[ Trở về ]

Phần Một : t́m hiểu nội dung và xuất xứ Thầp Ngưu Đồ

I ) Thập Ngưu Đồ do ḥa thượng Khuếch Am, trụ tŕ Đỉnh Châu Lương Sơn

Thập Ngưu Đồ

Đệ Nhị: Kiến Tích (Thấy Dấu)

 

Tựa của Từ Viễn:

Ỷ kinh giải nghĩa, duyệt giáo tri tung. Minh chúng khí vi nhất kim, thể vạn vật vi tự kỷ. Chính tà bất biện, chân ngụy hề phân.Vị nhập tư môn, quyền vi kiến tích.

Diễn ư:

Dựa vào kinh điển sẽ hiểu ư nghĩa, đọc lời dạy dỗ th́ t́m ra dấu vết.Hăy thấy rơ rằng bao nhiêu khí cụ khác nhau đều được làm ra từ một chất kim (vàng), phải coi ḿnh cùng với vạn vật như một. Nếu không phân biệt lời dạy dỗ để biết chuyện nào đúng chuyện nào sai, làm sao có thể phán đoán cái ǵ thật, cái ǵ giả. Khi c̣n chưa len vào bên trong cánh cửa của Phật pháp, th́ chưa thực sự thấy được dấu đạo)  

Phụ chú:

Kiến tích: Trong kinh điển có nhiều chuyện nói về “đắc đạo tích” (t́m được dấu đạo) như Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận, của Đạt Ma, đoạn 74. Tăng Triệu gọi giáo điển là giáo tích. Trong thiền lục đời Đường cũng có nhiều chuyện tương tự. Chương này cho ta thấy là bàn chân chỉ có một nhưng dấu chân th́ rất nhiều. Để biết trên con đường này nhiều người đă đi qua. Nó như muốn báo trước câu nói trong chương 10 Nhập triền thùy thủ: “Phụ tiền hiền chi đồ triệt” (Quay lưng lại vết xe của hiền nhân trong quá khứ). Trang Tử trong biên Thiên Vận có nhắc lời Lăo Tử dạy Khổng Tử: “Lục Kinh là dấu vết của cái dép mục của tiên vương chứ không phải là chính là đôi dép”.   

Ỷ kinh giải nghĩa: Bách Trượng Quảng Lục có chép: Ỷ kinh giải nghĩa là cách đuổi tà ma của tam thế chư Phật. C̣n ly kinh giải nghĩa lại giống như nói chuyện ma quái (ma thuyết).”

Minh chúng khí vi nhất kim: Chữ trong Lăng Già Kinh. Lại có ví dụ tương tự trong Pháp Hoa Kim Sư Tử Chương. Ư nói, tuy vết của trâu th́ nhiều nhưng chỉ cần t́m ra một là đủ v́ tất cả đều là vết chân trâu như nhau.

Thể vạn vật vi tự kỷ: Chữ trong Niết Bàn Vô Danh Luận, ư nói “kẻ hiểu được vạn vật, lấy nó làm ḿnh th́ có thể gọi là thánh nhân”. Có thuyết cho biết chữ này có nguồn gốc từ Tề Vật Luận của Trang Tử. “Thể” cũng cùng một nghĩa như “minh”, có nghĩa là biết.

Chính tà bất biện: Tuy đă hiểu được nguyên lư “vạn vật nhất thể” là chuyện cơ bản nhưng chưa phân biệt được chính tà chân ngụy.

Vị nhập tư môn: Tư môn là cái cửa bắt buộc phải đi qua. Theo thứ tự nhập môn, thăng đường, nhập thất.

Quyền: tạm thời, giả định.

 

Tụng của Khuếch Am Tắc Ḥa Thượng:

Thủy biên lâm hạ tích thiên đa,
Phương thảo li b́ kiến dă ma.
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ,
Liêu thiên tỵ khổng chẫm tàng tha.  

水 邊 林 下 跡 偏 多
芳 草 離 披 見 也 麼
縦 是 深 山 更 深 処
遼 天 鼻 孔 怎 蔵 他
 

(Trong rừng ven suối, dấu chân dày!
Cỏ dẫu xanh um, dễ nhận thay.
Vẫn biết núi sâu c̣n tiếp núi,
Trời cao mũi nghếch, lộ ra ngay).

 

Họa của Thạch Cổ Di Ḥa Thượng:

Khô mộc nham tiền sa lộ đa,
Thảo kḥa lư cổn giác phi ma.
Cước ngân nhược dă tùy tha khứ,
Vị miễn đương đầu sa quá tha. 

