Ngày
xưa má phấn phất cờ.
Tay
ngà kiếm bạc cơ đồ dựng xây
Giang
san gánh vác vai gầy,
Ngàn
sau tướng sĩ cũng ngây anh hùng.
Gót
sen ngọc từng chiến khu kích thích
Chí
ba quân quyết giải phóng quê hương
Trắng
khăn tang hồng bụi phủ đường trường.
Đôi
mày liễu cau lên màu căm giận,
Trả
nghĩa nước báo thù chồng phục hận.
Thon
tay ngà bóp méo chuỗi long đao.
Ngựa
thần phi lá cuốn đổ ào ào
Sâu
rừng rậm từng chiến khu luyện tập,
Người
thanh sát những đoàn quân thành lập.
Gái
như trai, tập đoản kiếm, trường thương.
Huấn
luyện voi làm quen với chiến trường
Trăng
soi đầu ngựa trắng
Hai
liệt nữ họ Trưng
Lóe
tia mắt anh hùn
Rừng
khom lưng im lặng
Con
cò bay lả bay la
Châu
phong bay tới, bay về Mê Linh(1)
Tình
tang có biết dân mình?
Một
phường xâm lược coi khinh giống nòi!
Thét
lên thề với Đất Trời!
Lũ
quân Tô Định tời bời một phen!
Lửa
rừng đêm! Lửa rừng đêm!
Lấp
loáng sà mâu, mã tấu,
Những
vì sao thẹn đi êm,
Khép
nép run mình ngưu đẩu!
Linh
thiêng giây phút gươm thề,
Khí
thiêng sông núi đi về quân ta.
Cờ
vàng đậm nét máu hoa,
"Diệt
tan xâm lược" thét loa lời nguyền
Muôn
giọt máu viết nên lời quyết thắng,
Lá
cờ Nam lồng lộng nét hồng tươi.
Nét
máu hòa quyết chiến của muôn người
Tiếng
sấm nổ vang lời hô cứu nước.
Lửa
bập bùng! Lửa bập bùng!
Cương
quyết máu trào sôi réo,
Nữ
quân nét mặt sáng rừng,
Đường
gươm rồng bay múa dẻo!
Ô
kìa rừng hát quân ca!
Đồi
thông gió réo như loa lệnh truyền.
Nẻo
hoa bờ suối lâm tuyền,
Tim
dâng hương ướp lời nguyền non sông.
Sấm
trống đồng! Sấm trống đồng!
Vang
vang lời ca quyết chiến,
Dưới
ánh hồng! Dưới ánh hồng!
Hằn
lên căm thù thể hiện.
Uy
nghi hùng nữ tướng
Mây
ngũ sắc lọng che
Giáp
rồng lưng bạch tượng
Hồn
sông núi đi về
Mặt
trời mọc trên ánh vàng đoản kiếm,
Quá
oai phong đội xung kích tiền phương,
Lộng
máu thề cờ giải phóng quê hương.
Ngực
vươn tới cánh tay trần ngạo nghễ
Chí
kiêu dũng vào lòng bao thế hệ.
Đoàn
ngựa câu đội kỵ mã cung tên,
Quân
trường thương đen thuẫn sát đứng bên
Bầy
nữ tướng đoản đao hầu cần vệ
Cờ
nương tử hồng phai cánh nắng!
Dòng
thời gian yên lặng nghe tin.
Không
gian tim nữ đi tìm,
Hào
quang chiến thắng tôn vinh nữ hoàng.
Quân
ta sóng lớp hàng hàng,
Vỡ
bờ tràn ngập tan hoang giặc nhà
Tay
ngà trỏ thẳng kiếm hoa,
Sóng
quân ào ạt xông pha trận tiền.
Sáu
lăm(65) thành vỡ liền liền
Đông,
Tây hai Quảng toàn miền Lĩnh Nam(2)
Cờ
vàng lẫn bóng Rồng Nam,
Uy
hùng Bách Việt vẹn toàn như xưa.
Thơm
danh biết mấy cho vừa!
Hai
trang liệt nữ hái mùa vinh quang!
Đấu
tranh đầu chiến sử vàng
Giang
san thu lại Văn Lang nước mình
Tuyệt
vời cầm kiếm tay xinh,
Má
hồng dựng nước nhiệt tình non sông.
Gót
sen phất phới quần hồng,
Hoàng
bào, giáp tía xung phong chiến trường.
Anh
thư, liệt nữ, Trưng Vương,
Giai
nhân nước Việt phi thường ngàn sau!
Quê
hương giải phóng công đầu!
Giang
san! Đây vẫn giang san,
Gia
tài tiên tổ dặm ngàn gấm hoa.
Đất
màu đẹp tợ bài ca,
Đồng
bằng vẽ đẹp phù sa sông hồng
Quảng
Tây cho chí Quảng Đông
Văn
minh núi Đọ, một Đông Sơn tình (3)
Lạc
trường tô điểm Bắc Ninh!
