Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Độc tiếu thanh ký – Nguyễn Du
Chiều hôm thứ ba 27.03, ban Việt học Khoa Ngôn
ngữ và Văn minh Á Đông (UFR LCAO )
trường Đại học Diderot (Paris VII) tổ chức đón xuân trong
một bầu không khí thơ văn sôi động và thú vị trên
đề tài Printemps des poètes 2015 – Nguyễn Du et son chef d’œuvre,
L’histoire de Kiều (1766-1820). Chương trình khá phong phú
gồm có ba mục:
- Nghệ sĩ Isabelle Genlis trình bày truyện Kiều
qua một bản cải biên tiếng Pháp Kim Van Kieu ou le jeu des
dieux trên nền nhạc đệm đàn tranh của nhạc sĩ Phương
Oanh.
- Cô Nguyễn Thị Hiệp trình bày phim phóng sự
Lịch
sử truyện Kiều ở quê hương Nguyễn Du do Bộ Văn Hóa
Việt Nam phát hành.
- Các sinh viên trình diễn ba màn kịch Đánh
ghen, Đền ân báo oán và Tái hợp trích từ
tác phẩm Kiều do các giáo viên Lê Thị Xuyến, Emmanuelle Paquet
và các em sinh viên Cao Siêu Linh, Nguyễn Thị Ngọc Dung,
Lysel Tú Kim ban Việt học biên soạn.
Chương trình kết thúc với một "Pot amical",
thật ra là một buổi tiệc thân mật, một bữa ăn nguội
đậm đà mùi vị quê hương, do chính các sinh viên nấu và
dọn.
Đây là lần đầu
tiên truyện thơ Kim Vân Kiều của cụ Nguyễn Du được biên
soạn thành truyện kể bằng tiếng Pháp. Được biết cô Isabelle
Genlis đã đọc hầu hết các bản dịch Kiều trước khi đúc
kết lại thành bài viết nhan đề Kim Vân Kiều hay bản
kịch của các thiên thần. Nghệ sĩ rất thấu hiểu lời
nói và làn điệu thân thiết quyện nhau trong một áng văn
có khả năng góp sức xây dựng nền móng cho di sản phi vật
thể truyền khẩu không chỉ là của Việt Nam, mà còn là của
nhân loại. Di sản nầy là nhân tố kết hợp, trao đổi, thông
cảm giữa con người với con người, là cầu nối giữa các
dân tộc. Thế hệ trẻ cần phải ý thức vai trò quan trọng
của di sản văn hóa đó và tìm mọi cách củng cố, bảo tồn.
Sau hai năm kỷ niệm giao lưu văn hóa Pháp Việt 2013 và Việt
Pháp 2014, UNESCO công bố 2015 là năm biểu dương Nguyễn Du,
Đại thi hào quốc gia tác giả Kim Vân Kiều, nhân dịp 250
kỷ niệm năm sinh của ông. Trước đó, UNESCO đã công nhận
truyện Kim Vân Kiểu là di sản văn hóa phi vật thể từ năm
1965, cùng lúc tác giả được tôn vinh Đại thi hào Việt Nam
ở trong nước. Isabelle Genlis ở trong số nghệ sĩ có ý định
nhân dịp nầy cho vang vọng ra khỏi biên thùy Việt Nam, đặc
biệt vào thế giới văn thơ Pháp, những âm thanh, màu sắc,
đường nét phong phú, khi dạt dào yêu thương, khi bừng bừng
căm giận, tạo lên một sức sống mảnh liệt trong thơ Nguyễn
Du. Cô kể chuyện nàng Kiều là trưởng nữ một gia đình
nhà Nho, theo luật luân hồi nhân quả, vào đời nầy phải
trả nợ tiền duyên : nàng lỡ hẹn với tình nhân, đi lấy
chồng trong tinh thần bảo vệ danh dự gia đình, bị phụ bạc
rồi rơi vào lầu xanh, sống một đoạn đời bất hạnh, khốn
khổ. Nhưng Thượng đế chăm nom, tháo gỡ, luôn nâng đỡ
tâm hồn người phụ nữ trầy trụa nhưng không chết xác,
biểu trưng một phần nào lòng can đảm, tự do, hoạt lực
của người đàn bà. Thử thách là xương tủy của sức mạnh,
cuộc sống là bãi chiến trường, những trận đánh dữ dội
gây ra thờ ơ và cuối cùng đưa đến hạnh phúc bấp bênh
trong giờ phút hiện tại. Để kết
thúc, nàng được Trời Phật phù hộ cho được dịp
đền ân báo oán và đoàn tụ với gia đình (Tình nhân lại
gặp tình nhân, Hoa xưa bướm cũ mười phân chung tình)...