枯 木 巖 前 差 路 多
草 窠 裏 輥 覚 非 麼
脚 跟 若 也 随 他 去
未 免 当 頭 蹉 過 他
 

(Ghềnh đá cây khô, toàn ngă ba,
Biết chăng cỏ vướng, lạc đường ta.
Nếu men theo dấu t́m trâu măi,
Chưa gặp, nhiều khi đă vượt qua
).

 

Họa lại của Hoại Nạp Liên Ḥa Thượng:

Kiến ngưu nhân thiểu mịch ngưu đa,
Sơn bắc sơn nam kiến dă ma.
Minh ám nhất điều lai khứ lộ,
Cá trung nhận thủ biệt vô tha. 

見 牛 人 少 覓 牛 多
山 北 山 南 見 也 麼
明 暗 壱 条 来 去 路
箇 中 認 取 別 無 他
 

(Lắm kẻ t́m trâu, ít kiếm ra,
Non nam núi bắc, hỏi đâu là.
Hết chiều đến sáng qua rồi lại,
Chỉ thấy trên đường một bóng ta
).

Phụ chú:

Thủy biên lâm hạ: Chỗ người ẩn dật như ngư phủ ở, nơi có phong cảnh đáng yêu.

Kiến dă ma: Trâu (chủ từ) hỏi người có thấy ta để lại dấu vết không.

Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ: Cho dẫu núi non sâu đến mức nào (cũng không che khuất nổi trâu).

Liêu thiên tỵ khổng: Mũi trâu ngẫng lên, hướng lên trời. Bất tàng ma: Mượn ngữ khí của câu nói trong sách Trang Tử, thiên Đại Tông Sư: Chu tàng hác, sơn tàng trạch (Thuyền nấp trong hang, núi nấp trong đầm).   

Khô mộc nham tiền: Khung cảnh nói người tiên sống. Cũng giống như “thủy biên lâm hạ”. Truyền Đăng Lục quyển 29 trong Thập Huyền Đàm (Mười chuyện huyền hoặc) do Đồng An Thường Sát thu thập, có bài thơ như sau:

Khô mộc nham tiền sa lộ đa,
Hành nhân thử đáo tận sa đà.
Lộ tư lập tuyết phi đồng sắc,
Minh nguyệt lô hoa bất tự tha. 

枯 木 巖 前 差 路 多
行 人 此 到 盡 蹉 跎
鷺 鷥 立 雪 非 同 色
明 月 蘆 花 不 自 他
 

(Ghềnh đá cây khô, rẽ lối nào?
Bộ hành đến đó thảy lao đao.
Bóng c̣ mặt tuyết không cùng sắc,
Trăng với hoa lau lại một màu).

Thảo khoa lư cổn giác phi ma: Cỏ đă vướng chân rồi, đă biết sai lầm chưa?

Cước ngân nhược dă tùy tha khứ: “Cước ngân” ám chỉ chân người đuổi theo. “Tha” là con trâu.

Đường đầu sa quá tha: Đương đầu : chỉ khoảnh khắc đối mặt. Sa quá tha: từ đằng sau vượt qua.

Kiến ngưu bất thiểu mịch ngưu đa: Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên chương 1 nói về Đạt Ma có câu: “Đạo minh giả đa, đạo hành giả thiểu” ư nói nhiều người hiểu đạo nhưng ít kẻ thực hành.

Sơn bắc sơn nam: Khi Huệ Năng nhận được y bát của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đi về nam th́ các học tṛ khác trong đó có Đạo Minh đuổi theo đến Đại Dữu Lĩnh ḥng lấy lại, bảo rằng ḿnh đă đi hết “núi bắc non nam” để t́m Huệ Năng nhưng không thấy.

Minh ám nhất điều: “Minh ám” là một khái niệm tương đối. Như trong Tham Đồng Khế[1] có chép: Minh trung ám, ám trung minh” (Trong chỗ sáng vốn có bóng tối và ngược lại”. “Nhất điều” là một đường. Minh ám cũng đ̣ng dạng với khứ lai (đi lại). Ư nói nếu mất sẽ t́m ra được.

Cá trung: Ở trong đó. Truyền Đăng Lục quyển 30, trong bài Nam Nhạc Lại Toản Ca có câu:

Kiếp thạch[2] khả di động,
Cá trung
vô cải biến.

劫 石 可 移 動
箇 中 無 改 変
 

(Đá kiếp di chuyển được,
Bên trong
chẳng thay đổi)

Biệt vô tha: Đă biết là không có ǵ khác. Câu vấn đáp giữa thầy của Linh Vân và ông ta, thấy trong Tổ Đường Tập, truyện Huyền Sa Sư Bị.

 

Lời bàn của Yanagida Seizan:

Trong lúc đi t́m trâu hết chỗ này đến chỗ nọ th́ sức lực đă kiệt quệ.

