Đầu
xuân bói tuồng
Phanxipăng
|
|
Tuồng,
còn gọi hát bội hoặc hát bộ, từng được xem là "quốc
kịch" của Việt Nam.
Thời
trước, dân ta có tục bói tuồng đầu xuân: từ mùng
1 đến mùng 10 Tết, mua vé vào rạp giữa lúc vở hát
bội đang diễn, hễ gặp cảnh ngộ nào xuất hiện trên
sân khấu thì dựa theo mà suy đoán vận số mình trong năm
mới.
Giờ
đây, mời quý bạn cùng tôi bói tuồng kiểu khác: thử
điểm quá trình thịnh suy của tuồng để làm cơ sở dự
báo tương lai cho chính bộ môn nghệ thuật truyền thống
độc đáo này
|
Tuồng,
loại hình kịch hát đặc thù của Việt Nam, vốn có gốc
gác lâu đời từ các hình thức diễn xướng dân gian và được
thư tịch ghi nhận thời điểm chính thức xuất hiện là thế
kỷ XIV, đời Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư
do
Ngô Sĩ Liên biên soạn(1),
thì trong cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông xâm lược, quân
đội nhà Trần bắt được tù binh Lý Nguyên Cát là một kép
hát tên tuổi ở phương Bắc. Triều đình bèn dùng Lý để
truyền thụ nghệ thuật biểu diễn cho con cái thế gia vọng
tộc. Tiếp nhận nhiều điểm phù hợp trong hí khúc Trung Hoa,
kết hợp khéo léo với nền ca múa nhạc bản địa, tuồng
Việt ra đời. Sử gia Ngô Sĩ Liên ghi nhận: "Nước ta có tuồng
truyện bắt đầu từ đấy".
Sự ảnh hưởng của
hí khúc Trung Hoa vào tuồng Việt, như chúng ta sẽ thấy, không
chỉ xảy ra một lần. Tuy nhiên, trên tiến trình giao lưu văn
hóa, tuồng Việt dần tạo lập những đặc trưng riêng biệt.
Từ thế kỷ XV, nhà
Lê quan niệm nghệ thuật sân khấu là trò du hí tiểu nhân,
triều đình ban hành văn bản quy định địa vị xã hội của
diễn viên ngang hàng... lũ trộm cướp! Chính sách hà khắc
ấy đã khiến tuồng chẳng thể phát triển suốt thời gian
dài, ít ra ở Đàng Ngoài đến thế kỷ XVI - XVII. Bằng chứng
là danh sĩ Đào Duy Từ (1572 - 1634) dù nổi tiếng thông minh
và học giỏi vẫn bị cấm thi cử vì xuất thân trong gia đình
"xướng ca vô loại". Vì thế, mùa đông Ất Sửu 1627, Đào
Duy Từ bỏ quê Thanh Hoá, trốn vào Đàng Trong, được chúa
Sãi (2)
tin dùng. Mà các chúa Nguyễn thì rất thích
tuồng. Nghệ thuật hát bội, đối với các chúa và vua Nguyễn,
đâu chỉ để giải trí đơn thuần. Hát bội còn là công
cụ tuyên truyền đầy hấp dẫn cho hệ thống chính trị và
đạo đức mà họ đề cao. Tuồng đã tìm thấy đất dung
thân. Vở Sơn Hậu là kịch bản thành văn đầu tiên
tương truyền do Đào Duy Từ khởi thảo vào giai đoạn phục
vụ dưới trướng chúa Sãi.
Triều
đại Tây Sơn cũng ưa chuộng tuồng. Bản thân hoàng đế Quang
Trung thuở thiếu thời từng làm... kép hát bội. Không ít
tướng lĩnh Tây Sơn vốn là đào kép phường tuồng. Giọng
nói mạnh mẽ của dân Bình Định cùng đòn thế võ Bình Định
đã để lại dấu ấn đậm nét trong bộ môn nghệ thuật
này. Một tư liệu quý, giúp hậu thế thấy rõ cảnh diễn
tuồng cuối thế kỷ XVIII: bức tranh màu tả thực được
in trong tập
A Voyage to Cochichina in the Years 1792 and 1793(3)của
John Barrow xuất bản năm 1806 tại London, Anh quốc. Tập I bộ
Lịch
sử Việt Nam do Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn
(NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1971, trang 395) cũng sử dụng
tranh ấy để minh hoạ.
Tuồng
càng phát triển cực thịnh dưới thời vương triều Nguyễn.
Năm Ất Dậu 1825, niên hiệu Minh Mạng thứ V, Thanh Bình
từ đường được thành lập. Đó là nhà thờ tổ của
ngành hát bội nói riêng, của giới sân khấu Việt Nam nói
chung. Bao quanh từ đường là Thanh Bình thự, cơ quan
quản lý việc múa hát cung đình và đào tạo nghệ nhân từ
lứa tuổi đồng ấu. Hiện toạ lạc trong kiệt 281 đường
Chi Lăng, phường Phú Hiệp, thành phố Huế, công trình ấy
được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng "di tích lịch sử
- văn hoá" ngày 23-6-1992.
