Con
cò bay lả bay la,
Bay
qua giao chỉ, bay về Cửu chân.
Ác
nhân thứ sử Lục Dân,
Gái
Nam họ Triệu mộ quân đuổi thù.
Một
ngàn tráng sĩ chiến khu,
Ngựa
phi múa kiếm gió vù thoảng qua
Thước
gươm nắm chặt tay ngà,
Quyền
uy lãnh đạo mặt hoa nghiêm mày.
Giô
ta, lăn đá ven rừng,
Lập
đồn phòng ngự chập chùng núi cao.
Giô
ta, kéo gỗ, đào hào,
Ngẩn
ngơ vách đá, xôn xao cây rừng.
Con
cò bay lả bay la,
Bay
từ đỉnh núi bay qua mây ngàn
Dù
anh không biết can ngăn,
Muốn
rằng nhi nữ khác phàm xin thưa.
Con
cò bay sớm bay trưa,
Sấm
ran Nam hải ! Tiếng mưa sơn hà.
Hùng
thay chí khí đàn bà,
"Cưỡi
cơn gió mạnh Hằng nga giật mình. (1)
Khác
thay nhi nữ thường tình ,
Đạp
đường sóng dữ, chém kình biển đông.
Dù
sinh làm kiếp má hồng,
Ngựa,
gươm chiến trận quét xong giặc ngoài.
Chứ
không bắt chước những ai
Lưng
cong, đầu cúi đời dài thê noa."
Con
cò bay lả bay la
Làng
trên, xóm dưới bay qua núi đồi.
Nhắc
đi, nhắc lại từng lời,
Bay
đi, bay lại từng nơi kêu mời ...
Trèo
lên đỉnh núi mà coi,
Thấy
trang nữ tướng cỡi voi, giáp vàng
Hàng
hàng dũng sĩ bên đàng
Gươm
trần loé sáng, cờ vàng tung mây.
Đỉnh
cao vách đá đứng ngây,
Lũng
cây khép nép, gió mây thầm thì.
Phong
lan chào đón bước đi,
Thác
ngàn kính sợ cũng si anh hùng.
Giăng
căn lều gấm ven rừng,
Đôn
quân, đốc tướng, luyện cung giáo dài.
Binh
thư đêm đọc miệt mài,
Ngựa
phi giám sát trưa, mai, tối, chiều.
Gió
bay khăn chít lụa điều,
Anh
thư nức tiếng Nhụy Kiều tướng quân.
Gió
đưa bụi trúc bên sông,
Cứu
dân, yêu nước tấm lòng mênh mông.
Tướng
quân má đỏ môi hồng,
Không
thiết lấy chồng, chỉ quyết đãu tranh.
Hai
mươi hoa nở xuân xanh,
Trăng
tà mài kiếm, quân hành vui tai
Đôi
gò bồng đảo cao dài,
Quần
hồng nai nịt, gót hài lưng câu.
Con
cò bay lả bay la,
Đây
tin mới lạ bay về chiến khu.
Dân
ta nổi dậy chống thù,
Viết
trang sữ đẹp ngàn thu lưu truyền.
Anh
thư vâng giử lời nguyền,
Giúp
anh Triệu quốc Đạt nguyên binh hùng.
Thấy
tài lãnh đạo phi thường,
Quân
anh tôn nữ anh hùng Tướng quân.
Núi
rung, rừng chuyển, mây vần,
Thấy
loa dậy đất ầm ầm tiếng hô.
Hùng
thay khí thế dựng cờ,
Tế
thần sông núi, tay giơ máu thề.
Đây
hồn tổ quốc đi về,
Linh
thiêng chứng giám lời thề non sông.
Giô
ta kéo đá giô ta !
Sẳn
sãng chiến đãu tiếng loa lệnh truyền.
Để
cho quân giặc rời thuyền,
Tiến
sâu khu chiến bắt nguyên chuyến này.
Ngỡ
ngàng lạ nước, lạ mây,
Quân
Tàu hốt hoảng thấy ngay tướng mình.
Đỉnh
cao một tướng xinh xinh,
Bành
vàng bạch tượng thình lình tuốt gươm.
Ầm
ầm bão đá ngập đường,
Sấm
rung tiếng thét, giáo trường phi lao.
Mưa
tên mộc đổ ào ào,
Hán
quân bia đạn chổ nào còn nguyên.
Tàn
binh mong rút xuống thuyền,
Chặn
lui binh bại đốt thuyền cháy veo.
Thua
cơ đúng lúc hiểm nghèo,
Tù
binh trói hết bắt theo về ngàn.
Quân
ca đẹp khúc khải hoàn,
Ngã
trâu, xôi, rượu dân thương thưởng hoài.
Vang
lừng chiên trống dặm ngoài.
Con
cò bay lả bay la,
Bay
qua Giao chỉ bay về Cửu chân.
Đưa
tin thứ sử Lục Dân,
Xin
tăng viện ngàn lần vây ta.
Bắt
dân chúng phải rời xa,
Triệt
đường lương thực quâ ta đến cùng.
Kiên
trì nhi nữ anh hùng,
Cạn
lương sáu tháng cũng đành tấn công.
Máu
thù hoen áo bào hồng,
Ít
quân, đói khát, tấm lòng trung trinh
Thân
ngà tự vẫn gương thiêng,
Vì
sao mai rụng về riêng đất trời.
Tin
toàn dân Việt chơi vơi !
Nghiêng
mình ! hương lạc hoa đời hăm ba !
Tử
hùng mặc niệm lời ca,
Rừng
Thanh mờ mịt, Hồng hà lệ rơi !
Từ
đây muôn nẽo dòng đời
Anh
hùng Triệu thị Chinh ngời nét son
Phi
thường chí khí Việt hồn,
Giục
trang nữ kiệt vẫn còn hùng anh.
Lý
Nam đé tấm lòng thành
Truy
phong ‘‘Trinh nhất liệt anh hùng tài’’
Trải
bao hưng phế dài dài,
Dân
con Đất Việt vẫn hoài suy tôn.
Con
cò bay lả bay la,
Bay
từ nước Việt bay qua nước ngoài.
Anh
hùng liệt nữ còn hoài
Tim
người xa xứ thương dài ngàn năm.
13
tháng 10/1983
______________________
(1)
Ý của Bà Triệu trả lời anh.