Văn
tế đại thi hào Nguyễn Du
*Giải nhất toàn
quốc năm 2020
*Bản đã chỉnh
sửa
Than
ôi!
1.
Gió dìu mây, mây phủ màu tang,
Sương
thức lá, lá rơi nước mắt.
2.
Khóc người tuấn kiệt, núi thẳm ngậm ngùi,
Chạnh
khúc đoạn trường, dòng sâu man mác!
Nhớ
văn hào xưa,
3.
Vốn nòi thế phiệt, lời lời hoa thêu gấm dệt, hàng hàng
ý ngọc lời châu,
Nhằm
cửa danh gia, ngày ngày ngọc dát châu đeo, bữa bữa đũa ngà
chén bạc.
4.
Hồng Lĩnh đỉnh cao vòi vọi, muôn khí thiêng hun đúc bậc
anh tài,
Lam
Giang bờ rộng thênh thênh, vạn nguồn mạch sản sinh người
khoáng dật.
5.
Thông minh đĩnh ngộ, bút văn chương sánh bậc Đỗ, Vương,
(1)
Hòa
ái khiêm cung, điều nhân nghĩa noi thầy Khổng, Mặc. (2)
6.
Cao bằng hiền hữu, luôn chọn bậc trọng nghĩa khinh tài,
đâu hiềm nhà cao cửa rộng hay điếm cỏ cầu sương,
Tri
kỉ hồng nhan, chỉ lựa người nhả ngọc phun châu, chẳng
màng cổng kín tường cao hay lầu ca viện hát.
7.
Tài năng đó khó khăn chi danh đề bảng hổ, vinh hiển tổ
tông?
Nhân
cách ấy trở ngại gì tế thế an bang, chấn hưng xã tắc?
Ngờ
đâu,
8.
Thời li loạn hốt bạch vân thương cẩu, còn đâu hồi áo
gấm hài thêu,
Lửa
chiến chinh biến thương hải tang điền, nào ngờ lúc nhà
tan cửa nát!
9.
Buổi giao thời chia đường hai lối, về phương nào khi thay
chúa đổi tôi,
Tiếng
đao binh tạo khúc đoạn trường, đàn làm sao khi lạc cung
sai bậc?
10.
Kinh luân một bụng, đâu anh hùng, đâu tri kỉ, đường trần
ai ngoảnh lại bơ vơ.
Kinh
điển năm xe, nào trung can, nào khí tiết, đạo thần tử ngẫm
càng chua chát!
11.
Hùng tâm tráng khí, mà bóng quần hào sau trước vắng tênh,
Viễn
trí cao tài, nhưng đường tiến thoái dọc ngang bế tắt!
12.
Mộng phù Lê tàn phai lần lữa; làm được gì khi bóng lẻ
thân cô?
Vọng
cố hương đau xót não nùng; thương biết mấy ngày canh rau
cơm lạt!
13.
Dằn câu khí tiết, chốn sân chầu che mặt uốn lưng tôm,
Ngậm
tiếng thị phi, nơi cửa khuyết nén lòng khum gối hạc!
14.
Đã trót đánh rơi thanh kiếm, vinh dự chi lơ láo phận hàng
thần.
Thôi
đành nương náu bệ rồng, thẹn thùng lắm lất lây hồi đầu
bạc!
15.
Qua quan ải, giận cuồng ngôn tên ác tướng Phục Ba, (3)
Nhớ
Hát Giang, trọng khí tiết vị nữ vương Trưng Trắc.
16.
Dù Đồng Trụ rêu đã xanh rì ,
Nhưng
Đằng Giang cọc còn nhọn hoắt!(4)
17.
Đến viễn phương thấy đời đau khổ, kẻ tù đày, người
đói rách, nhớ quê xưa tấc dạ bồi hồi.
Viếng
danh nhân chạnh nỗi đoạn trường, nào bi phẫn, nào oan khiên
cảm thân phận cõi lòng u uất.
18.
Bởi bạo quyền giấu nanh che vuốt, nhai xương người ngọt
tợ cao lương. (5)
Nên
lê dân bóp bụng thắt hầu, ăn rau dại thường hơn cơm vắt!
19.
Đầu Ban Siêu (6) phơ phơ màu tóc, nợ sơn hà tấc đất ngọn
rau,
Mây
Hoành Sơn bàng bạc đầu non, xót phần số hồng nam nhạn
bắc!