Năm
Bính Tuất 1826, niên hiệu Minh Mạng XV, Duyệt Thị đường
là
nhà hát tuồng quốc gia được xây dựng quy mô trong Tử Cấm
thành. Dịp ngũ tuần đại khánh của hoàng đế, vở Quần
tiên hiến thọ do Nguyễn Bá Nghi soạn đã được công
diễn. Điều thú vị: đích thân vua Minh Mạng trực tiếp tham
gia viết một đoạn trong kịch bản. Giai đoạn đó, triều
đình còn mời một kép hát người Hoa là Càn Cương Hầu /
Cang Cung Hầu tới kinh đô dạy điệu hát khách. Điệu này
được đưa vào tuồng vốn sẵn điệu hát nam và điệu niêu
nồi, làm phong phú thêm phần âm nhạc của nghệ thuật hát
bội. Ngôi mộ Càn Cương Hầu hiện nằm dưới chân núi Ngự
Bình.
Vua
Tự Đức chấp chính, tuồng được nâng cao hơn và hoàn bị
về nhiều phương diện. Vị hoàng đế hay chữ ấy cho xây
thêm nhà hát tuồng Minh Khiêm đường trong Khiêm cung
(tức lăng Tự Đức); chiêu tập kép hay với đào đẹp về
Phú Xuân; lại tổ chức
Ban hiệu thư chuyên sáng tác,
hiệu đính, nhuận sắc kịch bản tuồng nhằm chuyển "phương
bản" thành "kinh bản". Ban hiệu thư quy tụ nhiều bậc uyên
áo và tài hoa như Nguyễn Hữu Đĩnh tức Nguyễn Hiển Dĩnh,
Ngô Quý Đồng, Hồ Quý Thiều, Trương Quốc Dụng, Võ Duy Tịnh,
v.v., mà đứng đầu là Đào Tấn (1845 - 1907).
Trước
kia, mỗi vở tuồng chỉ từ 1 đến 3 hồi, mỗi hồi diễn
một đêm. Đến giai đoạn này, xuất hiện những vở "kỳ
vĩ trường thiên" như Học lâm gồm 20 hồi,
Vạn bửu
trình tường gồm 216 hồi (nghĩa là diễn liên tục phải
mất gần năm trời).
Các
vị vua Nguyễn kế tiếp thảy đều trọng thị nghệ thuật
hát bội. Vua Thành Thái có lúc thủ vai Thạch Giải Trại trong
vở Xảo Tống.
Cùng với các nhà hát cung đình, nhiều
rạp tuồng "mini" được dựng trong phủ đệ của hoàng thân
quốc thích. Khắp tỉnh thành từ Bắc chí Nam, dân chúng đua
nhau lập đoàn tuồng, gánh tuồng tư nhân để diễn cố định
hoặc lưu diễn.
Hầu
hết địa phương, mỗi lần hội hè, tế lễ, thảy đều
dựng rạp, mời nghệ nhân đến hát bội. Đặc biệt, dịp
Tết Nguyên đán hằng năm, trong thành ngoài nội đâu đâu
cũng diễn tuồng khiến thiên hạ say mê tới mức:
Hát
bội hành tội người ta,
Đàn
ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con! |
Bước
sang thế kỷ XX, tuồng vẫn giữ vai trò "quốc kịch". Giáo
sư Nguyễn Lộc viết trong sách Nghệ thuật hát bội Việt
Nam (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1994): "Có thể nói trong suốt
thế kỷ XIX cũng như trước đó và non hai thập niên đầu
của thế kỷ XX, hát bội gần như chiếm độc quyền trên
toàn bộ sân khấu biểu diễn ở nước ta. Trong thời kỳ
này ta biết ở đồng bằng Bắc Bộ còn có chèo và múa rối.
Nhưng cả hai loại hình sân khấu này đều là sân khấu dân
gian và nó cũng chỉ tồn tại ở nông thôn miền Bắc chứ
chưa bao giờ có quy mô toàn quốc như hát bội."
Riêng
tính tại Huế những năm đầu thế kỷ XX, không kể các nhà
hát cung đình, đã có 14 rạp tuồng phục vụ quần chúng.
Nổi tiếng nhất là rạp Đồng Xuân Lâu mà dân địa phương
quen gọi trường / rạp Bà Tuần vì do phu nhân của Tuần vũ
Đặng Ngọc Oánh đầu tư xây dựng năm 1923 nơi phố Ngã Giữa
- tên chính thức thuở bấy giờ là rue Gia Long, đến năm 1955
đổi tên thành đường Phan Bội Châu, sang năm 1976 lại đổi
thành đường Phan Đăng Lưu.
