Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]

Sử Việt Anh Hùng Ca
***
4. Má hồng dựng nước
Lê Ngọc Hồ
 
Ngày xưa má phấn phất cờ.
Tay ngà kiếm bạc cơ đồ dựng xây
Giang san gánh vác vai gầy,
Ngàn sau tướng sĩ cũng ngây anh hùng.

Gót sen ngọc từng chiến khu kích thích
Chí ba quân quyết giải phóng quê hương
Trắng khăn tang hồng bụi phủ đường trường.

Đôi mày liễu cau lên màu căm giận,
Trả nghĩa nước báo thù chồng phục hận.
Thon tay ngà bóp méo chuỗi long đao.
Ngựa thần phi lá cuốn đổ ào ào

Sâu rừng rậm từng chiến khu  luyện tập,
Người thanh sát những đoàn quân thành lập.
Gái như trai, tập đoản kiếm, trường thương.
Huấn luyện voi làm quen với chiến trường

Trăng soi đầu ngựa trắng
Hai liệt nữ họ Trưng
Lóe tia mắt anh hùn
Rừng khom lưng im lặng

Con cò bay lả bay la
Châu phong bay tới, bay về Mê Linh(1)

Tình tang có biết dân mình?
Một phường xâm lược coi khinh giống nòi!
Thét lên thề với Đất Trời!
Lũ quân Tô Định tời bời một phen!

Lửa rừng đêm!  Lửa rừng đêm!
Lấp loáng sà mâu, mã tấu,
Những vì sao thẹn đi êm,
Khép nép run mình ngưu đẩu!

Linh thiêng giây phút gươm thề,
Khí thiêng sông núi đi về quân ta.
Cờ vàng đậm nét máu hoa,
"Diệt tan xâm lược" thét loa lời nguyền

Muôn giọt máu viết nên lời quyết thắng,
Lá cờ Nam lồng lộng nét hồng tươi.
Nét máu hòa quyết chiến của muôn người
Tiếng sấm nổ vang lời hô cứu nước.

Lửa bập bùng!  Lửa bập bùng!
Cương quyết máu trào sôi réo, 
Nữ quân nét mặt sáng rừng,
Đường gươm rồng bay múa dẻo!

Ô kìa rừng hát quân ca!
Đồi thông gió réo như loa lệnh truyền.
Nẻo hoa bờ suối lâm tuyền,
Tim dâng hương ướp lời nguyền non sông.

Sấm trống đồng!  Sấm trống đồng!
Vang vang lời ca quyết chiến,
Dưới ánh hồng!  Dưới ánh hồng!
Hằn lên căm thù thể hiện.

Uy nghi hùng nữ tướng
Mây ngũ sắc lọng che
Giáp rồng lưng bạch tượng
Hồn sông núi đi về…

Mặt trời mọc trên ánh vàng đoản kiếm,
Quá oai phong đội xung kích tiền phương,
Lộng máu thề cờ giải phóng quê hương.

Ngực vươn tới cánh tay trần ngạo nghễ
Chí kiêu dũng vào lòng bao thế hệ.
Đoàn ngựa câu đội kỵ mã cung tên,
Quân trường thương đen thuẫn sát đứng bên

Bầy nữ tướng đoản đao hầu cần vệ

Cờ nương tử hồng phai cánh nắng!
Dòng thời gian yên lặng nghe tin.
Không gian tim nữ đi tìm,
Hào quang chiến thắng tôn vinh nữ hoàng.

Quân ta sóng lớp hàng hàng,
Vỡ bờ tràn ngập tan hoang giặc nhà
Tay ngà trỏ thẳng kiếm hoa,
Sóng quân ào ạt xông pha trận tiền.

Sáu lăm(65) thành vỡ liền liền
Đông, Tây hai Quảng toàn miền Lĩnh Nam(2)
Cờ vàng lẫn bóng Rồng Nam, 
Uy hùng Bách Việt vẹn toàn như xưa.

Thơm danh biết mấy cho vừa!
Hai trang liệt nữ hái mùa vinh quang!

Đấu tranh đầu chiến sử vàng
Giang san thu lại Văn Lang nước mình
Tuyệt vời cầm kiếm tay xinh,
Má hồng dựng nước nhiệt tình non sông.

Gót sen phất phới quần hồng,
Hoàng bào, giáp tía xung phong chiến trường.
Anh thư, liệt nữ, Trưng Vương,
Giai nhân nước Việt phi thường ngàn sau!
Quê hương giải phóng công đầu!

Giang san!  Đây vẫn giang san,
Gia tài tiên tổ dặm ngàn gấm hoa.
Đất màu đẹp tợ bài ca, 
Đồng bằng vẽ đẹp phù sa sông hồng

Quảng Tây cho chí Quảng Đông
Văn minh núi Đọ, một Đông Sơn tình (3)
Lạc trường tô điểm Bắc Ninh!

