. Không biết xuất hiện từ bao giờ,
áo bắt đầu được thấy nhiều vào những năm thập niên
20-30 thế kỷ XX. Chiếc áo dài nầy thường mang màu nền nã
như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh gián, mặc trên
một cái áo cánh mỏng màu trắng, vàng, ngà, có thể thay bằng
vải phin trắng, lụa mỡ gà. Áo gồm có bốn tà hợp lại
với nhau thành hai vạt, một vạt trước, một vạt sau, buông
xuống gót chân. Hai vạt trước tách rời, vắt chéo, có chiếc
thắt lưng giữ lại, có khi buộc lại với nhau thả trước
bụng, trên để hở một phần ngực phập phồng dưới dải
yếm. Hai vạt sau khâu lại với nhau trên một đường dài
gọi là sống áo. Có lúc một tà kép được thêm vào nhưng
áo không được gọi áo năm thân. Trái lại, có liền chị
mặc thêm bên trong hai cái áo tứ thân mỏng khác màu nữa
hợp thành cặp áo mớ ba mớ bảy nổi tiếng. Nhưng dù cái
tiến thế nào, danh từ tứ thân song song với cụm từ ‘‘tứ
thân phụ mẫu’’ luôn được giữ. Áo tứ thân lúc đầu
không có khuy mà có hai tay áo để xỏ vào khi mặc. Sau nầy
để cho tiện, khuy nhỏ mới được đơm vào, cài bên nách,
đính khuy bấm (nút bóp) vào tay áo, khiến cho Nguyễn Bính
có câu thơ thổn thức :
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng,
Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi !
Trang phục nội y, yếm nguyên là một tấm vải
hình thoi (ngoài Bắc) hay tam giác (trong Nam, miền Trung), có
một dây quàng vào cổ và một dây buộc sau lưng. Bắt đầu
thịnh hành từ thời nhà Lý thế kỷ XI-XII, người ta thường
tin yếm được tạo ra để tôn vẻ đẹp cái lưng ong eo thắt
của người phụ nữ, thể hiện đức hạnh một người vợ
ngoan, một bà mẹ hiền.
Ðàn bà thắt đáy lưng ong
Ðã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Về sau, vào khoảng các thế kỷ XVIII-XIX, yếm
được cải tân thành hình vuông (ngoài Bắc) đặt chéo trên
ngực, trên khoét làm cổ, hai góc trên đính dây quàng sau gảy,
hai góc dưới vẫn có dây buộc sau lưng. Cổ khoét tròn gọi
là yếm cổ xây, cổ nhọn hình chữ V mang tên yếm
cỗ xẻ. Bên phần các liền chị quan họ, trung niên mặc
yếm
cổ xẻ, thanh nữ mặc yếm cổ viền. Phụ nữ lao
động thường mặc yếm vải thô màu nâu, đen, gỗ mun. Con
gái nhà giàu, phu nhân tiểu thư mặc yếm vóc,
yếm
nhiễu hay dùng lụa mỏng nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm
thắm), vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng
nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)…, nhiều màu nhưng vẫn
giữ nét trang nhả. Người lớn tuồi mặc yếm màu xẩm kín
đáo. Nghe nói bắt đầu là các nghệ nhân thợ may người
Trạch Xá - Vân Đình (Hà Tây) cải tiến vào khoảng 1935. Yếm
thường may bằng lụa trắng hay giữ màu ngà của sợi tơ
cho các cô trẻ, nhưng cũng có khi nhuộm màu đỏ thắm cho
các cô dỏm dáng đến nổi có câu ca dao thất lễ
Một cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Yếm cỗ xe còn được gọi yếm cổ
nhạn nếu hình nhọn sẻ sâu xuống. Loại yếm nầy may
với vải lụa màu sắc sặc sỡ thì các cô gái thật tân
tiến mới dám dùng, mô tả trong câu ca dao ởm ờ ám chỉ
Thị Mầu lên chùa
Gió xuân tốc dải yếm đào
Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương.
