Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]

Sử Việt Anh Hùng Ca
***
5. Anh Thư Họ Triệu
Lê Ngọc Hồ
 
Con cò bay lả bay la,
Bay qua giao chỉ, bay về Cửu chân.
Ác nhân thứ sử Lục Dân,
Gái Nam họ Triệu mộ quân đuổi thù.
Một ngàn tráng sĩ chiến khu,
Ngựa phi múa kiếm gió vù thoảng qua
Thước gươm nắm chặt tay ngà,
Quyền uy lãnh đạo mặt hoa nghiêm mày.

Giô ta, lăn đá ven rừng,
Lập đồn phòng ngự chập chùng núi cao.
Giô ta, kéo gỗ, đào hào,
Ngẩn ngơ vách đá, xôn xao cây rừng.

Con cò bay lả bay la,
Bay từ đỉnh núi bay qua mây ngàn
Dù anh không biết can ngăn,
Muốn rằng nhi nữ khác phàm xin thưa.
Con cò bay sớm bay trưa,
Sấm ran Nam hải !  Tiếng mưa sơn hà.
Hùng thay chí khí đàn bà,
"Cưỡi cơn gió mạnh Hằng nga giật mình. (1)
Khác thay nhi nữ thường tình ,
Đạp đường sóng dữ, chém kình biển đông.
Dù sinh làm kiếp má hồng,
Ngựa, gươm chiến trận quét xong giặc ngoài.
Chứ không bắt chước những ai
Lưng cong, đầu cúi đời dài thê noa."

Con cò bay lả bay la
Làng trên, xóm dưới bay qua núi đồi.
Nhắc đi, nhắc lại từng lời,
Bay đi, bay lại từng nơi kêu mời ...
Trèo lên đỉnh núi mà coi,
Thấy trang nữ tướng cỡi voi, giáp vàng
Hàng hàng dũng sĩ bên đàng
Gươm trần loé sáng, cờ vàng tung mây.
Đỉnh cao vách đá đứng ngây,
Lũng cây khép nép, gió mây thầm thì.
Phong lan chào đón bước đi,
Thác ngàn kính sợ cũng si anh hùng.
Giăng căn lều gấm ven rừng,
Đôn quân, đốc tướng, luyện cung giáo dài.
Binh thư đêm đọc miệt mài,
Ngựa phi giám sát trưa, mai, tối, chiều.
Gió bay khăn chít lụa điều,
Anh thư nức tiếng Nhụy Kiều tướng quân.

Gió đưa bụi trúc bên sông,
Cứu dân, yêu nước tấm lòng mênh mông.
Tướng quân má đỏ môi hồng,
Không thiết lấy chồng, chỉ quyết đãu tranh.
Hai mươi hoa nở xuân xanh,
Trăng tà mài kiếm, quân hành vui tai
Đôi gò bồng đảo cao dài,
Quần hồng nai nịt, gót hài lưng câu.

Con cò bay lả bay la,
Đây tin mới lạ bay về chiến khu.
Dân ta nổi dậy chống thù,
Viết trang sữ đẹp ngàn thu lưu truyền.
Anh thư vâng giử lời nguyền,
Giúp anh Triệu quốc Đạt nguyên binh hùng.
Thấy tài lãnh đạo phi thường,
Quân anh tôn nữ anh hùng Tướng quân.
Núi rung, rừng chuyển, mây vần,
Thấy loa dậy đất ầm ầm tiếng hô.
Hùng thay khí thế dựng cờ,
Tế thần sông núi, tay giơ máu thề.
Đây hồn tổ quốc đi về,
Linh thiêng chứng giám lời thề non sông.

Giô ta kéo đá giô ta !
Sẳn sãng chiến đãu tiếng loa lệnh truyền.
Để cho quân giặc rời thuyền,
Tiến sâu khu chiến bắt nguyên chuyến này.
Ngỡ ngàng  lạ nước, lạ mây,
Quân Tàu hốt hoảng thấy ngay tướng mình.
Đỉnh cao một tướng xinh xinh,
Bành vàng bạch tượng thình lình tuốt gươm.
Ầm ầm bão đá ngập đường,
Sấm rung tiếng thét, giáo trường phi lao.
Mưa tên mộc đổ ào ào,
Hán quân bia đạn chổ nào còn nguyên.
Tàn binh mong rút xuống thuyền,
Chặn lui binh bại đốt thuyền cháy veo.
Thua cơ đúng lúc hiểm nghèo,
Tù binh trói hết bắt theo về ngàn.
Quân ca đẹp khúc khải hoàn,
Ngã trâu, xôi, rượu dân thương thưởng hoài.
Vang lừng chiên trống dặm ngoài.

Con cò bay lả bay la,
Bay qua Giao chỉ bay về Cửu chân.
Đưa tin thứ sử Lục Dân,
Xin tăng viện ngàn lần vây ta.
Bắt dân chúng phải rời xa,
Triệt đường lương thực quâ ta đến cùng.
Kiên trì nhi nữ anh hùng,
Cạn lương sáu tháng cũng đành tấn công.
Máu thù hoen áo bào hồng,
Ít quân, đói khát, tấm lòng trung trinh
Thân ngà tự vẫn gương thiêng,
Vì sao mai rụng về riêng đất trời.
Tin toàn dân Việt chơi vơi !
Nghiêng mình ! hương lạc hoa đời hăm ba !
Tử hùng mặc niệm lời ca,
Rừng Thanh mờ mịt, Hồng hà lệ rơi !
Từ đây muôn nẽo dòng đời
Anh hùng Triệu thị Chinh ngời nét son
Phi thường chí khí Việt hồn,
Giục trang nữ kiệt vẫn còn hùng anh.
Lý Nam đé tấm lòng thành
Truy phong ‘‘Trinh nhất liệt anh hùng tài’’
Trải bao hưng phế dài dài,
Dân con Đất Việt vẫn hoài suy tôn.

Con cò bay lả bay la,
Bay từ nước Việt bay qua nước ngoài.
Anh hùng liệt nữ còn hoài
Tim người xa xứ thương dài ngàn năm.
 

13 tháng 10/1983

______________________

(1) Ý của Bà Triệu trả lời anh.
 
 

 


Trở Về   ]