Từ
ba căn cứ hải quân (2)
Chiến
thuyền vào khoảng hai trăm trương cờ.
Triều
ban nghiêm lệnh quân cơ
Tiếng
hô uy dũng sòng mơ đáp lời!...
Một
hỏa lực của miền Nam hung hãn
Giữ
non sông, đánh bại thủy quân Chiêm,
Thắng
Hòa Lan, phá hạm đội chiến thuyền
Trận
hải chiến đã lừng danh Nam Hải...
Đúng
ngày Chúa Nguyễn duyệt binh,
Hoa
- Lan hạm đội cố tình cứ qua..
Tham
mưu Chúa hỏi gần xa,
Có
nên truy kích hay tha quân này?
Bị
bão giạt người Hòa Lan đi lính
Cho
hải quân Việt đã mấy năm nay.
Quá
tự kiêu nên hắn trả lời ngay
Hạm
đội họ chỉ có Trời mới sợ!
Không
thèm đáp, Chúa lệnh truyền phẫn nộ
“Hạm
đội kia phải đánh bại chúng liền
Tổng
chỉ huy trao thế tử cầm quyền...”
Phăng
phăng nuốt sóng trùng dương,
Hải
quân nước Việt phi thường tiến quân.
Trên
boong đại pháo đã dàn,
Thêm
cung tên lửa sẵn sàng bay đi.
Lệnh
truyền thế tử ra uy.
Toàn
quân vâng lệnh nghiêm quỳ hô vang.
Hải
quân nước Việt hàng hàng,
Tấn
công vũ bão Hòa Lan ngỡ ngàng
Chiến
thuyền Việt bỗng dàn ngay,
Chẻ
ba hạm đội Hòa Lan bất ngờ.
Một
tàu địch hải quân ta săn đuổi,
Lửa
sáng tên cùng đại pháo mưa theo
Khí
thế hăng dồn địch chỗ hiểm nghèo.
Toan
chạy trốn tàu họ thường loạng hoạng.
Đụng
đá ngầm, tàu chiến vỡ tan tành,
Khắp
đó đây mảnh gỗ cháy lửa loang.
Tiếng
hô chiến thắng ầm vang,
Quân
ta đã thắng! Hòa Lan chìm tàu!..
Đo
đây sông máu đỏ ngầu,
Hải
quân sử chiến thắng đầu quân Nam,
Quân
ta
chiến đấu quyết tâm,
Nuốt
trôi tàu địch, lính cầm tù súng thu.
Lửa
cháy lớn, cuồng phong càng hung dữ,
Khói
mịt mù vùng biển tưởng màu đêm,
Chớp
thời cơ tàu địch nhỏ chuồn êm.
Hải
quân Việt truy đối phương rất gắt,
Hạm
đội địch duy chiếc tàu nhỏ nhất.
Con
cà còn lọt lưới hải quân ta,
Chúng
sợ run khi quát tháo tiếng loa.
Đối
phưong khi đã biết uy,
Đành
lòng trốn chạy một khi tranh hùng.
Việt
Nam nghĩa hiệp anh hùng,
Đánh
người ngã ngựa đau lòng quân ta.
Hải
quân qua chiến sử ca,
Sóng
triều dâng chiến thắng hoa đầu mùa.
Tham
mưu địch trong chiếc tàu lớn nhất,
Thay
thế nhuy nổ đại pháo như mưa,
Hải
quân ta dòng khí thế có thừa!...
Gọi
mưa pháo tỏa bao vây, bám riết,
Bão
tên lửa trận thắng thua quyết liệt.
Oâm
bó rơm tàu địch chạy thành hàng.
Quân
đổ bộ xung phong lên tàu địch,
Quyết
chiến thắng làm men say kích thích.
Quân
lưng trần túm được áo giết phăng!
Lệnh
tập trung toán người nhái rất hăng.
Sườn
tàu địch quyết phá toang đục lỗ,
Sàn
ngập nước không có còn một chỗ...
Bánh
lái tàu bị gãy bỡi quân ta.
Chặt
cột buồm, hầm lửa cháy lan ra
Thuyền
trưởng địch, bộ tham mưu tuyệt vọng,
Hết
cứu vãn chờ nổ kho thuốc súng!...
Hơn
hai trăm thủy thủ địch hỏa thiêu,
Tàu
Hòa Lan cháy từ sáng đến chiều...
Chỉ
còn có bảy người liều nhảy xuống,
Hải
quân Việt lệnh vớt lên bắt sống.
Mang
tù binh nộp Chúa Nguyễn lập công...
Nguyễn
Vương thi sát thuyền rồng,
Hai
hàng hạm đội song song theo hầu.
Thưởng
ban ai lập công đầu!
Hải
quân chiến sỉ cùng màu tuyên dương.
Bảy
tù binh nạp trước vương.
Tay
đốc kiếm, mắt nhìn tù binh địch
-Lính
nước nào? Chúa hỏi kẻ tự kiêu?
Người
Hòa Lan quá run sợ trả lời.
-Tâu
chúa thượng! Đây những người thoát nạn
Trận
Hải chiến Hòa Lan vừa bại trận!...
Đâu
cần chi nhờ quân đội của Trời!
Chiến
thuyền ta đủ phá địch như chơi!
Mau
trói lại tên Hòa Lan phạm thượng!...
Điều
quân một Nguyễn Phúc Tần,
Là
Hiền Vương đó một lần nối ngôi.
Sóng
thần cũng thấy chơi vơi,
Triều
dâng chen lấn nối lời suy tôn.
Hải
quân Việt quyết một lòng!
Một
trang chiến sử thơm hương!
Ngàn
sau, ngàn trước một phương giống nòi!
Giưong
buồm uống gió căng rồi,
Aàm
vang loa réo! Chơi vơi sóng dài!
Trùng
dương loan báo độ dài sóng âm.
Trận
này hải chiến quân Nam,
Hòa
Lan hạm đội bi tan chạy dài!
Việt
quân chiến thuật quá tài,
Bao
vây, xé lẻ, giặc ngoài lâm nguy!
Hải
triều nói với trăng thì,
Phi
lao gọi gió cùng suy tốn hoài.
Mây
chiều biểu ngữ nắng cài,
Hoan
hô chiến thắng vượt ngoài ước mong,
Vầng
trăng vừa ló biển đông,
Cũng
thơ chúc tụng! Cũng lòng kính yêu!
Quân
ta can đảm đã nhiều,
Hòa
Lan đề đốc chết thiêu lửa hồng!
Pierre
Breck! Cũng anh hùng!
Chết
cùng với lính trên boong tàu mình...
Hải
chiến đầu tiên địch với ta,
Một
trang quân sự nét son hoa.
Ngàn
sau con cháu yêu tình nước,
Loa
gió dâng triều, dợt sóng ca...
Lê
Ngọc Hồ
(Ngày
13 tháng 6 năm 1985)
(2) - Căn cứ
1 Nguyên Hải, chỗ sông Hương đổ ra biển nay gọi là
Thuận An; Căn cứ 2 lớn mạnh hơn dinh Chiêm nay gọi là
Thành Chiêm cách Hội An 9 km trên sông Thu Bồn ngày nay;
Căn cứ 3 trại Thủy trên bờ sông làng Hội Phú, xã An Ninh,
quận Tuy An, Phú Yên.
(Phạm Đình
Khiêm, xã hội V.N thế kỷ XVI I dưới mắt giáo sĩ Đắc Lộ,
V.N khảo cổ tập san, tr.49, 50, Sài gòn tháng 6/1961.)