Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]

Sử Việt Anh Hùng Ca
***
10. Bình Mông Hùng Ca (1)
Lê Ngọc Hồ
 
 I. Non sông Việt Thanh Bình trước Mông cổ xâm lăng.
Thái bình hát khúc Âu ca
Tinh anh nếp sống văn hoa tính tình

Tiếng tiêu nhẹ, chèo lan trên sóng nước
Đại Việt trời Nam vui cảnh thái hòa,
Tằm dâu đẹp, vườn trái, lúa đơm hoa.
Vẳng tiếng sáo diều đêm thôn im lắng,
Tiếng hát ví mùa trăng con ngõ vắng.
Giọt đàn bầu ve vuốt gái thôn trang,
Hội trăng rằm nao nức tuổi trai làng.
Vườn học sĩ, hoa thơ cười trăng sáng,
Biển văn tự, sóng thi lai láng.
Lê văn Hưu trang quốc sử khởi đầu,
Lập trang điền, một quốc sách dân giàu.
Câu gấm vóc thêu Hàn thuyên văn tế,
Một chính sách kết hiếu hòa giao tế.
Thái Thượng hoàng một học giả uyên thâm,
Rời Thiên trường đi khắp nước viếng thăm.
Những cảnh đẹp non sông sao gấm vóc,
Đất nước mộng lũng đồng bằng vựa thóc.
Trăng Hạ long, hồ Ba bể hoàng hôn,
Động chùa Hương, "nàng Tô thị" Lạng sơn:

" Cổ tự thê lương thu ái ngoại,
Ngự thuyền tiêu sắc mộ chung sơ.
Thủy minh sơn tỉnh bạch điểu quá,
Phong định vân nhàn hồng thu sơ."

Trần Nhân Tôn  (Lạng sơn vãn cảnh)


(Nét chữ cụ Trần Dương)

" Lạnh lẽo chùa quê bóng mịt mờ,
Thuyền ngư lẽo đẽo, tiếng chuông đưa.
Nước quang, non tỉnh con cò liệng,
Gió tạnh, mây im, lá đỏ thưa."
                    (Ngô Tất Tố phiên dịch)
 

Tịch Dương
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng nghịch lý ngưu qui tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.

Trần Nhân Tông

(Nét chữ cụ Trần Dương)

          Chiều
Thôn sau, xóm trước khói mờ,
Nửa không nửa có bóng mơ chiều tà.
Chăn trâu tiếng địch về xa,
Sóng đôi cò trắng bay qua cánh đồng.
                           (Lê Ngọc Hồ dịch) 

Thơ một túi, thửa một bầu rượu cúc,
Một rương sách, một đàn tranh, sáo trúc.
Đẹp giang san, vượng khí đất mạch lành,
Non khí thiêng, đất hội tụ tinh anh.
Từ trường đổ, từ cao nguyên Tây tạng,
Thế đất đẹp, mạch nước nguồn lai láng.
Lòng chân thành, Ngài cảm tạ tổ tiẻn,
Bao công lao dựng nước những quốc hiền.
Nước quá đẹp... nhưng cũng đày sóng gió!
Một báu vật bao kẻ thù nhòm ngó.
Ngài thở dài: một đế quốc đang lên,
Quân kỵ Mông vượt vạn dặm như tên...

***
 
 
II. Sẳn sàng chiến đấu
             Hùng thay! một thuở bình Mông,
             Lừng danh nòi giống Lạc Hồng oai phong.

Toàn dân nghe chăng:
Đoàn gió ngựa quân Mông ngoài biên ải,
Loa vang vang báo động khắp sơn hà:
Loài hung thần !  quân xâm lấn đang qua!
Sông Hồng réo mặt đó bừng tức giận,
Nước Nam hải, triều dâng tình căm phẩn.
Hoàng liên sơn, cao chất ngất khí thù, (3)

Sóng Bạch đằng, sôi uất ánh trăng lu.
Rừng tre nứa nghiến răng thề quyết chiến,
Cỏ, cây, lá, ý chống thù thể hiện.
Khắp xóm làng trai trẻ nguyện xung phong,
Từ thôn trang đến thành thị một lòng.
Các bô lão, vót tre làm tên nỏ,
Các phụ nữ áo may xong trấn thủ.
Các trẻ em làm liên lạc đưa tin,
Các bà già đi tùng xóm quyên tiền.
Toàn dân ý quyết hy sinh chiến đãu,
Thề bảo vệ toàn San Hà yêu dấu.