Con cò bay lả bay la,
Bay qua khắp trấn, bay xa khắp vùng
Bay đi báo mãi tin mừng,
Vẻ vang thắng trận tưng bừng. duyệt binh
Trên trời có đám mây vàng
Aùnh trời lọng tía nữ hoàng uy nghi.
Tay ngai dựa núi Ba Vì,
Con voi núi phục chân quì tung hô.

Ngày nào đẹp tựa bài thơ,
Mây trọi ngũ sắc, gió mơ ướm lời.
Hải Nam sóng đẹp chơi vơi,
Trưng vương lộng lẫy sáng ngời dung nhan
Ngọc trai lấp lánh bào vàng,
Kim cương chuôi kiếm hào quang muôn màu

Duyệt binh Trưng Nhị đi đầu,
Giám hồng, kiếm bạc, ngựa câu đen tuyền.
Phù dung nửa mái tóc huyền

Hàng hàng sóng đổ
Đoàn quân nữ binh
Những đóa hoa xinh
Aùo xanh, lưng đỏ

Đoàn bách thắng tiền phương xung kích
Kiếm ngang lưng, thuẫn, mâu sắc cầm tay.
Đoàn kỵ binh uy dũng đã bao ngày

Quân tác chiến cao trường thương sáng loáng,
Voi trăm thớt luyện công phu năm, tháng.
Đoàn dân quân mã tấu với dao găm
Thắng địch rồi quên hết nét hờn căm

Quân sơn cước lưng đeo đầy cung nỏ,
Nắng nạm sáng nhung phục màu đen đỏ.
Đoàn quân ca đủ nhạc khí bát âm,
Hồi trống đồng vang vọng mãi tiếng ngân.

Con cò bay lả bay la,
Bay qua Thanh hóa, bay về Đông sơn.(4)
Nữ hoàng kinh lý thăm dân,
Toàn dân nghinh đón trăm phần kính yêu.

Biết bao hương án, lọng điều,
"Trưng Vương vạn tuế" cánh diều viết hoa.
Cổng chào nghênh đón từ xa,
Trống đồng ngàn chiếc chói lòa ánh dương.
Văn minh rực rỡ phi thường!

Đầy mâm vàng lễ vật
Quì dâng lên nữ vương
Gói ghém tình mến thương
Lòng dân hiền chân thật.

Đoản đao chuôi ngọc nạm vàng
Khắc ghi chiến thắng huy hoàng năm qua.
Nào chuôi kiếm báu ngọc ngà,
Đây đồ trang sức nét hoa tuyệt vời
Đây là"thần tượng Mặt Trời."

Ngài luôn nụ cười xinh
Hỏi dân biết sự tình
Đây khắc hình trên mã não
Này đây rồng bay thêu áo

Nét vẽ hình học khắc trạm trên ngà,
Đồ gấm xinh bao đường nét gấm hoa.
Quá rực rỡ nền văn minh sáng lạn!
Thế nước nhỏ nhà vua đăm chiêu lo lắng!
Một nước Tàu đông, lớn quá tham lam
Bao nhiêu phen cướp nước của phương Nam.

Một Tô Định chạy dài thân bại Tướng
Cả Hán triều náo động đã bao phen,
Đại cường đâu có phải một nước hèn.
Lo trả hận bị gái Nam làm nhục!

Sửa soạn mãi ba năm vừa kịp lúc,
Chọn tướng tài giỏi nhất của Trung hoa,
Kinh nghiệm nhiều:  Mã Viện tự Phục Ba,
Tuyển thiện chiến, cấp tối tân võ khí,
Như kiến cỏ biển người quân đánh thí.

Giặc Tàu ỷ thế đông người
Xua quân cướp nước gấp mấy mươi lần quân ta
Dù cho danh tướng Phục Ba,
Vẫn còn e sợ đàn bà nước Nam.
Đủ mưu, dư bạc hắn làm,
Từ vàng mua chuộc, từ hăm dọa nhiều
Đê hèn, dơ bẩn đến điều!
Cho quân lính giặc làm liều khỏa thân.
Cốt gây e thẹn nữ quân,
Đoàn ta đâu phải nữ nhân thường tình!
Càng hăng chiến đấu quyết tình,
Ngựa hồng máu vẽ trung trinh ngàn đời!

Dẫu cho thế mạnh xâm lăng,
Hai Bà đã quyết không hàng Trung hoa.
Anh thư viết bản hùng ca,
Lòng son tận hiến nước nhà xả thân!