Những cô gái Thăng Long ngày xưa đến mùa lễ
hội thường đi mua yếm, những cô khéo tay thì ra chợ chọn
tơ tằm về tự may lẩy. Những cô gái ngoại thành quanh năm
cần mẫn trồng dâu nuôi tằm, nay có dịp trưng bày những
sản phầm tuyệt hảo của mình, hân hoan chào mời những phụ
nữ thành thị ướm thử. Ngày xưa Thăng Long - Kẻ Chợ có
cả một ngôi chợ Ðồng Lạc bán yếm lụa bên cạnh một
phường nghề dệt nhuộm truyền thống phục vụ nhu cầu ăn
mặc, ngày nay còn lại tầm biển khắc chữ ‘‘Đồng Lạc
quyến yếm thị’’. Sau yếm còn phải lo dải yếm to buông
ngoài lưng áo và dải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi
phía trước cùng với bao và thắt lưng. Bao của các cô gái
quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi se, màu đen,
có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi
tiền mỏng ở trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng
áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để
che phía trước bụng. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ
bằng chừng một phần ba bao, dùng để thắt chặt cạp váy
vào eo. Tương tự yếm, thắt lưng cũng làm bằng lụa nhuộm
các màu tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa
đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thủy. Thắt lưng cũng buộc
múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi dải yếm tạo
nên những múi hoa màu sắc phía trước.
Hỡi cô thắt bao lưng xanh
Có về kẻ Bưởi với anh thì về
Nhìn lại quá khứ, dải yếm tuy nhỏ nhưng sâu
kín, mật thiết, đã trải qua biết bao biến đổi. Vào thời
kỳ Hồng Bàng, có lẽ các cô các bà chỉ mặc một cải yếm
đơn sơ trên một cái váy trong lúc các ông còn mang khố.
Đàn
ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc
yếm hở lườn mới xinh
Qua thời kỳ "tiền Thăng Long" yếm chắc cũng còn
đơn giản theo khiếu thẩm mỹ hồi đó, hình tròn khoét sát
cổ, màu sắc giới hạn trong số các chất nhuộm nguồn gốc
tự nhiên. Đến thời kỳ Đại Việt,
tình hình chính trị, xã hội, kinh tế ổn dịnh, Thăng
Long trở thành kinh đô, cuộc bang giao với nước ngoài phát
triển, thị trường vải vóc, hàng dệt ngày càng phong phú.
Xã hội đồng thời phân biệt đẳng cấp, trên có vua quan,
dưới có sĩ nông công thương, có người giàu, có kẻ nghèo,...Yếm
từ đấy cùng biến chuyển ra nhiểu loại tùy theo chất liệu,
màu sắc, họa tiết. Màu vàng vẫn bị cấm, dành cho hoàng
triều và áo khoác tượng Phật, màu đỏ tức đại hồng
dành cho con cái quan lại, màu hoa đào dành cho ca kỹ, người
đứng đắn mặc vào bị xem là lẳng lơ. Người phụ nữ
còn biết làm duyên làm điệu, chẳng hạn mặc yếm 5 khuy
thì chỉ cài 4 : để hở khuy là để khoe yếm cổ xây, khoa
trương cổ trắng nỏn nà. Có khi cắt hẹp yếm để hở hai
bên sườn thì lại càng hấp dẫn. Thời trang chỉ thật sự
bùng nổ khi nước ta bắt đầu tiếp
xúc Tây phương. Đồng thời với các bà cạo răng trắng,
các ông cắt búi tóc, các cô thay đổi kiểu mẫu, màu sắc
dải yếm. Dựa theo nịt vú (xu chiêng) Âu Mỹ, dây không quàng
vào cổ nữa mà chỉ buộc sau lưng. Nhưng nếu dải yếm ép
nẹp vú để dễ làm việc, nịt vú phô trương cặp vú nở
nang mà vẫn không tạo khó khăn cho vận động, từ đó khó
bể so sánh. Tuy nhiên có phần hơn là các cô có thể chỉ
mặc yếm khi trời nóng, mặc thế áo cánh đi ra ngoài, còn
xu chiêng chỉ để dùng trong nhà không có ai lạ. Dù sao, trong
một thòi gian khá lâu, dải yếm đã là một chủ đề quen
thuộc, đầm ấm, tạo ra tính lãng mạn trong văn chương thơ
ca và ngày nay cách tân trong hình ảnh mỹ thuật
Hỡi cô mặc áo yếm hồng
Ði trong đám hội có chồng hay chưa?...
Cô kia yếm trắng lòa lòa
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
Bao giờ cà chín cà xanh
Anh cho một quả để dành mớm con.
Phụ nữ thường để tóc dài, khi làm việc phải
quấn lại cho gọn gàng. Những người đứng tuồi quấn thành
búi tóc, những cô trè tuổi ngoài Bắc quấn trọn mái tóc
trong một miếng vải đen cuộn thành ống, bằng nhiễu hay
nhung gọi là khăn vấn.