***
Hung tàn kỵ mã quân Mông
Cỏ không dám mọc, chó gà không dám kêu

Quân Mông cổ đoàn kỵ binh bách thắng.
Từ Trung Á đến Âu châu im lặng.
Vó ngựa Mông, cỏ không mọc đồng hoang,
Vắng tiếng gà, chó không sủa bàng hoàng.
Hùng chiến mã, hàng hàng giơ cao vó.
Loài ngựa rừng cao cẳng, hí vang lừng,
Gió dựng bàn phi nước đại thật hung.
Lính kỵ mã, thân đồng đen bóng loáng,
Ánh đoản kiếm chói ngời loe nắng sáng.
Mặt xạm chì khắc khổ nét hung tàn,
Tiến không lùi lưng bảo vệ không cần.
Trên chiến mã đêm ngày áo da mốc thếch,
Không biết mệt, chân cột đồng, mắt xếch.
Ít dục tình, không hưỡng thụ, hành quân,
Không tình thương như loài quỉ phi nhân. (4)
Lính nửa triệu, do Thoát Hoan thế tử,
Làm nguyên soái chỉ huy toàn quân lữ.

Ô mã Nhi cùng với tướng Toa Đô,
Được tướng phong giúp thế tử khuông phò.
Đi hùng hổ mạnh tiến vào biên giới,
Quân, dân Việt đã súng chờ, gơm đợi...

***
 
III.Danh tướng đời Trần
  Trần Hưng Đạo

Xưa nay chốn sử hoàn cầu,
Một danh Tướng quá đẹp câu khải hoàn.
Dọc ngang Âu Á dặm ngàn,
Ngựa Mông run vó đất Nam kiên cường.
Còn tươi cỏ Việt biên cương,
Đại vương Hưng Đạo tấm gương ngàn đời.
Lung linh ngọn nến chơi vơi,
Nửa đêm đọc sử bồi hồi dòng xưa.
Đất người nắng xóm chiều mưa,
Dẫu thân vất vả tim thừa niềm tin.
Quật cường truyền thống giử gìn,
Máu anh hùng đã vào tim những ngày.
Dòng tình lại chợt ngất ngây,
Nghe Bình Mông hịch rằng đây sử vàng.
Khí thiêng sông núi tinh hoa,
Võ, văn hội tụ, lược thao, anh hùng.
Lục thao tam lược gồm tài,
Dưới tướng bao nhiêu hào kiệt.
Một thiên tài , hề dũng liệt!
Một văn tài hề lừng danh,
Thơm thơm hề giống Việt.
Quốc phụ hề quân sư,
Từng lời vàng để lại.