Cần
thêm rằng song song với dòng tuồng cung đình / tuồng ngự,
dòng tuồng dân gian vẫn tiếp tục nẩy nở tạo vẻ
đẹp thú vị và phù hợp thị hiếu đại đa số quần chúng
- trong đó có lắm vở tuồng hài đã làm sân khấu hát bội
sôi động hẳn nhờ gắn bó với hiện thực cuộc sống "bụi
bặm đời thường". Thực tế, không ít tuồng hài hước giễu
cợt thói hư tật xấu của con người hoặc châm chọc quan
viên nhũng nhiễu lại được sáng tác ngay chốn nha môn. Vở
Trương
Ngáo, nhan đề khác là Thằng Ngáo đúc chuông, vốn
của thầy Đội Em làm việc ở Thanh Bình thự. Vở
Nghêu,
sò, ốc, hến, nguyên đề là Di tình,
có tài liệu
cho rằng do Tuy Lý Vương Miên Trinh - hoàng tử thứ 11 của
vua Minh Mạng - soạn thảo.
Trước
đây, tuồng được phân làm 2 loại chính: tuồng đồ
và tuồng pho. Tuồng đồ không theo tích truyện Tàu,
ví dụ các vở Quần tiên hiến thọ, Quần phương hiến
thuỵ, Vạn bửu trình tường, Lý Phụng Đình. Tuồng pho
dựa vào tích truyện Trung Hoa, như các vở Đãng khấu, Tống
sử, Hộ sanh đàn, Phong thần, Trầm hương các, Tiết Giao đoạt
ngọc, Tống Địch Thanh, Chung Vô Diệm. Kể từ năm 1911,
nhà ái quốc Phan Bội Châu (1867 - 1940) sáng tác tuồng
Trưng
Nữ Vương làm dấy lên phong trào soạn tuồng có nội
dung rút từ sử Việt:
Đông A song phụng của Nguyễn
Hữu Tiến, Nguyễn Trãicủa Từ Diễn Hồng,
Nghĩa
nặng tình sâu tức Mỵ Châu - Trọng Thuỷ
của Hoàng
Tăng Bí, v.v.
Một
xu hướng nữa góp phần cách tân tuồng bản cần ghi nhận:
chuyển
thể kịch Tây phương thành tuồng Việt mà người tiên
phong là thi sĩ Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 - 1961) với vở
hát bội Lộ Địch phóng tác từ vở kịch Le Cid của
Pierre Corneille (1606 - 1684). Vở tuồng Lộ Địch
đã ấn
hành năm 1936, tái bản năm 1954 và 1992. Công Tằng Tôn Nữ
Hỷ Khương - ái nữ của Ưng Bình - nhận định:
-
Trong sự nghiệp thi ca của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, xét về
mặt nghệ thuật, văn chương, có lẽ những gì sáng giá nhất
đều nằm trong cuốn tuồng này.
Từ
xuất hiện đến nay, vở Lộ Địch đã diễn đi diễn
lại nhiều lần, mà gần đây được Nhà hát tuồng Đào Tấn
ở Bình Định dàn dựng trên sân khấu Quy Nhơn (17-1-2000),
Sài Gòn (14-3-2000), Hà Nội (19-9-2000), Huế (4-4-2001), v.v. Nữ
nghệ sĩ Hoà Bình - giám đốc Nhà hát tuồng Đào Tấn và
là người thủ vai chính Chi Manh - cho biết:
- Có
thể nói vở Lộ Địch là một bông hoa tươi đẹp nẩy
sinh từ mối giao lưu văn hoá Việt - Pháp. Diễn vở tuồng
này ngay tại quê hương của Ưng Bình càng thích hợp.
Trở
lại giai đoạn 1930 - 1945. Đó là thời hưng thịnh của văn
học nghệ thuật lãng mạn, có những tác động nhất định
đối với sân khấu tuồng. Những vở gọi là "tuồng tiểu
thuyết" mang cốt truyện tình yêu nam nữ thị dân éo le,
mùi mẫn, trở thành gu(4)thời
thượng. Chẳng hạn vở Lỡ chuyến xe hoa của Nguyễn
Châu Thành. Những vở ấy được xem là bước thử nghiệm
cho dòng tuồng khai thác đề tài đương đại. Thời gian này,
cải lương vừa trải qua quá trình hình thành và đang phát
triển mạnh. Không ít gánh tuồng tìm cách thu hút khán giả
bằng cách "cải lương hoá" và cả "kịch nói hoá" nghệ thuật
hát bội cổ truyền.
Từ
năm 1954, nghệ thuật tuồng thịnh suy ra sao? Ở miền Bắc,
sau một số năm cấm diễn tuồng vì xem đấy là "sản phẩm
phong kiến", Nhà nước đã chủ trương phát huy văn hoá dân
tộc và quan tâm đến các bộ môn hát bội, chèo, cải lương.
Trên cơ sở Đoàn tuồng liên khu 5 tập kết, phối hợp một
bộ phận nghệ nhân "tuồng Bắc" tại các tỉnh Nghệ An, Thanh
Hoá trở ra, Nhà hát tuồng Việt Nam được thành lập năm
1959 tại Hà Nội, sau đổi tên thành Nhà hát tuồng trung ương.