Xin mời các bạn thưởng thức hương vị và
phong cách một đoạn văn.
Son allure gracieuse arrachait les larmes du saule,
les cordes du Hô Cam s’exaltaient sous ses doigts habiles, sa beauté
de légende provoquait le regard des dieux.
Elle s’émerveillait de sa beauté, sa distinction.
Il découvrait ses charmes, s’enchantait de son élégance, en un
instant leurs cœurs s’étaient reconnus et aimés. "
Le maître des cieux veille aux destins des filles
douées comme vous l’êtes. Votre nom figure parmi les nôtres : filles
aux entrailles déchirées. Vous ne pourrez pas vous échapper si vous
ne payez vos dons aux dieux. Votre barque file sans la pagaie. L’esprit
disparaitrait et laisserait Kieu dans la nuit...
Thuộc lòng từng câu, từng chữ, cô diễn viên
tuần tự kể chuyện, không vấp váp, không ấm ứ, lưu
loát từ đầu đến cuối. Để đạt đến mức độ nẩy
cô Isabelle Genlis đã phải dày công tập luyện và tích
cóp kinh nghiệm. Được đào tạo ở trường Đại học Sân
khấu Saint-Germain-en-Laye, cô từng được trao tặng giải thưởng
diễn tấu trước khi diễn xuất trong nhiều nhóm kịch. Cô
đã gặp nhà đạo diễn Alain Knapp trước khi thành lập đoàn
của mình mang tên Corps et Âmes (Xác thịt và Linh hồn).
Cô cũng là thành viên sáng lập đoàn Théâtre Odyssées
(Đoàn hát Du ký) thường hợp tác với một nhóm nhạc
Hàn Quốc. Sotigui Kouyaté, một nhạc sĩ hát rong Tây Phi griot
khai tâm cô về tầm mức quan trọng của truyền khẩu trong
công tác truyền đạt và về nghệ thuật kể chuyện. Từ
đây cô lưu tâm đến Việt Nam, nơi đã cống hiến nhựa sống
một phần gia đình cô. Cô học thêm với những nhà ngôn ngữ
học, sưu tầm những truyện cổ tích trong số bạn bè thân
thiết, rồi từ đó sáng tác những câu chuyện mang tính chất
truyền thống. Cô kể chuyện ở các viện Bảo tàng Quai Branly,
Cernuschi, ở các cuộc liên hoan, nhà văn hóa, trường học,
nhà tù. Tôi may mắn được nghe cô kể chuyện bánh chưng bánh
dầy vào đêm giao thừa Tết Ất Mùi ở Phật đường Khuông
Việt tại Orsay. Trong khuôn khổ xưởng Fahrenheit Trung tâm Văn
học Truyền khẩu CLIO, cô cùng với giám đốc Bruno de la Salle
soạn truyện kể Kim Vân Kiều. Cái khó là trình bày bằng
tiếng Pháp một truyện rất Á Đông, trong tinh thần triết
lý Phật Khổng, qua tâm hồn một phụ nữ xa xưa, trước những
khán giả ít hay không biết gì về văn minh Á Đông, về văn
hóa và văn thơ Việt Nam, những thính giả ít hay không nhạy
cảm với loại kể chuyện đặc biệt nầy. Có một điều
may mắn là cô Isabelle Genlis, một nghệ sĩ duyên dáng, thành
thạo, qua lối phát âm thuần thục, với nghệ thuật diễn
đạt rõ ràng, mạch lạc, đã thành công đưa khán giả vào
thế giới Truyện Kiều, tuy uyên bác mà bình dân, tuy có vẻ
xa xôi nhưng thật ra rất gần gũi. Nỗi đau thương được
miêu tả một cách văn hoa, bóng bẩy, người nghe nhạy cảm
có thể không tránh được cảm xúc đau lòng. Và họ cảm
thông với nhân vật tuy sống trong quá khứ, khá xa về cả
không gian lẫn thời gian, nay qua thôi miên của giọng kể được
tái hiện một cách linh hoạt, sống động.