Măi đến một hôm mới t́m thấy được vết chân con vật. Gọi là ḿnh t́m ra chứ có khi chỉ v́ bên kia hé lộ cho thấy mà thôi. Mới biết rằng từ đầu dấu vết đă có rồi, v́ ta măi mê đuổi theo trâu mà không chịu ngó xuống chân ḿnh nên mới không biết đến.

Vết chân ấy khá nhiều. Coi bộ lắm con trâu đă đi qua đây.Vết chân lẫn lộn vào nhau, khó ḷng phân biệt. Thế nhưng khi nh́n kỹ th́ nhớ ḿnh đă thấy một dấu chân quen thuộc. Dù vậy, vết chân trâu không phải là chính con trâu. Con trâu dẫu có nhưng vẫn chưa thấy và rơ ràng là dù có đi t́m xa cách mấy, lúc nào con trâu cũng ở đằng trước những dấu chân. Khi c̣n thấy dấu th́ biết rằng vẫn c̣n có thể bắt kịp được trâu. Và manh mối để t́m trâu chỉ là những dấu chân ấy.

Vấn đề đặt ra có lẽ là đừng lẫn lộn dấu chân trâu với chính con trâu. Tuy việc phân biệt dấu chân con vật với chính con vật tưởng là dễ nhưng khi đang đuổi theo trâu, nó sẽ trở thành chuyện khó khăn. Sức đuổi theo cũng có giới hạn, chỉ mỗi việc khám phá ra dấu chân trâu thôi cũng đă làm cho nhiều người ngă gục trên đường. Sự lao khổ bỏ ra cho đến lúc này cũng như sự an tâm v́ đă t́m ra manh mối con trâu sẽ gây cho người ta những ảo giác. Trong bài họa của Thạch Cổ có chữ “thảo khoa lư cổn” (bị cỏ vướng chân) là để ám chỉ chuyện đó. Ông muốn khuyên ta chớ măi để tâm vào dấu chân trâu mà quên mất việc đuổi theo trâu! Không nên miệt mài với dấu chân trâu và thỏa măn giữa chừng v́ ḿnh đă t́m ra chúng. Bởi lẽ ngay cả khi trâu kia đă ló mặt ra rồi, nhiều người vẫn c̣n măi mê đuổi theo vết chân trâu.

Mục “Tọa Thiền Châm” của thiền sư Dôgen chép trong Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi và Chính Pháp Nhăn Tạng có dẫn ra sự tích một người tên Diệp Công Tử Cao. Ông ta rất thích vẽ rồng, sáng vẽ chiều vẽ. Cảm động trước nhiệt t́nh của Diệp Công Tử Cao, một hôm rồng thật hiện ra làm cho ông sợ hết hồn và ngất xỉu. Bởi v́ ông đă bị tranh rồng hút hết thần hồn rồi. Dôgen mới nói:

“Thay v́ yêu rồng chạm phải biết yêu rồng thật. Học về rồng chạm hay rồng thật phải học thêm cả về năng lực biết làm mây làm mưa của rồng. Không quí trọng hay coi khinh cái ở xa và cũng chẳng nên quí trọng hay coi khinh cái ở gần mà phải trở nên quen thuộc, thuần thục với chúng”.

Bởi v́ ảnh tùy thuộc vào h́nh chứ h́nh không tùy thuộc vào ảnh.Tiếng vọng tùy thuộc vào âm thanh chứ âm thanh không tùy thuộc vào tiếng vọng. Một khi có ảnh tất phải có h́nh, thế nhưng có h́nh chưa chắc đă có ảnh. Nếu quá quen đuổi theo ảnh th́ sẽ quên mất chuyện là có những h́nh không ảnh. Nếu quá quen đuổi theo tiếng vọng th́ sẽ quên mất chuyện có những âm thanh không tiếng vọng.

Nhờ có ngón tay chỉ mặt trăng mà ta biết ánh sáng ấy đến từ mặt trăng. Và ngón tay cũng nhờ ánh trăng soi vào ta mới nhận ra nó là ngón tay.Ánh trăng che khuất con c̣, cái chén bạc vun đầy tuyết, mới nh́n cứ tưởng là một vật nhưng thực ra chúng là hai.Vấn đề là phải nhận chân được sự liên hệ giữa hai sự vật. Vết chân trâu chính là ngón tay trỏ cho ta biết đằng trước nó có con trâu vậy.


 

[1] Tác phẩm toàn văn 310 chữ của Thạch Đầu Hi Thiên (710-790), viết ra với mục đích kết hợp Thiền Tông Nam Bắc, trong đó luận về mối quan hệ giữa sự và lư bằng cách so sánh với cặp sáng và tối (minh / ám).

[2] Kiếp thạch: mặt một tảng đá lớn tượng trưng cho đời kiếp hay thời gian trường cữu.