Ðây, điện các huy hoàng trong ánh
nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh.
Đây,
Chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành
Chế Lan Viên (Trên đường về)
Cham Pa ở Ðông Nam Á vào khoảng năm 1000
Ngưởi Chăm, còn gọi người Chàm, người Chiêm,
người Hời là người dân tộc (400.000) cư ngụ chủ yếu
tại miền nam Việt Nam, nhất là ở Cam Pu Chia (Khơ Me Islam),
một số ít ở Thái Lan, Mã Lai, ngoài một số tản cư qua
Hoa Kỳ. Người Chăm thuộc nhóm chủng tộc Austronesia
tức Nam Đảo. Tiếng Chăm nằm trong ngữ tộc Malay-Polynesia
của hệ ngôn ngữ Nam Đảo cùng với những dân tộc
Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru sống ở miền trung và miền núi
nước ta. Với một dân số trên 160.000 người, dân tộc Chăm
xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng 54 chủng tộc
Việt Nam, cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố
: Ninh Thuận (67.274, 41,6% tổng số người Chăm tại Việt Nam),
Bình Thuận (34.690 người, 21,4%), Phú Yên (19.945), An Giang (14.209
người), thành phố Hồ Chí Minh (7.819), Bình Định (5.336),
Ðồng Nai (3.887), Tây Ninh (3.250), theo Tổng điều tra dân số
và nhà ở năm 2009.
Trong thời kỳ đổ sắt (thế kỷ VIII trước-thế
kỷ VI sau CN), Việt Nam có ba nôi cổ xưa, tạo hình tam giác
nền văn minh : văn hóa Đông Sơn ngoài
bắc, văn hóa Óc Eo trong nam, văn hóa Sa Huỳnh miền trung. Từ
Sa Huỳnh nảy sinh hậu duệ là một phần người Chăm. Lúc
ban đầu, vào khoảng 192-605, tại vùng đất từ Quảng Bình
đến Quảng Nam, dựng lên một vương quốc mang tên Lâm Ấp,
xem như là giai đoạn khởi đầu lịch sử Chăm Pa. Lâm Ấp
là phiên âm Hán-Việt tiếng quan thoại Lin yi quo, tên
một dân tộc bản địa thuộc nhóm Bách Việt, phát âm tiếng
Việt thuật ngữ Bai yue bao hàm các dân tộc Việt cổ
không bị Hán hóa. Lâm Ấp có thể là lãnh thổ Indrapura từ
mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do vương triều Gangaraja,
tức những người Ấn Độ đến từ sông Gange, dựng
lên. Lâm Ấp độc lập là một biến cố lịch sử trọng
đại, mở đầu cuộc gặp gỡ giữa hai nền văn minh Trung
Quốc và Ấn Độ tại bán đảo Đông
Dương. Thời cuối Lâm Ấp tức là thời đầu Chăm Pa,
vào khoảng thế kỷ IV, văn hóa Ấn
Độ bắt nguồn từ nước láng diềng Phù Nam, ở phía
tây và nam, trở thành văn hóa chính của vương quốc. Ấn
Độ giáo và Phật giáo bắt đầu được
truyền bá. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã
bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn
và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh
để ghi lại tiếng nói của người Chăm. Về chính trị các
vị vua thời cuối Lâm Ấp đều ghép tên mình với một thần
linh, thường là với Shiva (còn gọi là Isvara) để độc quyền
cai trị. Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman,
cai trị từ năm 349 đến 361. Ở thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman
đã xây dựng lên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara,
kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị
thần của các thần trong Ấn Độ
giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với
tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn
trong các thế kỷ sau đó.