Cái vành khăn em vấn đã tròn
Câu cười, tiếng nói đã giòn, em lại ngoan
Tóc quấn vào khăn vấn vài vòng thì rất chắc,
khó tuột, chỉ chừa ra chừng một gang tay, hay khúc tóc độn
nếu mái tóc không đủ dài, gọi là đuôi gà đong đưa theo
bước chân của cô gái.
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Phủ ngoài khăn vấn là một khăn khác chít lại
thành khăn vấn ngang, hai đầu cũng buộc ra sau gáy, gọi là
khăn đồng tiền mùa nóng, khăn mỏ quạ mùa lạnh.
Thương ai mặc áo nâu sồng
Chít khăn mỏ quạ lạnh lùng sớm trưa
Khăn mỏ quạ là một kiểu trang sức tế tựa
nhị, phải chít làm sao cho hợp với gương mặt cô gái. Khăn
phải bao gọn khuôn mặt nhằm mục đich làm nổi bật khuôn
mặt trắng hồng trên nền đen chiếc khăn tựa búp sen trên
mặt nước hồ.
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Kỹ thuật chít khăn không phức tạp lắm nhưng
phải chải chuốt : khăn vuông gấp chéo thành hình tam giác,
đặt lên vòng khăn vấn, bẻ hình mỏ quạ chính giữa đường
rẽ ngôi tóc, bắt hai góc khăn về phía hai tai rồi thắt múi
lại. Khăn đặt ngay ngắn trên đầu nhưng hơi xệ thành hình
bầu dục về phía gáy và ghim lại. Một cô gái muốn thành
người đẹp phải biết chít khăn vì là thời trang cả một
thời, có thể quan trọng hơn cả các đồ nữ trang : khăn
mỏ quạ, theo tục thờ chim, là một công trình cá nhân nói
lên bản ngã của mình. Chiếc khăn mỏ quạ chính là chiếc
mũ hình đầu chim, được làm bằng mỏ chim thật hay bằng
vải, tre nứa, hiện còn thấy trên những hình người và tượng
người của văn hóa Đông Sơn cũng
như của các nền văn hóa gốc
Đông Sơn khác
Nhìn em khăn vuông mỏ quạ
Ðể anh trong dạ tơ vương
Hai bộ phận quan trọng nhất trong di sản văn hoá
y phục quan họ Kinh Bắc là áo tứ thân và nón quai thao (còn
gọi nón ba tầm, nón dẹt, nón thúng, nón chủng, nón Nghệ
,..) (**). Nếu chiếc áo tứ
thân nửa kín nửa hở làm xao xuyến đấng nam nhi, nón quai
thao sang, đẹp được xem như mang nặng câu hát trữ tình.
Ai làm chiếc nón quai thao,
Để anh thương nhớ
ra vào không nguôi.
Không biết ra đời lúc nào, ai là người sáng
tạo, nón giống như một bánh xe lớn cở 70-80cm, lợp lá gồi
hoặc lá cọ. Lá nầy cần phải chọn lựa kỹ càng: lá mỏng,
sống nhỏ, không già vì màu vàng đậm, không đẹp, chỉ dùng
đề làm nón làm việc. Quanh nón là thành nón cao khoảng 10-12cm.
Thành nón giúp che khuôn mặt người đội tuy vẫn giữ thoáng,
mát. Giữa nón là khua nón, một vành tròn cao khoảng 8cm, ráp
đúng vào đầu để đội cho chắc. Tuy nhỏ, khua nón đòi
hỏi nhiều công phu để làm. Phải chuốt bóng sợi tre nhỏ
trước khi lấy chỉ móc trắng và săn như giây cước may kỹ
lại với nhau. Khua cần phải cứng để chịu đựng được
nón nặng. Mặt trong nón được lợp giấy vàng hay bạc, ghép
lại thành hình hoa lá, chim bướm, trang hoàng chiếc nón, gọi
là hoa nón. Thường ba loại nón được phân biệt: vành rộng,
sườn cao hơn hết là nón ba tầm, còn gọi nón Mười là nón
lớn hơn nón Nhỡ hay nón Ngang và còn lớn hơn nữa nón
Đấu. Mặc dù làng Chuồng (xã Phương Trung, huyện Thanh
Oai, tỉnh Hà Đông, Hà Nội hiện nay) có tiếng làm nón, khua
nón khó làm nên vẫn có làng chuyên làm khua :
Nón này chính ở làng Chuồng.