Con
cò bay lả bay la,
Bay
qua khắp trấn, bay xa khắp vùng
Bay
đi báo mãi tin mừng,
Vẻ
vang thắng trận tưng bừng. duyệt binh
Trên
trời có đám mây vàng
Aùnh
trời lọng tía nữ hoàng uy nghi.
Tay
ngai dựa núi Ba Vì,
Con
voi núi phục chân quì tung hô.
Ngày
nào đẹp tựa bài thơ,
Mây
trọi ngũ sắc, gió mơ ướm lời.
Hải
Nam sóng đẹp chơi vơi,
Trưng
vương lộng lẫy sáng ngời dung nhan
Ngọc
trai lấp lánh bào vàng,
Kim
cương chuôi kiếm hào quang muôn màu
Duyệt
binh Trưng Nhị đi đầu,
Giám
hồng, kiếm bạc, ngựa câu đen tuyền.
Phù
dung nửa mái tóc huyền
Hàng
hàng sóng đổ
Đoàn
quân nữ binh
Những
đóa hoa xinh
Aùo
xanh, lưng đỏ
Đoàn
bách thắng tiền phương xung kích
Kiếm
ngang lưng, thuẫn, mâu sắc cầm tay.
Đoàn
kỵ binh uy dũng đã bao ngày
Quân
tác chiến cao trường thương sáng loáng,
Voi
trăm thớt luyện công phu năm, tháng.
Đoàn
dân quân mã tấu với dao găm
Thắng
địch rồi quên hết nét hờn căm
Quân
sơn cước lưng đeo đầy cung nỏ,
Nắng
nạm sáng nhung phục màu đen đỏ.
Đoàn
quân ca đủ nhạc khí bát âm,
Hồi
trống đồng vang vọng mãi tiếng ngân.
Con
cò bay lả bay la,
Bay
qua Thanh hóa, bay về Đông sơn.(4)
Nữ
hoàng kinh lý thăm dân,
Toàn
dân nghinh đón trăm phần kính yêu.
Biết
bao hương án, lọng điều,
"Trưng
Vương vạn tuế" cánh diều viết hoa.
Cổng
chào nghênh đón từ xa,
Trống
đồng ngàn chiếc chói lòa ánh dương.
Văn
minh rực rỡ phi thường!
Đầy
mâm vàng lễ vật
Quì
dâng lên nữ vương
Gói
ghém tình mến thương
Lòng
dân hiền chân thật.
Đoản
đao chuôi ngọc nạm vàng
Khắc
ghi chiến thắng huy hoàng năm qua.
Nào
chuôi kiếm báu ngọc ngà,
Đây
đồ trang sức nét hoa tuyệt vời
Đây
là"thần tượng Mặt Trời."
Ngài
luôn nụ cười xinh
Hỏi
dân biết sự tình
Đây
khắc hình trên mã não
Này
đây rồng bay thêu áo
Nét
vẽ hình học khắc trạm trên ngà,
Đồ
gấm xinh bao đường nét gấm hoa.
Quá
rực rỡ nền văn minh sáng lạn!
Thế
nước nhỏ nhà vua đăm chiêu lo lắng!
Một
nước Tàu đông, lớn quá tham lam
Bao
nhiêu phen cướp nước của phương Nam.
Một
Tô Định chạy dài thân bại Tướng
Cả
Hán triều náo động đã bao phen,
Đại
cường đâu có phải một nước hèn.
Lo
trả hận bị gái Nam làm nhục!
Sửa
soạn mãi ba năm vừa kịp lúc,
Chọn
tướng tài giỏi nhất của Trung hoa,
Kinh
nghiệm nhiều: Mã Viện tự Phục Ba,
Tuyển
thiện chiến, cấp tối tân võ khí,
Như
kiến cỏ biển người quân đánh thí.
Giặc
Tàu ỷ thế đông người
Xua
quân cướp nước gấp mấy mươi lần quân ta
Dù
cho danh tướng Phục Ba,
Vẫn
còn e sợ đàn bà nước Nam.
Đủ
mưu, dư bạc hắn làm,
Từ
vàng mua chuộc, từ hăm dọa nhiều
Đê
hèn, dơ bẩn đến điều!
Cho
quân lính giặc làm liều khỏa thân.
Cốt
gây e thẹn nữ quân,
Đoàn
ta đâu phải nữ nhân thường tình!
Càng
hăng chiến đấu quyết tình,
Ngựa
hồng máu vẽ trung trinh ngàn đời!
Dẫu
cho thế mạnh xâm lăng,
Hai
Bà đã quyết không hàng Trung hoa.
Anh
thư viết bản hùng ca,
Lòng
son tận hiến nước nhà xả thân!
Cấm
khê hề Cấm khê
Hai
Bà quyết gươm thề
Còn
một giờ vẫn đánh
Dẫu
giặc già thế mạnh
Nữ
hoàng làm lễ tế trời,
Tế
hồn Quốc Tổ, dâng lời Non Sông,
Nước
nguy dẫu mảnh quần hồng,
Cầm
gương lãnh đạo tấc lòng trung trinh.