Năm 605, nhà Tùy chinh phục Lâm Ấp. Thủ đô
thất thủ, quốc gia Lâm Ấp diệt vong, vua Sambhuvarman
(Phạm Phạn Chi) lưu vong về phía nam và dựng quốc
gia riêng, xây thành Sinhapura thành phố Sư Tử (nay là
Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam). Thời vua Sambhuvarman là thời kỳ quá độ giữa Lâm Ấp
và Chăm Pa tức Chiêm Thành bởi vì quốc hiệu Ấp Chăm Pa
Campapura
đã chính thức xuất hiện. Sambhuvarman lên ngôi vua năm 529,
cho xây dựng lại ngôi đền Bhadresvara bằng gạch ở Mỹ Sơn,
ngôi đền thời vua trước bằng gỗ đã bị cháy. Sambhuvarman
cũng cử sứ thần sang cống lễ Trung Quốc, đồng thời đánh
chiếm miền bắc Việt Nam nhưng không thành. Năm 605, tướng
Lưu Phương nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp và đã chiến thắng
sau khi lập mưu tiêu diệt tượng binh địch thủ. Vào khoảng
những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang
nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung
Quốc. Tài liệu Trung Quốc ghi nhận vị vua cuối cùng của
Lâm Ấp chết vào khoảng năm 756. Năm 757, một tiểu vương
ở phía nam Lâm Ấp nổi lên hạ bệ Bhadravarman II - nhà vua
trẻ của Lâm Ấp vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu
Prithi Indravarman, chấm dứt dòng Gangaraja phía bắc. Theo sử
liệu cổ, Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Chăm
trong thời kỳ này là Hoàn Vương quốc (tức vương quyền
trở về quê cũ), kinh đô Virapura (Hùng Tráng thành). Địa
phận Hoàn Vương có thể giới hạn trong khu vực tỉnh Ninh
Thuận ngày nay. Hoàn Vương độc lập cho đến năm 859 thì
thống nhất với bốn tiểu quốc khác để thành hình quốc
gia Cham Pa hay Campapura, Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam tuy vẫn
giữ tính tự trị. Nước này được xem là tiền thân của
Panduranga
với một số biến đổi về cương vực và dân số. Tài liệu
Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có dạng Cham Pa vào năm
877, tuy nhiên, tên được người Chăm sử dụng muộn nhất
là từ năm 629, và người Khơ Me từ năm 657..
Việc làm đầu tiên của Prithi Indravarman là
dời kinh đô Sinhapura về Virapura. Dưới thời Prithi Indravarman,
văn minh và văn hóa Ấn Độ
từ phía nam lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm
phía bắc, tiếng Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới
vương quyền và các nơi thờ phụng. Đạo
Bàlamôn được đông đảo người
theo. Đạo Phật nguyên thủy Thượng toạ bộ
Theravada
phát triển mạnh trong dân gian; đền đài, dinh thự và chùa
tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu
Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)... để
tạ ơn thần linh. Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu
vương quốc phía bắc vẫn được tôn trọng, vì không thấy
di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati - vị thần bảo hộ
Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm Bà Mẹ xứ sở
để dân chúng thờ phụng - trong các di tích khảo cổ trên
lãnh thổ phía bắc. Ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ
vương Jagadharma được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng
vật liệu cứng tại Aya Tra (Nha Trang), trên một ngọn đồi
cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần
Bhagavati (bằng vàng). Tháp này sau mang tên tên Po Nagar tức
Tháp Bà. Prithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất
nước thái bình. Hoàn Vương quốc giàu có, phồn vinh hấp
dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang),
Malayu (Mã Lai), Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra
(Miến Điện), Angkor (Chân Lạp)
đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp phá. Năm 774,
quân Nam Đảo (người
Java và Mã Lai) từ ngoài khơi đổ
bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm Virapura. Vua Prithi Indravarman
đã chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong đám loạn
quân (sau này được dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka).
Bọn người này đi mành đến lấy cắp tượng linga của thần
Sri Sambhu, đốt phá đền thờ Po Nagar. Sau cuộc tấn công này
quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật, trong đó có tượng
nữ thần Bhagavati bằng vàng.
Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc
Cham Pa được phục hồi nhưng chia thành hai tiểu vương quốc:
Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn 1428-1471) và Tiểu vương
quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832). Tiểu vương quốc Vijaya
bị quân đội Ðại Việt tiêu diệt vào thời vua Lê Thánh
Tông để thôn tính đất đai vào năm Hồng Ðức thứ 2 nhà
Lê (1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành
chư hầu của Ðại Việt. Năm Hiển Tông thứ 2 chúa Nguyễn
(năm Chính Hòa thứ 14 nhà Lê -1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã
một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên
Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận
Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Nhưng qua năm 1694, trong khi
Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Cam Pu Chia, tướng người
Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã
tập hợp được đông đảo lực lượng người Cham Pa, nổi
dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây.