Tình Vạn Kiếp ngàn sau trăng dõi,
Sóng Bạch Đằng vọng mãi gươm thề.
Trần hưng Đạo con An Vương Trần Liễu,
Quên thù nhà, đền ân nước, trung thành
Bé: tài thơ, bày bát trận tinh anh. (5)
Soạn Binh pháp, một thiên tài chiến lược,
Văn rực rỡ, một hịch vàng thưở trước.
Rất linh uy, giặc không dám gọi tên,
Lục-đầu sông nơi trí sỉ đại hiền...
(20 tháng 8 ngày hội đền Vạn kiếp,
Dân ghi nhớ đại anh hùng trung liệt.
Đêm hoa đăng, sông Vạn kiếp hàng năm,
Khách tứ phương vui hơn hội trăng rằm.)
Tôn Thượng phụ, các vua Trần trọng kính
Trên bảy mươi Ngài lìa đời thọ bịnh...
Dưới trướng Ngài các tướng giỏi theo phò,
Võ kiêm văn: Phạm ngũ Lão khôi ngô
Ngồi đan sọt, giáo đâm vào không biết!
Thơ khẩu khí, ngâm dài trang anh kiệt...
Một tướng tài Trần quang Khải lừng danh,
Thắng, khao quân thơ "Đoạt sáo" lời vàng...
Trần quốc Toản trái cam cầm bóp vỡ,
Vì quá tức giận xâm lăng Mông cổ.
Trần khánh Dư, một võ tướng văn tài,
Đời nhà Trần tướng có một không hai.
Thái bình hát những bài thơ lộng lẫy
ThờI chinh chiến điều quân hô sấm dậy
 

***
Thế giới danh vang, phục tướng tài,
Vũ công, văn nghiệp có không hai.
Ngàn xưa sông núi thiêng hùng khí
Gương sáng ngàn sau một chí trai.
Hàng năm hoa đuốc cánh hồng,

Đèn thuyền sóng nước khúc sông thưở nào.
Đền thờ Vạn kiếp vươn cao,
Khách hành hương mau ra vào hương yêu.
Đại vương nghĩa cả, chí siêu,
Cứu dân, cứu nước đến điều kiên trinh.
Còn non, còn nước, còn tình,
Lục - đầu bến cũ bóng hình chưa phai
Sông Hồng triều sóng dặm dài,
Hai mươi tháng tám nhớ hoài muôn sau.
Bình Mông một thưở công đầu,
Hương lòng mãi thắp dâng màu suy tôn.
 

 
 
IV. Quyết chiến
Ba quân quyết thệ cờ hồng
Đồng lòng chiến đấu, Diên Hồng ý dân

Giặc Mông cổ từng bao phen bách thắng,
Trước chiến tranh, cần suy nghĩ minh quân.
Vì nước nhà, vì sách lược, thương dân
Tìm mưu trí, những nhân tài trong nước,
"Tâu bệ hạ! Nếu đầu thần chưa rớt!
Xin đừng lo, ta quyết chống giặt Tàu"
Chí cương cường Trần thủ Độ lời tâu,
Trần hưng Đạo: "xin chém đầu thần trước!
Tâu thánh thượng nếu muốn hàng lui bước".
Khắp kinh kỳ rộn rịp hội Diên Hồng
Chiến hay hòa rung động khắp Thăng Long
Chí buất khuất bùng lên sôi mạch máu,
Không lưỡng lự chỉ một đường chiến đấu.
Khắp xóm làng cả nước vang tiếng loa,
Lệnh trưng cầu dân ý được ban ra.
Già đến trẻ về hội đình tấp nập,
Vang tiếng mõ mau mau về họp gấp.

Các cụ già, chòm râu trắng phất phơ,
Các trai làng gân bắp thịt dựng cờ.
Ba hồi trống đáng vang rền khai mạc,
Cụ tiên chỉ rung rnng hàm râu bạc.
Giọng vang vang đọc chiếu chỉ Thượng hoàng,
Hỏi ý dân quyết chiến đấu hay hàng.
Vụa đọc hết các cụ già đứng dậy,
Cụ già nhất yếu chân run lẩy bẩy
Cũng phều phào "Đánh" nhất định không hòa,
Toàn hội trường hô "Đánh" lớn hơn loa.
Một ý chí, một lời thề cắt máu,
Quyết đánh mãi! còn một người cũng đấu!