Ở miền Nam, hoạt động nghệ thuật chủ yếu do tư thương
đầu tư và điều khiển. Một hội đoàn tư nhân lấy danh
hiệu "Khuyến lệ cổ ca" ra đời với mục tiêu phục hưng
hát bội. Tuồng được giảng huấn trong trường Quốc gia
Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn. Khi cần giới thiệu tuồng
Việt với quan khách nước ngoài tại Manila (Philippines) hoặc
Hội chợ quốc tế Osaka (Nhật Bản), chính quyền Sài Gòn
đã cử đoàn Ba Vũ từ Huế xuất ngoại trình diễn.
Giai
đoạn bấy giờ, dẫu gặp lắm khó khăn do thời cuộc bất
ổn, các công trình khảo tả và nghiên cứu về tuồng vẫn
được xúc tiến. Đó là các công trình của Nguyễn Nho Tuý,
Hoàng Châu Ký, Nguyễn Lai, Lê Ngọc Cầu, Vũ Ngọc Liễn, v.v.,
thực hiện ở miền Bắc; và của Vương Hồng Sển, Hồ Hữu
Tường, Nguyễn Văn Quý, Huỳnh Khắc Dụng, Đinh Bằng Phi,
v.v., thực hiện ở miền Nam. Ở hải ngoại, quý học giả
Trần Văn Khê, Emile Gaspardone, Jules le Maỵtre, v.v, cũng bắt
tay nghiên cứu tuồng và có những đánh giá cao đối với
nghệ thuật hát bội Việt Nam.
Tuy
nhiên, vấn đề nghiên cứu và đào tạo, sáng tác và biểu
diễn tuồng trong hoàn cảnh chiến tranh vừa tương tàn vừa
ly tán chắc chắn bị hạn chế nhiều mặt, dù ở nơi đâu.
Do đó, lực lượng nghệ sĩ cũng như giới hâm mộ nghệ thuật
hát bội tha thiết trông chờ ngày đất nước Việt Nam hoà
bình và thống nhất.
|
|
Sơn
hậu diễn ca (Quan Văn Dương tàng bản, 1921)
|
Hậu
tổ ngành hát bội / tuồng:
Đào
Tấn (1845 - 1907)
|
|
Tổ
quốc Việt Nam hòa bình và thống nhất. Kỳ vọng ấy đã
trở thành hiện thực và được ngành nghệ thuật hát bội
cắm mốc son ghi nhớ bằng Hội diễn tuồng toàn quốc tổ
chức tại Bình Định năm 1976. Hàng chục đoàn tuồng từ
nhiều tỉnh thành khắp ba miền đất nước lần đầu tiên
hân hoan gặp gỡ, giao lưu. Tiếp đó, một số đoàn tuồng
được nâng cấp lên Nhà hát, một số đoàn tuồng khác lần
lượt khai sinh, ngỡ sẽ vực dậy nền "quốc kịch" trước
vận hội mới.
Nhiều diễn viên xuất
thân từ Đoàn tuồng liên khu 5, tập kết ra Bắc, công tác
tại Nhà hát tuồng trung ương, sau ngày "non sông liền một
dải" liền hồ hởi trở về Nam. Trải qua giai đoạn ngắn
khủng hoảng thiếu nhân sự, Nhà hát tuồng trung ương tìm
cách ổn định lại đội ngũ, biên chế làm 3 đoàn: đoàn
truyền thống, đoàn biểu diễn I và đoàn biểu diễn II. Nhà
hát có kịch mục khá đa dạng, song phong cách diễn xuất rõ
ràng thiên về tuồng Bắc. Dàn đào kép chủ chốt nơi đây
dần được phong danh hiệu nghệ sĩ nhân dân (NSND) và nghệ
sĩ ưu tú (NSƯT), gồm: Tiến Thọ, Hoàng Khiềm, Mẫn Thu, Quang
Hải, Gia Khoản, Ánh Dương, Hán Văn Tình, Cao Đình Lưu, Hồng
Khiêm, Hương Thơm, Minh Sự, Minh Gái, v.v. Thế nhưng, đại
bộ phận quần chúng ở Hà Nội nói riêng, ở các tỉnh phía
Bắc nói chung, ít mê tuồng - dù là tuồng Bắc. Điều đó
có lý do lịch sử. Giáo sư Nguyễn Lộc (tlđd) khẳng định:
"Hát bội phát triển mạnh là ở Đàng Trong chứ không phải
Đàng Ngoài." Cạnh đấy, còn thêm những lý do khác sẽ đề
cập ở đoạn dưới.
Nhà hát nghệ thuật
hát bội TP.HCM hiện nay, vốn là Đoàn nghệ thuật hát bội
TP. HCM ra đời năm 1977 đã tập hợp được nhiều diễn viên
tuồng "gạo cội" như Năm Đồ, Ba Út, Lệ Khanh, Kim Chắc,
Châu Kỷ, Công Chấn, Minh Biện, Thành Tôn (5),
Huỳnh Mai (5),
v.v.