Chúa Nguyễn Hiển Tông tức Nguyễn Phúc Chu đã bất đắc
dĩ cầu hòa với người Chăm và cho phép họ phục hồi Thuận
Thành trấn (Khu Tự trị Cham Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn
và chúa Cham Pa được ghi rõ trong Nghị Định Ngũ Ðiều vào
năm Hiển Tông thứ 21 tức năm Vĩnh Thạnh thứ 8 nhà Lê (1712)
và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau
cải thổ quy lưu (giải thể khu tự trị) vào năm 1832, một
số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để
phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu
duệ của chúa Cham Pa có ông Dụng Gạch (Bo Gait, Bộ Gạch),
một vị hoàng tử anh hùng, phó chủ tịch ủy ban hành chính
lâm thời huyện Hòa Đa (Bắc Bình ngày nay) phụ trách miền
núi sau Cách mạng tháng Tám. Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay
thuộc thành phố Đà Nẵng, các tỉnh từ Quảng Bình vào Bình
Thuận và một số vùng Tây Nguyên. Theo văn bia tiếng Phạn
tại Mỹ Sơn, vua Cham Pa và vua Cam Pu Chia đều là hậu duệ
của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong
sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng các chúa
Panduranga thì thuộc dõng Pandu nên Cham Pa (Vijaya, thuộc nhà
Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là hai quốc gia thù
địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ hai nước Chiêm
Thành (Cham Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là hai quốc gia
riêng biệt.
Lịch sử của vương quốc Cham Pa là các cuộc
xung đột với Trung Quốc, Ðại Việt, Khơ Me và Mông Cổ,
cũng như xung đột nội bộ. Chính do các cuộc xung đột này
mà Cham Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc
gia có tổ chức chính quyền và quân sự tốt hơn. Cham Pa trong
quá khứ là một nước chư hầu của các triều đại phong
kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản
sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Cham Pa là
những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để
chiếm ưu thế. Năm Hồng Ðức thứ 2 nhà Lê (1471), Tiểu vương
quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với
Ðại Việt dưới triều đại vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000
quân Cham Pa bị giết và 30.000 bị bắt làm tù binh. Ngược
lại, Tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục phát triển dưới
sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long (Nguyễn Thế
Tổ) trong bốn đạo: Ðạo Panrang (Ðạo Phan Rang tức Tỉnh
Ninh Thuận), Ðạo Kraong (Ðạo Long Hương / Liên Hương tức
Huyện Tuy Phong Tỉnh Bình Thuận), Ðạo Parik (Ðạo Phan Rí
tức Huyện Bắc Bình Tỉnh Bình Thuận) và Đạo Pajai (Ðạo
Phố Hài, Huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân và
Thành phố Phan Thiết). Đến vua Minh Mạng, Khu Tự trị Thuận
Thành đã bị xóa sổ và trở thành Phủ Ninh Thuận.
Trên lãnh thổ Việt Nam người Chăm sinh sống,
sống rải rác ở các tỉnh phía Nam từ Bình Định vào miền
đồng bằng sông Cửu Long. Do đặc điểm cư trú, tính chất
tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, họ được
chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm H'roi, Chăm
Bàlamôn-Chăm Bàni và Chăm Nam Bộ.
-Chăm H'roi bao gồm những người Chăm sống
rải rác ở miền núi các tỉnh Phú Yên, Bình Định; tổng
số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ
những người Chăm cổ, theo tín ngưỡng dân gian chịu ảnh
hưởng từ đạo Bàlamôn.
-Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni
hay Ðông Chăm gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận,
Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga. Với một tổng số
khoảng 98.000 người (Ninh Thuận 66.000, Bình Thuận 32.000), nhóm
cộng đồng Chăm lớn nhất nầy chiếm khoảng 67,60% tổng
số người Chăm ở Việt Nam. Hai nhóm Chăm Bàlamôn (Chăm
Ahiar) và Chăm Bàni (Chăm Awal) là hai nhóm chính, còn có
một nhóm nhỏ người Chăm Bàni đã cải sang theo Hồi giáo
chính thống vào thập niên 1960 do tiếp xúc với người Chăm
Nam Bộ.
-Chăm Nam Bộ hay Tây Chăm bao gồm những
người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ
Chí Minh, Tây Ninh. Tổng số khoảng 26.700 người, cộng đồng
này đến từ Cam Pu Chia và có nguồn gốc từ Nam Trung Bộ.
Nhóm Chăm Nam Bộ ở Tây Ninh khởi đầu từ
năm 1755 khi tướng Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm bị
hà hiếp trên đất Chân Lạp về định cư ở núi Bà Đen.