***
 
 
V. Sát Đát
Sông thao ngoài bến Việt trì,
Anh hùng "Sát Đát" tiếc gì núi sông.

Cậy sức mạnh! Quân nhà Nguyên xâm lấn,
Ta động binh quyết chống giặc dài lâu,
Trần thái Tông chiến thắng Đông bộ đầu.
Thua, mỏi mệt quân Mông thành giặc Phật,
Non nước Việt trong khí hùng cao ngất.
Giặc trả thù ta cả nước đề phòng.
Nước anh hùng của muôn thưở Bình Mông.
Quân tài bạo sai Sài Thung hống hách
Nước Văn học, ta hiếu hoà, dám trách!...
Sông Bình Ố than họp tất cả vua quan,
Hưng đạo Vương Tổng thống lảnh đầu quân.
Trước cường địch, ta sẳn sàng nghênh chiến,
Lòng yêu nước, tình thương nòi thể hiện.
Lệnh Đại Vương họp tất cả vương hầu.
 

Tổng duyệt binh, tại bến Đông bộ đầu.
Trần quốc Tuấn uy hùng trong giáp sắt,
Hông bảo kiếm, chói ngời loe nắng gắt.
Đại chiến thuyền đỏ rực mắt giao long,
Làn gió thần, mở khép áo bào hồng.
Ngàn chiến hạm! cưỡi hung hăng sóng bạc,
Quân hò réo ầm ầm hơn nước thác!
Ngọn trường thương lấp lánh cả vòm trời,
Sáu ngọn sông sợ sệt nước chơi vơi.
Đoàn hổ tướng vòng tay ra đón lệnh:
"Đền ân nước, toàn quân hết sức đánh!
Tiếng "xin thề" bùng nổ sấm âm vang.
Lệnh điểm binh hai chục vạn hàng hàng.
Hô "Sát Đát" núi kề sông đá lở! (7)
Thích "Sát Đát cánh tay trần rực rỡ
Cã rừng tay, bổng chốc vụt giơ cao,
Làm cuồng phong, làm mây chuyển, sóng gào.
Từng quân chiến đã sẵn sàng sức mạnh. (8)
Từng ngườI lính lòng xôn xao quyết đánh,
Cồng chiêng vang lễ hùng tế dâng cờ
Hồi trống đồng ban nghiêm lệnh quân cơ.

***
 
 
VI. Trận Biên ải
Vó ngựa hề cất cao,
Lấp lánh hề ngọn giáo
Bão tên đổ ào ào
Cánh tay hề thô bạo
Bờm ngựa hề dựng đứng,
Ngựa thở hề mây mờ.
Tráng sĩ hề đứng sững,
Lưỡi sắc hề đao to.

Dù cho bách thắng nơi nao,
Non sông Việt chớ đụng vào mà thua.

Nắm chặt kiếm, ghì truờng thương nghênh chiến,
Quân Việt nam hăng khí thế diệt thù,
Ải Nam quan ghi chiến tích ngàn thu.
Loa trống trận vang hừng trên trận địa,
Bao mãnh thú chạy dài bay mất vía.
Tay cầm khiên gân guốc nổi như thừng,
Hô xung phong hổ gầm tiếng vang lừng.
Nắng cháy đố trên vai bờ áo giáp,
Tay ghì chặt giây cương, thân cúi rạp.
Hàng nối hàng biển ngựa ngập cánh đồng,
Sắc đen nâu loài chiến mã quân Mông
Rừng gươm ánh trong nắng trời nháng lửa,
Bay hùng dũng rực cờ vàng một nữa.
Thấp mây bay giáo chọc thủng vút cao,
Khí thế hùng dâng lượng biển sóng trào.
Loé áo giáp gồ lên mu ngực thép,
Luôn chân giậm ngựa câu sùi bọt mép.
Ráng mây hồng máu thắm đỏ mặt trời,
Mây vội bay sợ chiến trận chơi vơi.
Tiếng ngựa hí, tiếng tù và, tiếng thét,
Hú man rợ, tiếng kêu la, tiếng hét...
Nứa sắc dài, xé nát vó ngựa Mông,
Ngọn trường thương tắm đẵm máu giặc hồng.
Thế nước mạnh, giặc luôn luôn tăng phái,
Núi Kỳ cấp nơi bất phân thắng bại.
Ý thế đông giặc chiến thuật biển người,
Để bảo toàn ta rút giữ miền xuôi.
Giặt đốt phá, cướp, giết người tàn bạo,
Ta nhất trí, dân thương quân chiến đãu.