20.
Đường công danh phủ bao lớp trần ai,
Màu
danh lợi nhuộm mấy lần bạch phát!
21.
Mãi trông đàn nhạn vỗ cánh nhịp nhàng hướng đỉnh Hồng
Sơn,
Mà
mặc vó ngựa gõ nhịp u buồn về miền Kinh Bắc!
22.
Mỗi bước li hương, mỗi bước não nùng,
Từng
hồi nhớ quê, từng hồi quặn thắt!
Mới
hay,
23.
Li ngự tửu không ngon ngọt lại đắng cay,
Tình
đồng liêu chẳng mặn mòi mà nhợt nhạt!
24.
Chốn quan trường lỡ thầy lỡ tớ, ích lợi gì chữ tốt
văn hay?
Nơi
triều trung gượng nói gượng cười, sượng sùng lắm mũ
vàng đai bạc!
25.
Chán khòm lưng quỳ nơi chín bệ, thùng thình vướng áo rộng
hài cao,
Muốn
phanh ngực nằm dưới bách tùng, thư thả ngắm trăng thanh
gió mát.
26.
Sờ tóc trắng thẹn cùng Hồng Lĩnh, thẹn cùng tảng đá,
chòm cây,
Nhìn
mây chiều nhớ đến Lam Giang, nhớ đến cội tùng, dòng thác
27.
Thanh Hiên Thi Tập, gởi gắm phận mình lỡ thời thất thế,
đá nát vàng phai,
Bắc
Hành Tạp Lục, xót thương bao người ách nước tai trời,
mưa vùi gió dập.
Dù
cho,
28.
Sao văn chương xé toạc lưng trời,
Lòng
nhân ái trải dày mặt đất.
29.
Viết văn tế độ người thảm tử, xót thập loại chúng
sinh sống đọa chết đày,
Mượn
tân thanh phổ khúc đoạn trường, thương bao phận hồng nhan
hoa trôi bèo dạt!
30.
Cảnh tang thương triền miên tám hướng, nơi ta bà bao người
lạc chợ, trôi sông,
Khói
binh đao mờ mịt chín tầng, xương vô định bấy kẻ chôn
nghiêng, liệm sấp!
31.
Sổ đoạn trường hàng hàng lớp lớp, nào giai nhân, nào tài
tử, lượn sóng đời dập cuồn cuộn oan khiên,
Đường
định mệnh lối lối thênh thênh, nào nghĩa khí, nào trung
can, dây oan nghiệt kết trùng trùng u uất!
Ôi!
32.
Mang chữ "mệnh" thì nơi đâu không phải bến Tiền Đường?
Chẳng
chữ "duyên" làm sao dễ náu nương Quan Âm các?
33.
Phận bạc luôn đọa đày bậc khoát luận cao đàm, tú khẩu
cẩm tâm,
Con
tạo khéo ghét ghen kẻ ngọc diện hồng nhan, thiên hương quốc
sắc!
34.
Dù bể tang thương trùng trùng gió bão, đầu bút thần vẫn
tỏa ánh hào quang,
Ngặt
lửa sa trường ngun ngút núi sông, câu khí tiết làm đau lòng
ngọc phác!
35.
Đâu má hồng mười lăm năm trường đoạn, mà bên tình, bên
hiếu luôn sắt son cùng sông núi thênh thênh?
Đâu
danh nhân chịu nửa kiếp phong trần, mà chữ tiết, chữ nhân
vẫn mênh mang như trăng sao vằng vặc?
Đáng
xứng danh:
36.
Vô tiền nghệ sĩ aó bố hài gai,
Khoáng
hậu thi hào lòng son dạ sắt.
37.
Không phải nguyệt mà sáng trong hơn nguyệt; trong rừng bảo
điển vĩ nhân, cụ Tiên Điền xứng danh "vạn đại thi hào"
.
Chẳng
là hoa lại thơm ngát hơn hoa; trong vườn phong tình cổ lục,
truyện Thúy Kiều đáng gọi "kỳ thư tuyệt tác".
38.
Cạnh muôn hoa, vua mẫu đơn chẳng muốn tỏa hương, (7)
Giữa
bầy chim, chúa phượng hoàng đâu cần khoe sắc! (8)
39.