Truyện Kiểu qua Isabelle Genlis kể bằng tiếng
Pháp đi sâu vào tâm hồn Việt Nam một phần cũng nhờ nhạc
đệm đàn tranh thanh thoát của Phương Oanh. Tôi hân hạnh quen
biết cô từ lâu và đã có dịp giới thiệu người nghệ
sĩ tài hoa nầy nhân kỷ niệm 40 năm đoàn Phượng ca của
cô (*). Sinh ra ở Đà Lạt,
tốt nghiệp trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn
năm 1962, cô thành lập trường dạy nhạc Phượng ca Dân ca
Quốc nhạc tại Sài Gòn năm 1969. Bắt đầu từ 1976, cô tiếp
tục hoạt động ở Âu châu, mở trường, lập hội trong 8
nước, thành công trong việc phổ biến rộng rãi âm nhạc
truyền thống Việt Nam ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Đoàn Phượng Ca trở thành một tổ chức phi chính phủ : cô
luôn theo tôn chỉ bảo tồn, phát triển và chuyển giao sự
hiểu biết của mình về âm nhạc truyền thống dân gian Việt
Nam đến mọi tầng lớp trong xã hội. Theo cô, nhân âm
nhạc giúp con người sáng tạo và phát triển nhân cách con
người nên, trong các loại âm nhạc, cô chọn âm nhạc truyền
thống vì cô mong muốn giới trẻ Việt Nam biết rõ nguồn
cội, văn hóa ông cha, từ đó mạnh bề lưu truyền quanh mình.Định
cư ở Tây phương với gia đình, làm giáo sư đàn tranh có
bằng tốt nghiệp ở hai Nhạc viện Antony và Sevran, cô tự
tạo thêm một trọng trách nhắc nhủ nền nhạc dân tộc cho
những kiều bào sống tha hương, một công việc xem như đơn
giản, thật ra đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và hy sinh. Cô xem
tổ quốc ngày nay không còn chỉ giới hạn trong mảnh đất
hình chữ S mà vượt qua mọi đại dương, lan ra khắp bốn
phương. Được trao tặng Médaille d’Or (Huy chương Vàng) của
viện Hàn lâm Văn hóa Á châu năm 1988, Médaille du Mérite (Huy
chương Quốc công) thưởng công trạng về nhạc Nam Á năm
1994, ngày nay nghỉ dạy, cùng với nhạc sĩ Hồ Thụy Trang,
cô hết lòng dấn thân vào công tác truyền bá văn hóa Việt
Nam ra nước ngoài, đúng với nguyện
vọng của cô Isabelle Genlis. Đầy tâm huyết, tiếng đàn
tranh vừa cao vừa thanh của hai nghệ sĩ chắc không thua kém
gì tiếng đàn tỳ bà réo rắt của Thúy Kiều qua thơ Nguyễn
Du.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối
mới sa nửa vời.
Tiếng khoang như gió thoảng ngoài
Tiếng mau rầm rập như trời đổ mưa.
Mục thứ hai chương trình là cuốn phim phóng
sự Lịch sử truyện Kiều ở quê hương Nguyễn Du do
cô Nguyễn Thị Hiệp, Giảng viên ở Ban Việt học, chọn lọc
và dịch ra tiếng Pháp. Làng Tiên Điền từ tên Vô Điền,
U Điền thời Lê, qua các tên Tân Điền,
Phú Điền, Trung Nghĩa, Tiên Uy, Xuân Tiên cho đến năm
1973 trở lại tên cũ Tiên Điền, là một làng khoa giáp
nổi trội hơn hẳn, danh thần, hiền phụ đứng hàng đầu,
cống
hiến dưới hai triều đại Lê - Nguyễn sáu vị Đại khoa.