***
 
 
VII. Xôn xao tiếng hịch
Hịch vàng hề kích thích,
Hai mươi vạn quân Nam.
Quyết tâm hề chống địch
Bảo vệ hề giang san
Hịch vàng muôn cánh tay thề,
Quyết tâm chiến đấu giữ quê, diệt thù.

...
Ta đây,
Ngày thì quên ăn,
Đêm thì quên ngủ.
Ruột đau như cắt,
Nước mắt đầm đìa.
Chỉ căm tức rằng chưa được xả thịt, lột da của quân giặc.
Dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ,
Xác này gói trong da ngựa thì cũng đành lòng
           (LờI Hịch của Đức Trần Hưng Đạo, dịch Trần trọng Kim)

Im phăng phắc sóng hàng quân biển lính,
Từng lời uống xoáy vào hồn tiếng hịch.

Gân xôn xao mà gan óc nao nao,
Thớ thịt rung tim dồn dập máu ra vào.
Hơi thở lẹ, nổi da gà xúc động,
Nghiến răng lại: Thù không còn một mống.

***
 
 
VIII. Rút khỏi Thăng Long
Quân địch hề giầy xéo,
Lên gấm vóc giang san.
Lo bão toàn dân Nam,
Điều binh hề khéo léo.
Thủ đô hề mây mờ,
Địch tràn vô xông xáo!
Thăng long vắng bóng cờ,
Quân thù hề thô bạo.
Thăng long mờ mịt thức mây
Giặc tràn cướp phá, thành gầy tang thương.

Giặc Mông cổ dồn quân: Thăng long mất,
Chúng giết hết những cánh tay "Sát Đát".
Ta hộ vệ xa giá xuống Thiên - trường, (Nam định )
Nghi binh, rồi quay trở lại Hãi dương.
Đánh bọc hậu chiến mưu loài Mông cổ,

 
 
IX. Chiến thắng Hàm tử
Con cò bay lả bay la,
Bay qua Hàm tử bay về Thăng long.
Xôn xao sóng nước sông Hồng,
Tin mừng thắng trận muôn lòng tung hô
Quân quân oai dũng tế cờ,
Nghiêng bầu rượu thắng, lời thơ trầm hùng.
 
***
Hàm tử quan!
Hàm tử quan
Thắng trận đầu
Cứu giang san
Ngựa Mông sút vó
 "Cầm hồ Hàm tử quan"
Nước Việt còn đó
Lạc Hồng muôn năm!
Đẹp thay một thưở dâng cờ,
Tin đưa thắng trận còn ngờ chiêm bao.

Tiếng ngựa hí, tiếng thét vang xung kích,
Một trường kiếm suốt qua người tướng địch
Máu đỏ dòng như kích thích say men,
Biển quân ta tràn sóng ngập phủ lên.
Thuyền của giặc không có còn lính giặc,
Bến Hàm Tử Giặc lền bền trôi xác.
Lá cờ vàng tung tóe máu quân Mông,
Chiêu văn Vương chuôi kiếm bạc thành hồng
Chiến thuật giỏi quân xung phong phục kích
Trần nhật Duật phá tan tành quân địch. 

***
 
 
X. Giải phóng Thăng Long
Ta gan hề cướp giáo!
Lũ giặc hề xâm lăng,
Giết loài quân tàn bạo!
Phất phới lá cờ vàng
Thăng long hề yêu dấu
Thăng long một thưở rồng vàng
Chốn thiêng nước Việt thành vàng dân Nam.