Cấm khê hề Cấm khê
Hai Bà quyết gươm thề
Còn một giờ vẫn đánh
Dẫu giặc già thế mạnh

Nữ hoàng làm lễ tế trời,
Tế hồn Quốc Tổ, dâng lời Non Sông,
Nước nguy dẫu mảnh quần hồng,
Cầm gương lãnh đạo tấc lòng trung trinh.
Phất cờ nương tử chí tình,
Máu, gan, tim, não hết mình tiến dâng.
Giờ đây thế giặc hàng hàng,
Dâng hồn Tổ Quốc, thân tan ngọc chìm!

Con cò bay lả bay la,
Bay qua sông hát, bay về Đồng nhân (5)
Tượng Đá ngàn năm!
Muôn năm tượng đá hai Bà,
Tim người dân Việt khắc hoa dâng tình

Giỗ hàng năm! Giỗ hàng năm!
Hai mươi ngày kị tháng hai,
Còn non, còn nước, nhớ dài ngàn sau.
Vòng hao gái Việt công đầu!

Tham, gian giặc đến Đông sơn,
Chúng mau cướp bóc sạch trơn, tiêu điều.(6)
(Văn minh rực rỡ còn nhiều
Trống đồng chôn chặt, nhiễu điều dấu đi)
Aùc thay lũ giặc! Một khi
Giết người ghê tởm! Đua thi đốt nhà,
Tướng Tàu cố gắng tìm ra,
Bao nhiêu báu vật Trung Hoa lạ lùng! (7)

Dòng hồn người dân Việt
Vẫn hằng năm tha thiết
Nhớ công đức Hai Bà
Dệt những trang gấm hoa
Vàng son dòng quốc sử!

Vua qua sông Hát bấy giờ (8)
Hương vương sóng nước sương mơ trời chiều.
Áo xanh, mũ đẹp, lưng điều,
Dong cương ngựa sắt gió vèo lướt qua.
Uy nghi nhị nữ mặt hoa.

Ai qua sóng nước trường giang ấy
Có thấy Hai Bà bóng nước gương?
Ai xem chiến tích vàng son ấy,
Có nghẹn ngào dâng nỗi kính thương!
Hương thơm sông Hát ngàn thu ấy
Ngây ngất trời Nam quá dị thường.

_______________________________________________

(1) - Huyện Mê linh, đất Phong Châu (nay thuộc huyện An Lãng, tỉnh Phúc yên) Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân, trang 5.

(2) - Xứ Lĩnh Nam (thuộc hạt Quảng Đông, Quảng Tây Trung Hoa bấy giờ) P.K. Bính, N.H.D.N trg 6.  Thời Hai Bà Trưng thuộc nước ta.

(3) - Núi Đọ, Đông Sơn (Thanh Hoá), Lạch Trường (Bắc Ninh) nơi các nhà khảo cổ phát hiện ra thời Đồ Đá cũ tiền sử xưa cả trăm ngàn năm và dấu tích nền văn minh VN.

(4) - Vào khoảng 500 trước J.C. Dân cư Đông sơn lúc bấy giờ đã học được cách dùng kim khí, cách làm đồ nữ trang và bùa bằng thứ đá quí giống loại bích ngọc.  Bấy giờ đồ gốm đã tốt hơn và có trang trí với những mẫu theo hình học.  Đồng thời cũng đã xuất hiện những kiểu trống lớn bằng đồng đỏ có những mẫu trang trí tượng trưng loại hình học, hoặc phỏng theo hình người, hình thú hay nhắc lại những buổi lễ tôn giáo.  Những hình trang trí trên các mẫu trống ấy chứng tỏ những quan niệm tôn giáo đã khá phát triển gồm có sự tôn thờ mặt trời và Trời.  Olov R.T.JANSÉ (giáo sư Harvard), nguồn gốc văn minh VN, xuất bản đại học, Huế, Cao Hữu Hoàng dịch, trg 7.

(5) - Hai Bà liều mình xuống sông, rồi hóa ra hai người bằng đá, các làng bên sông tranh nhau ra vớt, nhưng chỉ có làng Đồng nhân, huyện Thanh Trì ( Hà Đông) vớt được lập đền thờ. P.K.Bính, NHDN trg 7.

(6) - "Một trong những đạo quân của Mã Viện xuống Đông sơn, cuộc chém giết rất ghê tởm, Đông sơn bị cướp bóc và tiêu diệt.  Biến cố này đánh một đòn rất nặng vào văn minh Đông sơn.  Nhưng một vài thủ lãnh trốn thoát , có nhiều chỗ chôn dấu những chiếc trống đã được tìm thấy từ khoảng 50 năm nay." Janse,trg 7

(7) - "Nhiều cổ vật ở Đông sơn có những hình thức và kiểu trang trí không phải ở Trung Hoa, và có khi ở Trung Hoa hoàn toàn không có" Jansé, trg 7.

(8) - Vũ Quỳnh - Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, tr 63.  Vua đây là vua Lý Anh Tôn.

 


Trở Về   ]