Phất
cờ nương tử chí tình,
Máu,
gan, tim, não hết mình tiến dâng.
Giờ
đây thế giặc hàng hàng,
Dâng
hồn Tổ Quốc, thân tan ngọc chìm!
Con
cò bay lả bay la,
Bay
qua sông hát, bay về Đồng nhân (5)
Tượng
Đá ngàn năm!
Muôn
năm tượng đá hai Bà,
Tim
người dân Việt khắc hoa dâng tình
Giỗ
hàng năm! Giỗ hàng năm!
Hai
mươi ngày kị tháng hai,
Còn
non, còn nước, nhớ dài ngàn sau.
Vòng
hao gái Việt công đầu!
Tham,
gian giặc đến Đông sơn,
Chúng
mau cướp bóc sạch trơn, tiêu điều.(6)
(Văn
minh rực rỡ còn nhiều
Trống
đồng chôn chặt, nhiễu điều dấu đi)
Aùc
thay lũ giặc! Một khi
Giết
người ghê tởm! Đua thi đốt nhà,
Tướng
Tàu cố gắng tìm ra,
Bao
nhiêu báu vật Trung Hoa lạ lùng! (7)
Dòng
hồn người dân Việt
Vẫn
hằng năm tha thiết
Nhớ
công đức Hai Bà
Dệt
những trang gấm hoa
Vàng
son dòng quốc sử!
Vua
qua sông Hát bấy giờ (8)
Hương
vương sóng nước sương mơ trời chiều.
Áo
xanh, mũ đẹp, lưng điều,
Dong
cương ngựa sắt gió vèo lướt qua.
Uy
nghi nhị nữ mặt hoa.
Ai
qua sóng nước trường giang ấy
Có
thấy Hai Bà bóng nước gương?
Ai
xem chiến tích vàng son ấy,
Có
nghẹn ngào dâng nỗi kính thương!
Hương
thơm sông Hát ngàn thu ấy
Ngây
ngất trời Nam quá dị thường.
_______________________________________________
(1) - Huyện
Mê linh, đất Phong Châu (nay thuộc huyện An Lãng, tỉnh Phúc
yên) Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân, trang 5.
(2) - Xứ
Lĩnh Nam (thuộc hạt Quảng Đông, Quảng Tây Trung Hoa bấy giờ)
P.K. Bính, N.H.D.N trg 6. Thời Hai Bà Trưng thuộc nước
ta.
(3) - Núi
Đọ, Đông Sơn (Thanh Hoá), Lạch Trường (Bắc Ninh) nơi các
nhà khảo cổ phát hiện ra thời Đồ Đá cũ tiền sử xưa
cả trăm ngàn năm và dấu tích nền văn minh VN.
(4) - Vào
khoảng 500 trước J.C. Dân cư Đông sơn lúc bấy giờ đã học
được cách dùng kim khí, cách làm đồ nữ trang và bùa bằng
thứ đá quí giống loại bích ngọc. Bấy giờ đồ gốm
đã tốt hơn và có trang trí với những mẫu theo hình học.
Đồng thời cũng đã xuất hiện những kiểu trống lớn bằng
đồng đỏ có những mẫu trang trí tượng trưng loại hình
học, hoặc phỏng theo hình người, hình thú hay nhắc lại
những buổi lễ tôn giáo. Những hình trang trí trên các
mẫu trống ấy chứng tỏ những quan niệm tôn giáo đã khá
phát triển gồm có sự tôn thờ mặt trời và Trời.
Olov R.T.JANSÉ (giáo sư Harvard), nguồn gốc văn minh VN, xuất
bản đại học, Huế, Cao Hữu Hoàng dịch, trg 7.
(5) - Hai Bà
liều mình xuống sông, rồi hóa ra hai người bằng đá, các
làng bên sông tranh nhau ra vớt, nhưng chỉ có làng Đồng nhân,
huyện Thanh Trì ( Hà Đông) vớt được lập đền thờ. P.K.Bính,
NHDN trg 7.
(6) - "Một
trong những đạo quân của Mã Viện xuống Đông sơn, cuộc
chém giết rất ghê tởm, Đông sơn bị cướp bóc và tiêu
diệt. Biến cố này đánh một đòn rất nặng vào văn
minh Đông sơn. Nhưng một vài thủ lãnh trốn thoát , có
nhiều chỗ chôn dấu những chiếc trống đã được tìm thấy
từ khoảng 50 năm nay." Janse,trg 7
(7) - "Nhiều
cổ vật ở Đông sơn có những hình thức và kiểu trang trí
không phải ở Trung Hoa, và có khi ở Trung Hoa hoàn toàn không
có" Jansé, trg 7.
(8) - Vũ Quỳnh
- Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, tr 63. Vua đây là vua Lý
Anh Tôn.