Dân gian có câu: Ló (lúa) Hoa (Xuân) Viên, quan Tiên Điền,
tiền Hội Thống... Hậu duệ tổ tiên nguồn gốc Sơn Nam
(nay thuộc Hà Nội) di cư vào Hà Tĩnh, Nguyễn Du sinh năm 1766,
là con Nguyễn Nghiểm đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến
chức Đại tư đồ (Tể tướng), Thượng thư bộ Hộ triều
Lê. Mồ côi cha năm lên mười, mồ côi mẹ năm 13 tuổi, ông
về ở với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 1780,
Nguyễn Khản làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn,
bãi chức, ông được người thân của cha đem về nuôi ở
Sơn Nam Hạ. Năm 1783 thi Hương đậu Tam trường (Tú Tài), ông
lấy vợ và được tập ấm chức Chánh thủ hiệu. Năm 1789,
Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, ông về ở Quỳnh côi (Thái
Bình) quê vợ. Chống đối Tây Sơn, năm 1796, ông trốn vào
Gia Định theo Nguyễn Ánh. Năm 1802, dưới thời Gia Long, ông
được bổ nhiệm tri huyện Phù Dung (nay thuộc Hưng Yên) rồi
tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội). Năm 1820, vua Minh Mạng
cử ông làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang vua Gia Long vào
lúc ông bị chết bệnh dịch, đúng vào năm 54 tuổi. Năm 1824,
di cốt của ông được cải táng về quê làng Tiên Điền.
Cụm di tích ngày nay bao gồm khu lưu niệm Nguyễn Du, đền
thờ Nguyễn Huệ, mộ và đền thờ Nguyễn Nghiễm, nhà thờ
Nguyễn Trọng và khu mộ Nguyễn Du. Cuốn phim đầy đủ chi
tiết, giải thích khúc chiết, hơi tiếc là hình ảnh không
được rõ ràng (phòng chiếu không đủ tối), màu sắc kém
phần linh động chưa thể hiện được toàn vẹn sức sống
của các tác phẩm Nguyễn Du.
Mục cuối cùng là một sáng tác của sinh viên
ban Việt học, một công tác tập thể đầy nhiệt huyết,
cố gắng, đáng khen. Các diễn viên nghiệp dư đã phải dày
công tập luyện (**). Trước
màn cuối, em sinh viên Lương Thị Thu Huyền bất ngờ trình
bày tiết mục lảy Kiều rất lý thú. Về y phục, ai kiếm
được áo gì thì mặc áo nấy, chuyện thường tình ở giới
sinh viên, nên phần nào thiếu tính đồng nhất. Truyện Kiều
được rút lại trong ba màn kịch : Thúy Kiều làm thị tì
trong nhà Thúc Sinh - Hoạn Thư, Thúy Kiều được Từ Hải tạo
cho điều kiện đền ân báo oán và Thúy Kiều gặp lại Kim
Trọng. Là một trường dạy sinh ngữ thì ngoài phong tục,
văn hóa, quan trọng nhất là ngôn ngữ. Đây là ban Việt học
Khoa Ngôn ngữ và Văn minh Á Đông thì
việc cốt yếu là viết, đọc và nói tiếng Việt. Nói chung,
các sinh viên, nhất là những em diễn viên chính, đều nói
thạo, phát âm chuẩn. Bên cạnh Thúy Kiểu tài sắc vẹn toàn
(Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn
kém xanh), Kim Trọng nghiêm trang, đứng đắn (Phong tư
tài mạo tột vời, Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa),
vai Từ Hải (nhân vật thỉ thật đúng
Râu hùm hàm én mày
ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao) lưỡi đang
còn vướng víu ít nhiều giọng mẹ đẻ. Tuy nhiên, chàng sinh
viên nầy rất đáng khen vì anh chịu khó về Việt Nam thực
tập và trong buổi tiệc giao lưu, theo yêu cầu, anh cho thưởng
thức một bài dân ca quan họ nghe đâu về học hát tận Bắc
Ninh. Theo kinh nghiệm, tôi biết nhiều sinh viên có cha mẹ người
Việt thì nói thành thạo tiếng Việt ở nhà nhưng ít được
học viết và đọc. Nhân đây cần phải hoan nghênh PGS.TS Lê
Thị Xuyến, chủ nhiệm ban Việt học, người đã đưa chương
trình sinh hoạt Câu lạc bộ Hãy nói tiếng Việt vào
ban Việt học từ năm 2012. Cô đã quan tâm nhiều đến vở
kịch nầy vì là một trong những phương cách giản dị nhằm
thực hành tiếng Việt một cách hữu hiệu. Vở kịch cũng
là nơi trình bày thiết thực phong tục, luân lý, tín ngưỡng
của một thời nước Việt Nam tuy truyện lấy gốc từ cuốn
Đoạn
trường tân thanh bên Tàu. Bên cạnh thuyết
tài mệnh tương đố (tài và mệnh ghét nhau) được tác giả
đem làm luận đề, trong truyện còn có những màn không tưởng
Thúy Kiều thăm mộ Đạm Tiên (Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm), Thúy Kiều bán mình
chuộc cha (Phận sao phận bạc như
vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng), Thúy
Kiều được sư Giác Duyên vớt cứu (Khi nàng gieo ngọc
trầm châu, Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về),...giải
thích phần nào tựa đề truyện kể của Isabelle Genlis: Kim
Van Kieu ou le jeu des dieux.
