Đông
Nam Á! Đông Nam Á!
Một
nền Hòa Bình văn hóa.(1)
Rạng
ngời trên sóng Thái Bình (Dương)
Vút
cao lưng trời Hi Mã
Chân
ngai bệ đảo Hải Nam
Văn
minh rực rỡ sóng lan
Tụ
anh từ trường rất lạ
Bình
phong đảo Phi Luật Tân
Hồng
Bàng thừa hưởng tất cả.
Sông
Hồng, sông Cửu đưa tình,
Sử
trang tối cổ văn minh hòa bình
Hùng
Vương thừa tự nhiều tình,
Huy
hoàng tô đậm nét xinh tuyệt vời.
Hòa
bình văn hóa sáng ngời,
Ngự
nôi rực chói mặt trời văn minh.
Tặng
yêu tia sáng diệu tình:
Từ
mười lăm ngàn năm trước (2)
Thời
gian Tây lịch kỷ nguyên.
Trồng
cây đầu tiên trái đất,
Hòa
bình văn hóa lưu truyền.
Đồ
gốm Nhật (3)
10
ngàn năm
Trước
Tây lịch
Đi
tìm căn
Sợi
vải dệt
Từ
Hòa Bình
Và
có lẽ
Họ
sáng chế
Rằng
đây tia sáng văn minh
Dịu
êm chiếu tỏa nét xinh với đời.
Ngưỡng
thiều phía Bắc Trung Hoa, *
Một
phần thơm tỏa hương hoa Hòa Bình.
Khoảng
từ sáu bảy ngàn năm,
Trước
công nguyên lịch êm lan dặm ngoài
Một
nền văn hóa Long sơn, (4)*
Bắc
Trung hoa đó cũng hồn văn minh,
Danh
gia giống dõi Hòa Bình
Thuyền
độc mộc! Thuyền độc mộc!(5)
Như
tên lao, cao vận tốc,
Cân
bằng cây phao hai bên,
Từ
bốn, năm ngàn năm trước
Của
giòng Tây lịch kỷ nguyên
Phát
xuất từ Đông Nam Á
Tạo
nên bất ngờ du hành
Đi
về Đài Loan Nhật bản
Mang
tới việc trồng khoai môn
Cùng
với các hoa màu khác
Thuyền
tên vượt sóng Thái bình,
Đem
hoa trái lạ trao tình đất xa.
Văn
minh sáng đẹp nở hoa,
Nôi
Hòa bình đó bài ca diệu kỳ.
Hòa
bình có em Đông Sơn, (6)*
Cũng
văn minh đẹp nét son hài hòa.
Mang
đến cho Indonesia,
Cả
Phi Luật Tân nữa
Những
hình đẹp nét kỷ hà,
Chữ
nhật và xoay trôn ốc,
Nét
xinh đồ gốm, xâm mình,
Các
đồà vải dệt, vải bằng vỏ cây.
Hòa
bình văn hóa lan xa *
Tây
tiến Madagascar
Viện
trợ trồng cây kỹ thuật
Khoảng
hai ngàn năm qua
Phát
triển thành công thương mại *
Việt
Nam và Địa Trung Hải
Phương
tiện liên lạc hai nơi
Có
lẻ bằng đường hằng hải
Mặt
trời văn hóa Hòa Bình
Chiếu
ngàn tia sáng tặn tình bao phương
Cháu
con thừa hưởng hoa hương,
Gia
tài Đất Tổ một chương chữ vàng.