Tới thời Minh Mạng, từ năm 1834, người Chăm từ Chân Lạp
tiếp tục về định cư ở 2 huyện Tân Ninh và Quang Hoá. Thời
Tự Đức, người Chăm lại tiếp tục tới Quang Hóa định
cư vào các năm 1849, 1857. Tại Châu Ðốc, từ năm 1818, vua
Gia Long đã cho tu sửa Châu Đốc và chiêu dụ người Việt,
Hoa, Chăm, Khơ Mer đến định cư. Nhóm này gọi là Chăm Châu
Ðốc. Tới năm 1841, nhà Nguyễn rút quân khỏi Chân Lạp, nhiều
người Chăm cũng theo về định cư ở An Giang. Tới năm 1859,
người Chăm ở Cam Pu Chia nổi dậy chống vua Ang Duong. Bị
đàn áp, hàng nghìn người Chăm sang Châu Ðốc tị nạn. Tới
giai đoạn Khơ Me Ðỏ, từ 1975, nhiều người Chăm từ Cam
Pu Chia tiếp tục sang Châu Ðốc lánh nạn. Nhóm Chăm Nam Bộ
gồm có nhiều thành phần. Có người gốc từ quần đảo
Mã Lai và Indonesia, gọi là Chăm Chà-và (Cham Chvea, Cham Java,
Cham Jva), tên gọi này có thể bắt nguồn từ người Jawa Kur,
người Hồi giáo (dòng Sunni) nói tiếng Khơ Me. Họ hiện còn
sống tại nhiều vùng Cam Pu Chia và vùng Châu Đốc. Do có sự
tương đồng về nguồn gốc Nam Ðảo, người Chăm gốc Việt
Nam và người Jawa Kur đã sống cùng nhau ở Cam Pu Chia, tạo
thành một cộng đồng và có chung tín ngưỡng Islam Sunni. Nhóm
người Chăm gốc Nam Trung Bộ đã sống hòa đồng với người
Jawa nói trên và theo Hồi giáo Sunni, tự xưng là người Islam
dòng Sunni. Nhóm người Chăm gốc Nam Trung Bộ nhưng không theo
đạo Hồi
mới của người Jawa Kur mà vẫn giữ lại
đạo Hồi có từ lúc ở miền Trung Việt Nam bị 2 nhóm trên
gọi là Chăm Jahed (Chăm xấu, cũ). Có thể xem họ giống với
người Chăm Bàni ở Bình Thuận.
Tôn giáo đầu tiên của người Chăm là Ấn
giáo hay đạo Hindu, phái Shiva gọi là Shaivite, gốc Ấn Độ.
Shiva, hiện thân của sự tiêu diệt, hợp chung với Brahma,
người sáng tạo, và Vishnu, đấng bảo hộ, thành bộ tam thần
Trimurti. Ấn giáo được các thương
gia Ả Rập, Ấn Độ, Ba Tư trên đường biển đến
Trung Quốc, ghé chân ở miền duyên hải Trung Bộ và để lại.
Hồi giáo tức Islam (ta còn viết Ixlam) không rõ tới Cham Pa
hồi nào, di chỉ các ngôi mộ phát hiện ghi niên đại thế
lỷ XI. Trong một luận văn cao học trên đề tài Islam và
sự yêu sách bản sắc của người Chăm ở Trường Cao
học Thực hành, cô Agnès De Féo đã tường trình một cuộc
du nhập Hồi giáo vào Cham Pa. Một thời lâu đầu thế kỷ
XX, các nhà khảo cứu dựa lên hai bản khuôn rập những tấm
bia in chữ cufic (Ả Rập), cho đã có một cộng đồng
người đạo Hồi trên bờ biển Cham Pa thế kỷ XI. Tin chắc
hơn là một văn bản của những người
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha năm 1595 chứng nhận triều
đình cho phép Hồi giáo du nhập còn nhà vua thì qua thế kỷ
XVII mới chịu theo đạo. Nhưng Hồi giáo không chỉ vào Chăm
Pa qua các thương gia Ả Rập, Ấn Độ, Ba Tư mà còn
do một cuộc tham gia tích cực các nhà hàng hải Chăm vào hệ
thống mậu dịch đường biển Đông
Nam Á. Đầu thế kỷ XVI, thuyền bè Chăm đã có mặt
không những ở Malacca (Mã Lai), Banten, Makassar (Nam Dương), Pattani
(Thái Lan) mà còn dọc các bờ Biển Đông ỏ Xiêm La, Trung
Quốc. Người Chăm không chỉ len lỏi vào hệ thống Mã Lai
mà còn giao dịch với những người Hòa Lan ở Malacca, những
thương gia Bồ Đào Nha định cư ở Macau (1555). Dần dần Cham
Pa vượt ra khỏi tên một nước đang
bị Đại Việt lấn ấp sau những trận đánh thua liên
tiếp, mở mang không gian kinh tế xã hội thành một hệ thống
nối liền nhũng nơi trao đổi quan
trọng Đông Nam Á, những điểm giao tiếp của một triển
vọng Hồi giáo. Lối nhìn nẩy giải thích tại sao những dân
tộc Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru sống chung đụng với Cham
Pa nhưng không chú trọng đến hàng hải thì không tiếp xúc
với Hồi giáo.