Làng Già lợp nón, Khương Thường bán khua
Hà Nội thì kết quai tua
Có hai con bướm đậu vừa chung quanh.
Trong nón quai thao, nếu chiếc nón là quan trọng,
quai thao cũng không kém phần cần thiết vì về mặt vật chất
nó giữ thăng bằng, vững chắc, bên phía thẩm mỹ nó làm
tăng nét duyên dáng, dịu dàng.
Chưa chồng nón thúng quai thao,
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai.
Ðể quai thao có vẻ mềm mại, người làm đi mua
những sợi tơ sần có cục gọi là mốt cục đem về nhuộm
màu hay để nguyên : các cô gái thích dùng quai màu trắng ngà
là màu gốc tơ tằm, các bà già cũng như những phụ nữ có
gia đình thường dùng màu đen. Bện hai hay ba sợi dài 1,5-2m
lại với nhau thì thành quai kép, giống như tim đèn, ngoài
bọc tơ dệt, thả lỏng đến thắt lưng Nhiều đoạn quai
được thắt lại, tết nút vừa làm chắc quai vừa đẹp mắt
Có khi hai trái cù (quả găng), to bằng ngón tay cái, được
đan thắt công phu ở hai đầu quai thao. Quai rủ xuống bờ
vai thành tua dài từ 20 - 25 cm và có chừng chục túm tua nho
nhỏ, trông rất ngoạn mục. Khi đội nón, các bà các cô phải
đi từ từ, tạo nên vẻ chậm rãi, dịu dàng, lấy tay giữ
quai truớc ngực để tránh nón đong đưa, đồng thời giữ
vững nón nhất là khi có gió hay khi nghiêng nón che nắng. Thời
trước, khi nón quai thao đang còn giữ vị trí quan trọng trong
trang phục lễ hội, ở Hà Nội, những "cô ả" mười lăm
mười sáu, cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi mua quai
thao ở chợ phiên hàng tơ Trìều Khúc, nôm na gọi làng Đơ
Thao để phân biệt với các làng Đơ Ðông, Ðơ Bùi chuyên
làm ruộng. Cũng còn được giải thích vì làng Triều Khúc,
tổng Thanh Oai (nay là huyện Thanh Oai, Hà Nội) ở trên đường
Hà Nội - Hà Đông, mà tên cũ của Hà Đông là Cầu Đơ nên
có câu "Nón Chuồng, khua lụa, quai thao làng Đơ"
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao dệt khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần truyền cho.
Áo tứ thân, dải yếm đào, dây lưng đũi, nón
quai thao, khăn mỏ quạ,…đã đi sâu vào tâm hồn biết bao
thế hệ nam nhi. Hình ảnh các cô gái mộc mạc, giản dị,
cũng như phong lưu, thanh lịch hồn nhiên nhập mình vào thi
ca, hội họa. Một nhà thơ lãng mạn như Nguyễn Bính, từng
là tác giả nhiều bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc,
không thể dửng dưng trước những cô gái kín đáo mà duyên
dáng, đã để lại hậu thế những câu thơ đằm thắm, thiết
tha, đậm đà tâm hồn dân tộc, hấp thụ tinh hoa ca dao như
trong bài Chân quê.
Hôm qua em đi
tỉnh về
Đợi em ở mãi
con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
tranh Lâm Lê
|
tranh Thái Tuấn
|
(*) ảnh chụp các
đoàn nghệ thuật qua biểu diễn ở Unesco Paris : Tết 2009,
Tết 2011, Tết 2012, Tết 2013, Tết 2014, Tết 2015, Tết 2016,
Ðêm Hà Nội Xưa và Nay 2015
(**) Võ Quang Yến,
Chiếc
nón quai thao Kinh Bắc, Chim Việt Cành Nam (chimviet.free.fr)
58,
18.02.2015
Thành
Xô
Mừng Tết Kỷ Hợi 2019
|
|
Ðọc thêm
- Ðặng Tiến, Dải yếm trong thơ, luanhoan.net
12.2006
- Lữ Thị Mai, Yếm đào : Cốt cách người
phụ nữ xưa, Bản tin Ðại học Quốc gia Hà Nội số 2236
(2010)
- Hồ Sĩ Anh, Ðộc đáo nghề nón làng Chuông,
thanglong.chinhphu.vn 21.09.2012
- Ðào Ðức Nhuận, Phất phơ hai dải yếm
đào, hatocquangnam.vnblogspot.com 24252/355728
- Hữu Giới, Chiếc nón quai thao, mevietnam.org
|
|