Tiếng
trống đồng! Sấm trống đồng
Ầm
vang sáng Thái bình dương
Rung
rinh tầng mây ngũ sắc
Nơi
nơi giải đất Văn Lang
Tiếng
trống vang lừng bốn cõi
Con
cò bay lả bay la,
Bay
qua Ba Thục, bay về Hồ tôn
Động
đình phía Bắc bay dồn,
Bay
ra Nam Hải vẫn hồn Văn Lang(7)
Văn
Lang thời đại đồ đồng,
Hùng
Vương dựng nước, Lạc Long thuở nào.l
Văn
minh rực rỡ độ cao,
Hòa
bình ánh sáng ra vào Đông Sơn
Bao
nhiêu mưa nắng soi mòn,
25
thế kỷ nét son còn truyền (8a)
Giặt
quyết phá, vẫn giữ nguyên (8b)
Trãi
bao hưng phế còn duyên với đời.
Ba
trăm chiếc trống nơi nơi,
Hà
Nam, Yên Bái, Lào Cai, Hòa Bình (9)
Sông
Đà, Hà Nội còn tình
Hà
Đông, Nam Định bóng hình chưa phai
Con
cò bay lả bay la,
Bay
qua Ngọc Lũ (10) bay về Hữu chung
Bay
đi Hoàng Hạ, Hà Đông
Mật
Sơn, Núi nấp, Đông Sơn, Sông Đà
Trống
đồng Hà Nội Ngọc Hà
Thiệu
Dương còn dấu Việt Khe â(Hải phòng)
Vinh
quang văn hóa đồ đồng
Cổ
loa liêu tiễn rực hồng bốn phương (11)
Thạp
đồng Đào Thịnh dễ thương
Cháu
con rất đỗi ngạc nhiên,
Gia
tài cao quý tổ tiên sang giàu
Văn
Lang văn hóa một màu,
Năm
ngàn năm vẫn đẹp câu tuyệt vời
Nghẹn
ngào không nói lên lời,
Văn
minh nhân loại chiếc nôi Hòa Bình.
Nét
son giòng sử nhiễm tình,
Rành
rành thánh tích bóng hình chưa phai.
Trải
bao hưng phế dặm dài,
Trống
đồng ngọc phả còn hoài ngàn sau.
Một
gia tài mẹ Việt
Chau
con luôn tha thiết
Hứng
khởi trở về nguồn
Tìm
học hỏi đã quyết
Rằng
đay cả một gia tài,
Vô
cùng quý giá, lễ đài suy tôn.
Việt
Nam miêu duệ còn hồn,
Uống
nguồn văn hiến Lạc Hồng tổ tiên.
Lê
Ngọc Hồ
26
tháng 2/1991
____________________________________
1,2,3,4,5,6
* Theo Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, New ligh on a Forgotten
Past, National Geographic, vol 139, No 3, Washington D.C, tháng 3, năm
1971, trang 330-339.
(7)
Theo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu: Đời Hùng Vương
đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, cương
giới, Đông giáp biển (Thái Bình Dương), Tây đến nước
Ba Thục(nay là tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu của Trung Hoa), phía
Bắc tới Hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa), phía Nam
giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành).
(8a)
Các nhà khảo cổ và học giả như Wales, Karlgren, Đào Duy Anh
cho rằng thời gian khởi đầu cho nền văn hóa Đông Sơn thời
đại Đồng Thau vào thế kỷ IV hay thứ III trước Tây lịch.
(8b)
Mã Viện cố thâu hết trống đồng đêm đúc ngựa đồng
dâng vua Hán.
(9)Tên
các tỉnh tìm thấy trống đồng
(10)
Ngọc Lũ, Hoàng Hạ - Tên các nơi tìm thấy trống đồng
(11)
Ngày 17 tháng 7 năm 1959 người ta đào thấy khoảng 10 ngàn
tên đồng ở các làng Cổ Loa, Thu Cựu, Lương Quân, Gia Lộc,
Huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Phúc Cỗ Loa cách Hà Nội chừng
17 Km
(12)Thạp
Đào Thịnh giống như 1 cái chun bằng đồng, có nắp giống
hình nón, cao 0.81cm, đường kính đáy 0.60cm tìm thấy ngày
14 tháng 9 năm 1960 ở Xã Đào Thịnh, huyện Trần Yên, tỉnh
Yên Bái.