Có thuyết khác cho Hồi giáo là du nhập từ
Mã Lai, dễ hiểu qua các thương gia và các nhà truyền giáo
hay đi lại. Tuy nhiên có chuyện một công chúa xứ Kelantan
(thế kỷ XVIII) cũng từ Mã Lai qua Cham Pa không phải để quy
nhà vua theo đạo mà là để đưa vua về lại chính giáo, nghĩa
là nhà vua đã theo đạo. Còn có thuyết cho Hồi giáo trước
nhập vào Trung Quốc thời nhà Đường (618-707), sau có các
nhà buôn Ả Rập, Ba Tư tiếp xúc với người Chăm mới chuyển
tiếp Hồi giáo. Trước đây, vào khoảng thế kỷ VIII, Phật
giáo Đại thừa từ Trung Á qua Trung Quốc cũng đã được
chuyển qua Cham Pa (Đồng Dương) và Căm Pu Chia (vua Jayavarman
VII). Vào khoảng 878, tại Trung Quốc nổi lên phong trào bài
ngoại của đảng Huang Chao (Hoảng Chảo) thực hiện chính
sách khủng bố sát hại người ngoại quốc. Những người
Hồi Giáo Ả Rập và Ba Tư phải bỏ Trung Quốc, dời việc
buôn bán và giảng đạo đến các nước phía Nam Trung Quốc
: Cham Pa, Mã Lai, quần đảo Nam Dương. Năm 1039, một đoàn
thương gia Ả Rập đã đến buôn bán tại Cham Pa và tăng cường
công cuộc truyền bá đạo Hồi. Họ đã lập nên tại Cham
Pa những cộng đồng Hồi Giáo đông đảo. Trong khi đó, những
hạm đội hải quân của Hồi Giáo Ả Rập đã chiếm giữ
Malacca để bảo vệ quyền giao thương trên trục lộ giao thông
với Trung Quốc và Nhật Bản. Hồi Giáo làm chủ toàn vùng
bán đảo Mã Lai và quần đảo Nam Dương trong những thế kỷ
XI-XV và đã biến hai nước này thành hai nước Hồi Giáo.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cất quân đánh phá Chiêm Thành,
bắt vua Chiêm là Chế Củ. Vua Chiêm sợ chết nên phải chuộc
mạng bằng cách dâng ba châu Địa
Lý, Ma Linh và Bố Chính cho vua Lý. Nhà vua sáp nhập ba
châu này vào lãnh thổ Việt Nam và đổi tên thành Quảng Trị,
Thừa Thiên. Năm 1402, vua Chiêm Thành dâng thêm hai châu nữa
là Chiêm Động và Cổ Lũy cho Hồ Quí Ly. Hai châu này trở
thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi của Việt Nam ngày
nay. Như vậy, thực tế lịch sử chứng minh Hồi Giáo là đạo
đầu tiên đã xâm nhập hòa bình giải đất mang hình
chữ S trước Công Giáo 500 năm qua tay các thương gia và các
giáo sĩ.. Tuy nhiên, đạo Hồi không có cơ duyên xâm nhập
vào xã hội người Việt (dân tộc Kinh) và đã trở nên một
thứ tôn giáo hoàn toàn xa lạ.