Đẹp làm sao! Nhân dân ngưỡng mộ ngài với biết bao lời
châu ngọc thiết tha,
Xứng
làm sao! Thế giới tôn vinh ngài cùng trăm linh bảy danh nhân
lỗi lạc! (9)
Ôi!
Hỡi ôi!
40.
Đang cơn mây tạnh ngờ đâu gió thổi ngậm ngùi,
Trong
lúc trời quang bỗng dưng mưa bay lất phất!
41.
Thu vừa chớm mà vùng đất Tiên Điền (10) mây nhuộm âm u,
Chướng
chưa về mà dặm đường Nghi Xuân (10) lá rơi lác đác!
42.
Đao định mệnh luôn cướp đường sinh tử, dù thân chẳng
còn mà tiếng để danh lưu,
Trận
phong lôi sao át sấm tài danh, nên đèn vẫn tỏ dù mưa lùa
gió tạt.
43.
Lẽ vô thường lại đùa cợt nhân sinh,
Đò
li biệt luôn đưa sầu vạn vật!
44.
Ơn văn hào tợ trái đồi trái núi, chừng như nước lấp
đại dương,
Lời
hậu sinh như hạt bụi hạt sương, cầm bằng cát rơi sa mạc!
Hôm
nay,
45.
Chưa ba trăm năm, mà cả non sông đã đổ lệ vì người nghệ
sĩ phong lưu,
Bởi
khắp bốn cõi, cứ mỗi tấm lòng đều nghiêng mình trước
một thi hào uyên bác.
46.
Dù văn chương, dù son phấn, khi thác rồi hậu thế còn ghi,
Dù
vô mệnh, dù hữu thần, lúc lìa đời người sau vẫn nhắc.(11)
47.
Chén rượu quý kính dâng người tài đức, lượng thứ chúng
hậu sinh ý thiển lời thô,
Nén
nhang thơm tưởng nhớ bậc cao hiền, cung thỉnh đấng tiền
bối lòng thành lễ bạc.
Thượng
hưởng!
KHA
TIỆM LY
Chú
thich:
(1)
Đỗ , Vương: Đỗ Phủ, Vương Bật
(2)
Khổng, Mặc: Khổng Tử, Mặc Tử
(3)
Sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng. Mã Viện dựng trụ đồng
ở biên giới với hàng chữ khắc trên đó: "Đồng trụ chiết,
Giao Chỉ diệt" (nếu trụ đồng mà bị gãy thì Giao Chỉ bị
diệt vong"
(4)Trộm
ý của hai câu:
"Đồng
trụ chí kim đài dĩ lục,
Đằng
giang tự cổ huyết do hồng"
(Trụ
đồng đến nay rêu còn xanh biếc,
Nước
sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ vẫn còn đỏ au)
(5)
Cao lương: Trong "cao lương mĩ vị", chỉ thức ăn ngon. Nguyên
câu trộm ý 2 câu trong bài Phản Chiêu Hồn của cụ Tiên Điền:
"Bất
lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo
tước nhân nhục cam như di!"
(Không
để lộ ra nanh vuốt và sừng (có nọc) độc
Mà
cắn xé thịt người ngọt như kẹo như đường)
(6)
Ban Siêu: Vị tướng tài thời Đông Hán. Bình định Tây Vực
hồi 40 tuổi, đến 71 tuổi mới trở về kinh đô Lạc Dương;
lúc đó đầu ông đã bạc trắng .
(7)
(8): Mẫu đơn là chúa loài hoa; Phụng hoàng là chúa loài chim
(theo quan niệm xưa)
(9)
Ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) họp ở Paris đã chính thức ban hành Nghị quyết số
37C/15 phê chuẩn Quyết định số 191EX/32 và 192EX/32, nhất
trí vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn
hóa toàn thế giới. Theo đó, hoạt động tôn vinh được triển
khai ở Việt Nam và tại các nước trong cộng đồng UNSESCO
(niên độ 2014 - 2015).
(Nguồn:
https://hanam.gov.vn/…/Danh-nhan-van-hoa-the-gioi--%C4%90ai…)
(10)
Làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh là quê hương
của cụ Nguyễn Du (mộ cụ nằm tại làng Tiên Điền)
(11)
Trộm ý 2 câu trong bài "Độc Tiểu Thanh Kí":
"Chi
phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn
chương vô mệnh luỵ phần dư."
(
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi
chết .
Văn
chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở). |