Cụ Nguyễn Du khi viết mấy câu chấm dứt khiêm
tốn cuốn truyện chắc không thể dè 250 năm sau sách của
cụ được vinh danh trong một trường đại học bên Pháp.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Thành Xô tiết
Thanh Minh Ất Mùi
|
(*) Hành trình 40
năm Phượng Ca, Chim Việt Cành Nam (chimviet.free.fr) 24.08.2009
(**) Các vai chính : Hoa Nô,Thúy
Kiều, Trạc Tuyền (Quintie Huỳnh), Hoạn Thư (Sophie Phạm),
Thúc Sinh (Johnny Trần), ni sư Giác Duyên (Oirda Amada ) và Từ
Hải (Sylvain Pierré)
Phụ chú
Một tờ quảng cáo cho hay truyện Kim Van Kieu
ou le jeu des dieux sẽ được tái diễn ngày thứ bảy 30.05.2015
tại Trung tâm Văn hóa Việt Nam với nhạc sĩ Hồ Thụy Trang,
tranh vẽ Cô gái cạnh lồng chim
của họa sĩ Đỗ Duy Tuấn.
Cô Thụy Trang xuất thân từ một gia đình nghệ
sĩ Sài Gòn. Học nhạc truyền thống tại Nhạc viện Quốc
gia Âm nhạc và Nghệ thuật Sân Khấu Sài Gòn từ năm 6 tuổi,
tốt nghiệp hạng Ưu viện Đại học Quốc gia Nhạc truyền
thống năm 1986, cô đoạt giải Quốc gia Đàn tranh Tài
năng trẻ năm 1992. Vừa giảng dạy, cô vừa biều diễn khắp
nơi ở trong nước cũng như ở nước ngoài để phổ biến
nền nhạc truyền thống Việt Nam và những dụng cụ phong
phú. Nhiều buổi hòa nhạc được tổ chức ở Việt Nam cũng
như ở ngoại quốc (Nga, Mỹ, Canađa, Mexico, Pháp) đưa tiếng
tăm cô vang khắp thế giới. Từ năm 2003 cô định cư ở Pháp
và điều khiển nhóm Tơ Đồng. Giáo sư nhạc có bằng tốt
nghiệp, cô dạy ở các nhạc viện Bussy-Saint-Georges, ở Paris,
Marseille, Bordeaux, Lausanne. Cô là nhạc sĩ của viện Bảo tàng
Cité de la Musique, đã từng cộng tác với Urban Sax trong đồ
án năm Pháp-Việt.
Họa sĩ Duy Tuấn sinh năm lịch sử 1954 ở Thừa
Thiên Huế. Nhà nghệ sĩ đổng hương tôi chưa từng được
gặp nầy tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế, được
xem là một tài năng bậc nhất trong lĩnh vực nghệ thuật
hiện đại và tối tân ở Việt Nam. Những tác phầm của
anh khác biệt ở đề tài, phần lớn là những phụ nữ điệu
hóa giúp anh tìm màu sắc linh hồn. Những họa phẩm
của anh, hầu hết đều mang nét lãng mạn của một tâm hồn
Huế. Tuynhiên
những phụ nữ trong tranh không hẵn là người Huế mà là
những mẫu mộng mơ trong sáng rất hiện đại. Tranh của anh
gợi một phong cách hội họa phương Tây tối tân nhưng vẫn
tiềm tàng một tâm thức văn hóa phương Đông gốc gác. Anh
đã nhận nhiểu giải thưởng ở các cuộc triển lãm tại
nước ngoài, đặc biệt hai lần của Philip Morris ASEAN 2001-2002
và gần đây giải triển lãm nghê thuật toàn quốc 2001-2005.
Đọc trong một trang báo Pháp: Nghệ thuật của tôi chìm
đắm trong không khí luyến tiếc và lãng mạn xứ Huế, trong
quá khứ vẻ vang, trong mối liên lạc với Thượng đế và
trong mộng mơ giải hòa sắc đẹp với văn minh hiện tại.