Người Chăm có tín ngưỡng, tôn giáo rất phong
phú. Tín ngưỡng của họ có từ xa xưa và mang dấu ấn của
thời nguyên thủy : sự tin tưởng vào sự tồn tại của một
thế giới siêu nhân, nơi các thần linh ngự trị và cũng chính
là nơi tồn tại của ma quỷ và linh hồn của những vật
thể ở thế giới trần tục sau khi chết. Người Chăm luôn
tin tất cả các vật thể cũng như mọi người đều có linh
hồn và linh hồn thì tồn tại vĩnh viễn dù con người có
chết đi và các vật thể đã bị hư hại. Những linh hồn
cùng với ma quỷ và thần linh luôn có những tác động chi
phối thế giới hiện hữu, đến đời sống của cộng đồng
cũng như đến từng thành viên trong cộng đồng. Người Chăm
thờ rất nhiều vị thần linh như Thần cây, Thần đá, Thần
nước, thờ Linh hồn tổ tiên. Họ sống trong một cộng đồng
đa tôn giáo, niềm tin tôn giáo luôn đóng một vai trò rất
quan trọng trong đời sống tâm lý của họ, ảnh hưởng lên
hoạt động nhận thức, tình cảm, ý chí của mỗi cá nhân
trong cộng đồng. Người Chăm có niềm tin tôn giáo rất sâu
sắc, tuân theo tôn giáo truyền thống ràng buộc chặt chẽ.
Tuy một lúc tôn giáo chính thời vương Cham Pa cổ là Ấn Độ
giáo và văn hóa chịu ảnh hưởng
sâu sắc của Ấn Độ, ngày nay, hầu hết người Chăm
theo Hồi giáo. Nói chung, từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo
đã du nhập Vương quốc Cham Pa thông qua các thương nhân gây
ảnh hưởng nhất định trong đời sống tâm linh người Cham
Pa. Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì lòng sùng tín
thần thánh Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi cùng chế độ
mẫu hệ đã bén rễ ăn sâu, trở thành truyền thống trong
xã hội Cham Pa, trải qua hơn nghìn năm không dễ gì thay đổi.
Dù sao, vào cưối thế kỷ XVII, quân nhà Nguyễn đồng thời
đánh chiếm những hải cảng, ngăn chặn mọi giao thông đường
biển và thuyền bè Cham Pa ngày càng ít thấy ở các thương
cảng Biển Đông. Ngày nay, sau những cuộc di cư liên tiếp
qua Mã Lai, Hoa Kỳ, Pháp quốc sau biến cố Khơ Me Đỏ, một
phần lón người Chăm định cư ở Cap Pu Chia, số còn lại
khoảng 100 .000 người, giới hạn trong xứ Panduranga xưa, tương
đương với các thành phố Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiêt (hai
tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận). Rút cuộc, Cham Pa có thể
xem như là một dân tộc phân tán, phần lớn dân cư sống
ngoài biên cương tổ quốc, đem theo Hồi giáo là tôn giáo
dần dần thay chổ Ấn giáo nguyên thủy.
Thành Xô mùa
đông 2016
|
|
(*)
Ảnh số chụp năm 2005 và mượn trên internet.
Đọc thêm
-Agnès De Féo, Les Chams, l'Islam et la revendication
identitaire - Des origines de l'islamisation au radicalisme islamique actuel,
Mémoire de DEA 2004, sous la direction de Pierre-Yves Manguin.
- Agnès De Féo, Transgressions de l'islam
au Vietnam, Les Cahiers de l'Orient n°83 - 3e trimestre 2006,
chamstudies.free.fr
- Nguyễn Thị Thanh Vân, Hồi giáo của người
Chăm ở Việt Nam – Những yếu tố bản địa, Tạp chí
Nghiên cứu Văn hỏa số 3 huc.edu.vn
-Trần Thị Minh Thu, Khái quát về Hồi
giáo và Hồi giáo ở Việt Nam, Ban tôn giáo chính phủ,
btgcp.gov.vn
-Nguyễn
Ðức Hiệp, Lâm Ấp, Champa và di sản, Văn hóa học,
vanhoahoc.vn03.11.2008
-Lê Nhẩm, Cộng đồng Hồi giáo ở Việt
Nam hiện nay, Halal Vietnam, halal-vietnam.vn
-Albert
Nollet, Avec l'Islam, le Vietnam applique le
principe de précaution, Riposte laique,ripostelaique.com
20.10.2015
-Hélène Le, Vietnam
: l'Islam des Chams Bani, Buddhachannel buddhachannel.tv
27.07.2015 -