Thừa thắng lên ta giải thoát Thăng long,
Chiến thuyền ta vang réo sóng sông Hồng.

Chương dương độ tướng Trần quang Khải,
Chiến thuyền giặc tan tành lui tháo chạy.
Bỏ cả thành Thoát Hoan phải chạy dài,
Việt cờ vàng ngạo nghễ nắng ban mai.
Thành xưa đó, uy linh hùng xưa đó,
Mây thiêng phủ, sóng cờ vàng lộng gió.
Muôn quân reo hùng khí lễ dâng cờ,
Ngàn sao trời nghiêng nghiêng xuống thành đô.
Trần quang Khải ngâm bài thơ cảm khái:

"Đoạt sáo Chương -dương độ,
Cầm hồ Hàm tử quan.
Thái bình nghi nỗ lực,
Vạn cổ thử giang san."
(Nét chữ cụ Trần Dương)

Chương - dương cướp giáo giặc,
Hàm - tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu
(Trần trọng Kim dịch)

Thăng long quí, thành vàng nay lấy lại.
Vang vọng tiếng quân ca:
Thăng long nay lại về ta,
Ngoại ô năm cánh đóa hoa mai vàng.

Quân hò chiến thắng vang vang,
Tình kỳ rợp đất hàng hàng tiến quân.

 
 
XI. Chiến thắng Tây kết
Tây kết hề Tây kết,
Quân thù lui chối chết.
Một nước Việt vàng son
Muôn thế hệ vẫn còn.

Về Tây kết Toa đô sai thám thính,
Bỏ Thiên trường vì lo sợ quân ta,
Khi biết tin Thoát hoan đã chạy xa.
Lo sợ quá thành án binh bất động,
Trần hưng Đạo muốn dụng tâm bắt sống.
Chặn các đường không cho giặc thông tin,
Dẫn đại quân quá phấn khởi tiến binh.
Ta đóng trại chặn các nơi hiểm yếu,
Giặc quá sợ nên giặc đành phải liệu.
Bỏ chiến thuyền chúng chạy bộ tháo lui,
Ta quyết tâm bắt phá giặc từng người.
Quân cung mã quyết chặn đường phục kích,
Rừng tên độc mưa liên miên phía địch.
Vọng tiếng loa vào vách đá vang vang,
Các đỉnh non toàn lộng gió cờ vàng.
Thân bách chiến Toa đô đày tên độc,
Đội xung kích quân ta ào đổ dốc.
Cả chiến trường đẫm máu lá, cỏ, cây
Óc, tủy văng tung toé cả cành gầy.
Toa Đô chết, Ô mã Nhi chạy thoát,
Thương dũng liệt, lấy áo bào phủ xác.
Để nêu gương, vua mến đức trung trinh
Thu chiến thuyền, bắt ba vạn tù binh.

 
 
XII. Đại thắng Vạn kiếp
Đại thắng hề Vạn Kiếp
Lạc Hồng hề anh liệt
Hùng cứ hề trời Nam
Quả cảm nòi giống Việt
Chiến trường Vạn Kiếp ra tay
Loài quân bách thắng có ngày tan hoang.

Toa Đô chết, Ô mã Nhi tháo chạy,
Những tin dữ làm Thoát Hoan lạnh gáy.
Hưng đạo Vương sai phục kích chặn đường,
Sai hai con đường đi đến Hãi-dương.
Ngăn chặn địch về châu Tư minh lối rút,
Dò động tĩnh địch từng giây, từng phút.
Thoát Hoan lui đến Vạn Kiếp đại binh,
Thắng trong tay, ta biết hết địch tình.
Phá một trận, giặc chết còn phân nửa,
Quân Nguyễn Khoái tiến nhanh hơn gió lửa.
Chui ống  đồng Thoát Hoan thoát cho nhanh.
Nửa triệu quân trong sáu tháng tan tành
Đại Vinh thắng chói ngòi trang chiến sử,
Khắp cả nước từ vua, quan, lê thứ.
Khải hoàn ca vang chiến thắng vàng son,
Việt giang san ngàn thế hệ trường tồn.