Đơn vị này có các tác giả thường trực là Đỗ Văn Rỡ
và Đinh Bằng Phi. Năm 1979, băng ghi âm trích đoạn vở
Phi
Long tiễn chồng do NSND Năm Đồ diễn cùng NSƯT Châu Ký
đem lại thành công vang dội: đoạt giải thưởng IMC (The International
Music Council: Hội đồng Âm nhạc thế giới thuộc UNESCO). Năm
1993, tại
Liên hoan các trích đoạn tuồng hay toàn quốc
tổ
chức ở Huế, đơn vị này dẫn đầu về số lượng huy chương
vàng. Vậy mà giờ đây, đi ngang rạp Long Phụng - trụ sở
của Nhà hát nghệ thuật hát bội TP.HCM - nào thấy mấy khi
diễn tuồng?
Từ
Vũng Tàu, anh Võ Trọng Nam - giám đốc Nhà hát nghệ thuật
hát bội TP.HCM - điện thoại cho tôi hay:
- Tính
bình quân, Nhà hát hát bội TP.HCM diễn chừng... 4 suất! Nhưng
không chỉ diễn tại rạp Long Phụng, mà có khi tại Nhà hát
lớn, Nhà văn hóa thanh niên, hoặc tại các trường học, xí
nghiệp. Để duy trì hoạt động trong tình trạng khó khăn
hiện thời, các nghệ sĩ còn tranh thủ lưu diễn nhiều tỉnh.
Mà đâu có diễn liên tục được, vì khách coi hát bội ngày
càng thưa vắng!
Bình
Định được xem "cái nôi tuồng", thì sao? Tiền thân là Đoàn
tuồng liên khu 5, Nhà hát tuồng Nghĩa Bình được thành lập
năm 1978 và đến năm 1987 đổi tên thành Nhà hát tuồng Đào
Tấn, quy tụ lực lượng diễn viên hát bội thuộc loại hùng
hậu nhất nhì nước: Võ Sĩ Thừa, Đình Bôi, Đình Thôn, Hòa
Bình, Phương Thảo, Xuân Hợi, Minh Ngọc, v.v. Từ ấy đến
nay, Nhà hát này đã công diễn gần 100 vở tuồng, trong đó
có những tác phẩm được chỉnh lý lại kịch bản cho lớp
lang gọn gàng, dàn dựng thuận tiện, với lời thoại rõ ràng,
trong sáng, dễ hiểu hơn, song vẫn cố gắng bám sát nội dung
tuồng tích cũ và các "ngón", "miếng" truyền thống. Như vở
Lộ
Địch, Ưng Bình viết 3 hồi, nay thu gọn 1 hồi đủ diễn
trong 1 đêm. Hoặc vở Ngọn lửa Hồng Sơn vốn là tuồng
cổ Tam nữ đồ vương, một vở "tuồng thầy" chưa rõ
tác giả và thời điểm sáng tác. Không chỉ phục vụ trong
phạm vi tỉnh Bình Định, Nhà hát còn vào Nam ra Bắc lưu diễn,
cả xuất ngoại giới thiệu tuồng với bốn biển năm châu.
Nhờ những thành tích hoạt động, Nhà hát tuồng Đào Tấn
được Chính phủ tặng Huân chương lao động hạng nhất vào
năm 1993.
Giám
đốc Nhà hát tuồng Đào Tấn là nữ NSƯT Hòa Bình, nguyên
quán Kim Long (Huế), song nói giọng Bắc. Ngay sau lễ bế mạc
phiên họp thứ 10 Quốc hội khóa X, ngày 25-12-2001, đúng dịp
No l, tôi nghe chị Hòa Bình bộc bạch:
- Như
nhiều bộ môn nghệ thuật dân tộc cổ truyền, hát bội đang
gặp vô số khó khăn, trở ngại giữa cơ chế thị trường
hiện nay. Trở ngại lớn nhất là khán giả thanh niên và trung
niên bây giờ chẳng mấy thiết tha với tuồng. Khán giả cao
tuổi yêu tuồng thì dần khuất núi. Đời sống của diễn
viên tuồng, vì vậy, khá vất vả. Kể ra, so với các tỉnh
thành khác, một bộ phận dân Bình Định vẫn còn khoái tuồng.
Tổng kết năm 2001, Nhà hát tuồng Đào Tấn diễn được 125
đêm. Mỗi đêm như thế, diễn viên nhận thù lao bồi dưỡng
cỡ... 10.000 ~ 30.000 đồng. Cạnh đó, mỗi người được hưởng
lương tháng bình quân 600.000 đồng. Kinh phí hoạt động của
đơn vị rõ ràng "hơi bị" eo hẹp. Vở tuồng Lộ Địch
nổi
tiếng của Ưng Bình, anh chị em đây muốn dựng từ lâu, nhưng
chẳng thực hiện nổi bởi... túng thiếu. Vừa qua, may mắn
được Mạnh Thường Quân trong lẫn ngoài nước tài trợ 130
triệu đồng, Nhà hát tuồng Đào Tấn bèn dốc sức dàn dựng
Lộ
Địch với kế hoạch diễn trong 5 năm: 2000 - 2005.
