Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về  ]

PHIÊN ÂM
Hành dịch đăng gia sơn 1*

Hành dịch đăng gia sơn,
Kiều thủ vạn lý thiên.
Ðổ bằng nam minh ngoại,
Tân nhật đông nhạc tiền.
Yên Phụ thiên nhất ác,
Tượng Ðầu nhẫn cửu thiên.
Tằng tằng Tử Tiêu vân,
Hội phỏng An Kỳ tiên.
Húng húng Bạch Ðằng đào,

Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.
ức tích Trùng Hưng Ðế,
Khắc chuyển khôn oát kiền.
Hải phố thiên mông đồng,
Hiệp môn vạn tinh chiên.
Phản chưởng điện ngao cực,
Vãn Hà tẩy tinh chiên.
Chí kim tứ hải dân,
Trường thuyết cầm Hồ niên.

Trần triều nhất bách tứ thập tứ tự cửu nguyệt ngũ nhật. Nhập nội hữu nạp ngôn Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh phụng chiếu giản duyệt ngũ lộ chi binh, đăng Thạch Môn Sơn tác. Dương Nham Phạm Sư Mạnh thư.

DỊCH NGHĨA
Nhân đi việc quan, lên chơi núi quê nhà

Nhân đi việc quan, lên chơi núi quê nhà,
Ngẩng đầu nhìn trời cao muôn dặm.
Thấy chim bằng ngoài biển nam,
Ðón mặt trời mọc trước dãy núi phía đông.
Núi Yên Phụ (1) chỉ cách trời một nắm tay,
Núi Tượng Ðầu (2) cao chín nghìn mẫu (3).
Mây lớp lớp trên đỉnh Tử Tiêu (4),
Nhân dịp hỏi thăm tiên An Kỳ (5).
Sóng Bạch Ðằng (6) cuồn cuộn,
Tưởng tượng tới thuyền của Ngô Vương (7).
Nhớ vua Trùng Hưng xưa (8),
Khoảng khắc làm chuyển đất xoay trời.
Hàng nghìn chiến thuyền ngoài cửa biển,
Muôn lá cờ lệnh trên cửa ải (9).
Trở bàn tay đặt cõi bờ vào thế yên ổn,
Kéo nước sông Ngân rửa sạch vết tanh hôi.
Ðến nay nhân dân cả nước,
Nhắc mãi năm bắt giặc Hồ (10).

DỊCH THƠ
Lên thăm núi Thạch Môn,
Ngẩng trông trời vút cao.
Biển nam chim bằng dậy,
Núi đông mặt trời chào.
Núi Yên Phụ chạm trời,
Tượng Ðầu chất ngất cao.
Tử Tiêu mây trùng trùng,
An Kỳ ở chốn nao.
Sóng Bạch Ðằng cuồn cuộn,

Ngô Quyền diệt Hoằng Thao.
Nhớ xưa Trùng Hưng Ðế,
Làm đất chuyển trời chao.
Cửa biển nghìn thuyền đậu,
Non ải vạn cờ đào.
Trở tay định bờ cõi,
Kéo sông rửa tanh hôi.
Nhân dân nay còn kể,
Chuyện thắng Hồ năm nào.

Tuấn Nghi
dịch
Triều nhà Trần năm thứ 144, tháng 9, ngày 5, chức Nhập nội Hữu nạp ngôn là Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh vâng lệnh nhà vua đi tuyển duyệt binh lính năm lộ, lên núi Thạch Môn, làm bài thơ này. Dương Nham Phạm Sư Mạnh viết.
Khảo đính:
1* Bài thơ này vốn không có đầu bài. Hiện còn bản khắc đá trên vách hang núi Kính Chủ thuộc xã Phạm Mệnh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương ngày nay. Có lẽ dựa vào những hàng chữ "lạc khoản", khắc dưới bài thơ, nên các bản Toàn Việt thi lục, đều tự đặt thêm đầu bài. Thí dụ, Toàn Việt thi lục; A.1262 ghi đầu đề bài thơ là: Giản ngũ lộ binh đăng Thạch Môn Sơn lưu đề...; ở đây chúng tôi lấy câu đầu của bài thơ để đặt đầu bài.

Chú thích:

    (1) Núi Yên Phụ: ở gần núi Kính Chủ, thuộc xã Tuyên Xá, huyện Hiệp Sơn, tỉnh Hải Dương.
    (2) Núi Tượng Sơn: Theo Phương Ðình địa chí của Nguyễn Văn Siêu, thì Tượng Sơn còn có tên là núi Yên Tử. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì núi Yên Tử ở vào huyện Ðông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
    (3) Nhẫn: Thời xưa lấy 7 hoặc 8 "xích" làm một "nhẫn". "Nghìn nhẫn" ý nói núi rất cao.
    (4) Tử Tiêu: Một ngọn núi trong núi Yên Tử.

    (5) Tiên An Kỳ: Tức An Kỳ Sinh; sống vào đời Tần, tu đạo thành tiên, tương truyền có đến tu ở núi Yên Tử.

    (6) Sông Bạch Ðằng: Ðoạn sông chảy qua xã Ðoan Lễ, đổ ra cửa biển Nam Triệu. Tại đây đã diễn ra nhiều trận thủy chiến lẫy lừng của Ngô Quyền chống quân Nam Hán (938) và của Trần Quốc Tuấn chống quân Nguyên (1288).

    (7) Ngô Vương: Tức Ngô Quyền, người anh hùng đã chỉ huy quân ta đánh bại quân Nam Hán, giết con vua Nam Hán là Lưu Hoằng Thao, giành lại quyền tự chủ cho đất nước sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc.

    (8) Trùng Hưng: Niên hiệu vua Trần Nhân Tông. ý chỉ cửa ải trên núi Kính Chủ.

    (9) Giặc Hồ: Chỉ giặc ngoại xâm nói chung. Trong bài này chỉ giặc Nguyên.