Quá rạng rỡ quốc hồn,
Quá linh thiêng quốc sách.
Dòng sông chảy réo sôi vui chiến thắng,
Nghiêng kính cẩn núi Ba Vì im lặng.
Nước sông Thao, réo rắt nhạc hòa âm,
Tiếng hoan hô ầm sấm động sông Gầm.
Trường sơn gió bay tin mừng cả thể,
Nước Nam Hải triều dâng lên của lễ.
Đêm hoa đăng thắp sáng vạn tinh cầu,
 

Rượu tràn thơ ngâm sãng khoái từng câu.
Người tráng sĩ trong tiếng cười ngạo nghễ.
Vỗ dốc kiếm, hò khúc ca thế hệ 
Một mùa hè mà hoa nở mùa xuân,
Xông hương trầm thơm ngọn giáo bao lần.
Đua mở hội một ngày hè đại thắng,
Dân phấn khởi rượu khao quân suốt tháng
Nước non thiêng khởi sắc giống Tiên rồng,
Sen ngạt ngào từng thớ đất Thăng long.
Mây ngũ sắc phủ màu cờ thắng trận
Vó Mông cổ chỉ chùn chân một bận
Quá bàng hoàng thế giới kính nghiêng mình.

***
 
 
XIII. Chiến thắng Vân Đồn
Đánh lắm hề thua dữ,
Còn đánh hề còn thua.
Lê thứ, quân, quan, vua,
Kết đoán hề có đủ.

Đình đánh Nhật, quân Nguyên sang phục hận,
Thêm ba trăm chiến hạm để tăng cường,
Ba trăm ngàn lính chiến đủ quân lương.
A bát Xích, Ô mã Nhi, Lỗ Xích,
Trương văn Hổ lại cộng thêm Phàn Tiếp.
Phù thủy cao tay tên tiến sỉ Nguyễn Nhan, (9)
Mượn chiêu bài Trần ích Tắc Việt gian... (10)
Sôi ánh thép quân ta còn đợi lệnh,
Tướng, sĩ tốt, quyết lo tròn sứ mệnh

Vân đồn hề quân ta,
Chuyễn bại hề thành thắng

Loa quân Mông câm lặng.
Giáo ta hề nở hoa.
Hùng thay một trận Vân Đồn,
Quân lương Mông cổ không còn một cân.
Máu thù ướt giáo kiếm đàu,
Quân ta chiến thắng khởi đàu đợt hai
Quân ta đánh bậc giặc ngoài.

Lương sắp cạn, Ô mã Nhi đi lấy,
Trần khánh Dư đi đón đánh chận đường,
Ta bị thua, giặc vận tải quân lương.
Tướng quyết đánh để đái công chuộc tội,
Cho đi trước, ta cướp lương đoạn hậu...
Lửa cháy bùng trên những cánh buồm nâu,
Khói mịt mù đen hắc ín một màu.
Dòng sông lửa chảy dài nung mấy dặm,
Những mảng lửa lềnh bềnh loang máu đậm.
Những thuyền lương cháy lửa gạo ra tro,
Cá, tép, tôm, chết trong lò nướng khổng lồ.
Mùi khét lẹt, bay tung trời tro bụi,
Đầy thuyền đắm ngẹt sông đàu mủi chúi.

***
 
 
XIV. Chiến thắng Bạch Đằng
Trường giang sóng nước đi về,
Nước xuôi Nam hải gươm thề vang vang.
Bạch đằng hề sóng dữ,
Một thưở hề Nam quân.
Sông vàng hề lịch sử,
Đại thắng hề giặc tan.
Tiếng ca hề nhắn nhủ:
Giặc ngoài ghi khắc lời ta,
Xâm lăng cướp nước đừng qua Bạch Đằng.
 