Báo
chí đánh giá vở
Lộ Địch do Nhà hát tuồng Đào Tấn
thể hiện là "rất thành công". Trực tiếp dự khán, tôi lại
không tránh khỏi ngậm ngùi: mọi buổi diễn đều... chẳng
bán vé!
Tương
tự, Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh tại Đà Nẵng cũng lâm
vào hiện trạng chưa lấy gì gọi là sáng sủa, dù dàn diễn
viên rất gắn bó với nghề như cô đào Minh Hải. Vừa đóng
xong vai chính trong phim Tài tử nghiệp dư của đạo diễn
Phan Hoàng, Minh Hải vẫn tuyên bố trước báo giới:
- Không
bao giờ Minh Hải có thể bỏ nghề hát tuồng để làm hẳn
một công việc nào khác, kể cả đóng phim với mức thù lao
hấp dẫn nhiều hơn chăng nữa.
Trong
sách Truyền thống sân khấu Huế do Sở Văn hóa Thông
tin Bình Trị Thiên xuất bản năm 1986, Nguyễn Huy Hồng nhận
xét: "Cả nước ta, có lẽ không đâu có phong trào ' chơi hát
bội ' như ở Huế. (...) Phải nhận rằng chính ở Huế, nơi
trung tâm văn hóa, nơi hội tụ nhiều văn nhân, trí thức,
nghệ sĩ có tài, đã nâng cao nghệ thuật [tuồng] thành một
nghệ thuật sân khấu cổ điển dân tộc hoàn thiện". Qua
chuyên luận
Tuồng Huế (NXB Thuận Hóa, Huế, 1993), tiến
sĩ Tôn Thất Bình nhấn mạnh: "Tuồng Huế là mẫu mực, là
đỉnh cao của nghệ thuật tuồng Việt Nam". Vậy tình hình
ngành hát bội ở cố đô thời gian qua khả quan chăng?
Đến
nay, tại miền Hương Ngự, vẫn còn những nhà sống chết
"lăn lửa" với tuồng. Tiêu biểu là gia đình La Cháu. Lão
nghệ nhân này có 16 đứa con thì 15 người đều nối nghiệp
cha: đóng tuồng, dựng tuồng, dạy tuồng. Liên hoan các
trích đoạn tuồng hay toàn quốc năm 1993, ông cùng 3 con
tham gia bằng 5 trích đoạn ngoạn mục. Cả 4 cha con đều đoạt
huy chương, trong đó có NSƯT La Thị Cẩm Vân hiện làm Trưởng
đoàn Nghệ thuật truyền thống Huế. Cẩm Vân cũng là người
đảm trách chương trình Âm sắc cung đình trong các kỳ
Festival Huế. Gặp tôi trước Ngọ Môn, Cẩm Vân nói:
- Sau
năm 1975, lấy đoàn Ba Vũ trong Đại Nội làm nòng cốt, đoàn
Múa hát truyền thống Huế được xây dựng rồi phát triển
thành đoàn Nghệ thuật truyền thống Huế. Nhiệm vụ của
đoàn là luyện tập và biểu diễn nhiều tiết mục sân khấu
cố đô cổ truyền, mà tuồng là một bộ phận hết sức
quan trọng.
La
Thị Cẩm Vân lặp lại ý tưởng trọng yếu mà chị đã phát
biểu tại hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị tuồng
cung đình Huế vào cuối tháng 7-2000:
- Vấn
đề nóng bỏng hiện nay của đa số diễn viên cũng như của
người làm công tác giảng dạy là rất cần có một giáo
trình, hoặc giáo án hoàn chỉnh về tuồng.
Theo
tôi biết, năm 1981, một đoàn tuồng nghiệp dư mang tên Thanh
Bình đã ra đời với sự bảo trợ của Phòng Văn hóa Thông
tin TP. Huế. Gọi "nghiệp dư" chứ thực tế, đoàn Thanh Bình
được dẫn dắt bởi các nghệ nhân chuyên nghiệp lão thành
như Dương Hòa, Phan Hữu Lễ, v.v. "Ông bầu" của đoàn Thanh
Bình lại là kịch tác gia Nguyễn Châu Thành (1911 - 1991), người
từng sáng tác hoặc cải biên nhiều vở tuồng gây tiếng
vang như Phạm Công - Cúc Hoa (soạn chung với La Cẩm Vân),
Lỡ
chuyến xe hoa, Bạch Viên - Tôn Các, Thoại Khanh - Châu Tuấn,
Đại miêu diệt thử, Án tử hình. Dù nỗ lực vượt bực,
đoàn Thanh Bình chẳng tài nào tự hạch toán kinh doanh nổi,
chủ yếu vì thiếu khán giả. Cuối cùng, đoàn Thanh Bình phải
giải thể năm 1990. Khách yêu tuồng ở cố đô đành phải
ngậm ngùi cảm thán:
- Tuồng
làm sao "chọi" lại nhạc nhẹ và vidéo các kiểu?
Kỳ
thật, số phận ngành hát bội thời hiện đại đã được
báo trước bằng sự kiện rạp Đồng Xuân Lâu ở Huế tồn
tại tròn 6 thập niên và chính thức bị triệt hạ ngày 24-4-1983.
Hỡi ôi!
|
|
Tả
Giang vai Lã Bố trong vở Phụng Nghi đình diễn tại Sài Gòn
năm 1960
|
Trên
sân khấu Nhà hát tuồng trung ương ở Hà Nội.
Ảnh:
Bảo Chân
|
|
Tại
hội thảo khoa học
Đi tìm đặc trưng văn hóa Việt Nam
do Trung tâm Nghiên cứu và giao lưu giáo dục quốc tế thuộc
Đại học Sư phạm TP.HCM tổ chức vào hạ tuần tháng 6-2000,
giáo sư Hoàng Châu Ký - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu
sân khấu - nêu nhận định: "Ngành tuồng hiện đương gặp
nhiều khó khăn, khách xem tuồng ít dần. Tất nhiên,
theo quy luật, những nghệ thuật đích thực rồi sẽ sống
lại sau cơn bão táp, sống lại với sự điều chỉnh theo
hướng hiện đại và giữ vững bản sắc dân tộc, bản sắc
loại hình."
Trong khi chờ đợi thực
tiễn kiểm định "quy luật" kia, chúng ta thử giải đáp câu
hỏi: cớ sao giới trẻ ngày nay không mê tuồng như quý cụ
ông, cụ bà?
Một trong những lý do
dễ thấy là vấn đề kiến thức. Muốn thưởng ngoạn opéra,
loại hình nhạc kịch phương Tây, khán thính giả cần trang
bị một trình độ hiểu biết nhất định. Muốn thưởng
thức loại hình nhạc kịch đặc thù của Việt Nam là tuồng,
sự đòi hỏi cũng thế. Xem tuồng, không khó, nhưng lại chẳng...
dễ! Bởi tuồng là nghệ thuật sân khấu biểu hiện được
mô hình hóa. Mô hình từ nhân vật đến động tác hình thể
và từng điệu hát, nói. Mô hình cả không gian lẫn thời
gian nhằm "gợi lên cái cụ thể từ cái trừu tượng, tạo
nên cái thực từ cái hư, làm nên có từ chỗ không, biến
cái hữu hạn thành cái vô hạn" như Nguyễn Huy Hồng (sđd)
từng đúc kết.
Ngày
xưa, sàn diễn trống trơn bốn mặt, chẳng có phông màn hay
cánh gà. Ấy thế mà nghệ nhân xuất hiện, chỉ cần vài
ngôn ngữ và hành động mang tính ước lệ, thiên hạ biết
ngay đấy là thư phòng hay tửu quán, là bình minh hay hoàng
hôn, v.v. Với cây roi đơn giản cầm tay, bằng mấy bước
cách điệu "mã hóa" sẵn, diễn viên cho mọi người hay rằng
mình đang đi bộ hay cưỡi ngựa, nếu cưỡi ngựa thì đang
phi nước kiệu hay phóng nước đại. Thoạt trông y phục cùng
cách hóa trang của đào kép, khán thính giả liền xác định
ngay địa vị lẫn tính cách nhân vật: vua hay hoàng hậu, quan
võ hay quan văn, trung hay gian, nóng nảy bộc trực hay nịnh
hót trá mị. Thế hệ thanh niên bây giờ, kể cả tầng lớp
trí thức, hỏi mấy ai thấu hiểu những điều đó? Chưa hiểu
tuồng, làm sao họ tìm xem, chứ khoan nói am tường thanh
- sắc - thục - tinh - khí - thần (6 tiêu chuẩn cao nhất
của nghệ thuật hát bội) để tranh nhau cầm chầu, tức giành
quyền cầm dùi nện trống bày tỏ sự khen chê vở diễn.
Từ
năm 1991, nhiếp ảnh gia Đức Huy mở một "đột phá
khẩu" rất có ý nghĩa: đeo đuổi chụp hàng loạt kiểu hóa
trang mặt nhân vật tuồng cổ rồi liên tục triển lãm tại
TP.HCM, Long An, Bến Tre, Vũng Tàu, Huế. Một số bức ảnh tuồng
của Đức Huy đã đoạt giải ACCU (The Asian Cultural Centre for
UNESCO: Trung tâm văn hoá châu Á thuộc UNESCO), giải "Di sản
văn hóa thế giới" ở Himeji (Nhật Bản). Ghé xem ảnh tuồng
do Đức Huy triển lãm trong khuôn khổ Festival Huế 2000, NSƯT
Đinh Bằng Phi khen: "Công trình chụp ảnh nghệ thuật hát bội
qua các mặt nhân vật, với những trình thức trong biểu diễn,
của nghệ sĩ nhiếp ảnh Đức Huy đã đóng góp rất lớn
cho việc phổ biến, duy trì và phát huy bộ môn sân khấu truyền
thống Việt Nam". Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - lúc ấy là Bộ
trưởng Văn hóa Thông tin - ghi vào sổ cảm tưởng: "Một triển
lãm rất đáng ngạc nhiên và thú vị".