Sóng Bạch Đằng lô xô tràn lớp lớp,
Ngày thiêng liêng hùng dũng tiếng quân reo,
Chiến thuyền Nam một sớm thả buông neo.
Trần nguyên soái duyệt hải quân nước Việt,
Trời xanh biếc, nước trường giang xanh biếc.
Vạn quân reo sóng thức dậy nhấp nhô,
Lá rung mình nhựa kích động vùng hô.

Hàng hàng quân phăng phắc,
Hàng hàng giáo, đao, cung.
Từng tay đồng chữ khắc,
Ánh loé mu khiên đồng.
Sấm ầm vang "Sát Đát"

Chiến thuyền Nam rừng giáo xếp dài hàng.
Nét oai phong lưng gió uốn cờ vàng.
Đoàn thủy  quái của hải quân Đại  Việt,
Những thủy mã, bầy kình ngư bạc thép.
Những chiến thuyền dữ tợn nét giao long,
Cựa, chân vàng, thân xanh biếc, mắt hồng
Mủi nhọn hoắt những chiếc thuyền xung kíck,
Mạnh, nhanh, gọn một đoàn thuyền  dụ  địch
Đoàn thủy long uốn khúc giải  sông vòng,
Thuyền chỉ huy súng lớn mũi bọc đồng.
Rừng cờ phướn réo lời qua tiếng  gió,
Nét lớn đỏ một chữ NAM rực rỡ.
Mủi đại thuyền Trần nguyên soái uy nghi
Mây nín khe sóng gió nói thầm thì
Thanh trường kiếm chỉ dòng sông lịch sử
" Ta gươm thệ không phá xong Mông cổ
Quyết không về trên bến nước Sông Rừng"(II)
Tiếng xin thề như sấm núi vang lừng.
Ngàn đoản kiếm vụt sát trên sóng nước,
Đoàn quân hỏ quyết không hề lui  bước.

Tướng điều quân xong nhiệm vụ thì hành,
Ngọn cọc dài bịt sắt cắm cho nhanh
Xuống sông trước lúc thủy triều như biển cả,
Quân mai phục đã sẵn sàng tất cả.
Tướng nhà Trần khiêu chiến với quân Mông,
Ô mã Nhi tức giận hét xung phong.
Xua thuyền chiến quyết quyết đuổi theo bắt sống.
Bỗng hô "sát" tiếng bùng vang sấm động.
Đại hải quân Trần hưng Đạo tăng cường,
Đại giang thuyền, đoàn xung kích trường thương.
Giặc quay chạy, nước thủy triều rút xuống,
Thuyền địch vướng rừng cọc dài luống cuống.
Vỡ tan tành, địch thất bại ê chề,
Những chiến thuyền trôi tan tác lá tre.
Sông máu địch tràn dòng loang sóng biếc.
Bị bắt hết Ô mã Nhi, Phàn Tiếp
Bốn trăm thuyền lớn ta bắt tịch thu,
Tích Lệ, cơ ngục bao nhiêu quân bị cầm tù.
Cùng khí giới, quân nhu vô số kể,
Đại chiến thắng, lưu truyền muôn thế hệ.
Dòng sóng thần sôi réo khúc ca vang
Khúc khải hoàn âm nhịp sóng Bạch Đằng.
Thiêng hồn nước thêm một lần oanh liệt.
Núi Con Voi phủ phục bái nghiêng mình,
Sông Chảy suy tôn đại thắng hùng binh.
Vui nhảy nhót nước lao dòng sông Mã,
Chậm lưu lượng vì vui mừng sông Cả.
Lòng nao nao tin chiến thắng Hồng Hà,
Vừa hoan ca, vừa ngây ngất sông Đà.
Thác sông nước mau hội về sông Đuống,
Cùng vạn kiếp suy tôn VƯƠNG thần tượng.

***
 


Trở Về   ]