Xem ảnh chụp mặt tuồng,
ai ai cũng thích, nhất là khách... ngoại quốc. Nếu so với
cách hóa trang mặt trong bi kịch Hy Lạp cổ đại, Kinh kịch
Trung Hoa, kịch Nô của Nhật và kịch mặt nạ của Triều
Tiên, thì càng thấy lối vẽ mặt trong nghệ thuật hát bội
Việt Nam có lắm điểm đặc sắc. Một điểm độc đáo:
diễn viên tuồng dùng màu vẽ thẳng lên mặt. Chất liệu
tạo màu rất dễ kiếm trong tự nhiên, với nguồn gốc thực
vật, động vật và khoáng vật, được xử lý sao để khó
phai nhòa nhưng dễ tẩy rửa, đặc biệt là hoàn toàn không
gây hại làn da. Điểm độc đáo nữa: tuồng chỉ vẽ mặt
vai kép, còn vai đào thì trang điểm bình thường - ngoại trừ
đào Tam Xuân và Chung Vô Diệm.
Trao tặng tôi cả album
ảnh dày cộp, Đức Huy thở dài:
- Đáng giật mình là
khi các bạn nước ngoài gạn hỏi tên cùng ý nghĩa từng mặt
tuồng, hầu hết dân Việt tại các cuộc triển lãm đều...
ngượng nghịu lắc đầu, Phanxipăng ạ! Vậy biết bao giờ
nền "quốc kịch" Việt Nam được phục hồi, phục hưng?
Tôi thiển nghĩ: nền
"quốc kịch" Việt Nam tương lai có được phục hồi, phục
hưng hay chăng, phụ thuộc vào biết bao điều kiện. Điều
kiện trọng yếu là mối quan tâm thỏa đáng của nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều giới đối với tuồng. Chẳng hạn hệ
thống giáo dục quốc dân tích cực "về nguồn" thế nào?
Các phương tiện truyền thông đại chúng lưu ý phổ biến
cái đẹp, cái hay, cái lạ, và cả vạch ra những cái hạn
chế của bộ môn sân khấu truyền thống nước nhà ra sao?
Tuy nhiên, theo tôi, điều kiện tiên quyết vẫn là nội lực
của chính bản thân nghệ thuật hát bội.
|
___________
(1)
- Nguyên tác chữ Hán
大越史記全書 được in toàn
bộ lần đầu tiên theo ván khắc niên hiệu Chính Hoà XVIII,
triều vua Lê Hy Tông, tức năm Đinh Sửu 1697; được gọi Nội
các quan bản. Đó là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất hiện
còn bảo lưu nguyên vẹn tại Thư viện Viện Viễn Đông Bác
Cổ / École française d'Extrême-Orient (EFEO) ở Paris, thủ đô
nước Pháp, đã được Ngô Đức Thọ dịch & chú thích.
Bản dịch này được ấn hành lần đầu tiên gồm 4 tập
(NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998).
(2)
- Chúa Sãi / Sĩ Vương Nguyễn
Phúc Nguyên (1563 - 1635).
(3)
- Chuyến du lịch Nam Kỳ những
năm 1792 - 1793.
(4)
- Phiên âm danh từ tiếng Pháp
goût, trong ngữ cảnh này mang nghĩa sở thích, thị hiếu.
(5)-
Thành Tôn và Huỳnh Mai là song thân của các nghệ sĩ tài danh
Bạch Lê, Bạch Lựu, Bạch Lý, Bạch Long và Thành Lộc.
Đã
đăng tạp chí Kiến Thức Ngày Nay
414
(10-2-2002) & 415 (20-2-2002)
|
Cảnh
hát bội cuối thế kỷ XVIII ở Đàng Trong qua tranh của John
Barrow trong sách in tại London, Anh, năm 1806
Sơn
hậu diễn ca (Quan Văn Dương tàng bản, 1921)
Hậu
tổ ngành hát bội / tuồng: Đào Tấn (1845 - 1907)
Diễn
tuồng trong cung đình Huế: quỷ vương & bè lũ lâu la
Duyệt
Thị đường - nhà hát tuồng quốc gia được xây trong Đại
Nội Huế từ năm Bính Tuất 1826. Ảnh: Phanxipăng
Chí
sĩ Phan Bội Châu, tác giả vở hát bội Trưng Nữ Vương
Tả
Giang vai Lã Bố trong vở Phụng Nghi đình diễn tại Sài
Gòn năm 1960
Tổng
thống Ngô Đình Diệm cùng thân quyến thưởng thức hát bội
tại Huế
Vở
hát bội
Lộ Địch do Ưng Bình Thúc Giạ Thị phóng tác
kịch
Le Cid của Corneille
được
Nhà hát tuồng Đào Tấn dàn dựng.
Ảnh:
Phanxipăng
Trên
sân khấu Nhà hát tuồng trung ương ở Hà Nội.
Ảnh:
Bảo Chân
Nhà
hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh ở Đà Nẵng.
Ảnh:
Phanxipăng
Hữu
Hoà thủ vai Tào Tháo.
Ảnh:
Đức Huy
|