Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]


 
Một Cái Chết Vô Can

(Mukankeina Shi, 1961)

Nguyên tác: Abe Kôbô (1924-33)

Dịch: Nguyễn Nam Trân

Có khách tới thăm. Hai chân chụm lại hướng về phía cửa ra vào, mặt úp xuống, nằm sóng sượt. Khách đã chết.

Dĩ nhiên A. không dễ gì ý thức ngay tình cảnh lúc ấy. Phải mất một vài giây trước khi sự kinh ngạc làm hắn choàng ngợp. Mấy giây đồng hồ đó như được phong kín trong một sự yên tĩnh đến nghẹn thở, giống như tờ giấy trắng căng phồng hơi điện.

Tiếp theo đó, bao nhiêu vi ti huyết quản chung quanh vành môi A. bắt đầu co rút thật gấp, đồng tử hắn mở banh, cảnh vật chung quanh trắng bạch ra. Lỗ mũi hắn chợt trở nên rất thính, ngửi thấy cả mùi da thịt còn tanh dậy lên. Người tên A., chủ nhân căn hộ số bảy trong chung cư M. này, như được cái mùi ấy ùa tới đánh thức, run bắn lên và bắt đầu hiểu được sự nghiêm trọng của tình hình. Một người đàn ông không quen không biết, không ai cho phép, đã đến nằm chết trong phòng hắn. Chỉ cần nhìn cánh tay phải bị bẻ quặt một cách không được tự nhiên phía trên đầu thì chẳng còn gì để nghi ngờ nữa, đúng là người khách đó đã chết thật.

A. lặng lẽ lướt nhìn bên ngoài cánh cửa ra vào mà hắn chưa khép kỹ. Cần cổ hắn bật tiếng kêu đánh rắc như tiếng ai bẻ que diêm. Trừ cái tay vịn bên thành cầu thang ánh lên lấp lánh, hắn không thấy có gì động tĩnh. Thở dài nhẹ nhõm, A. vội đóng kín cửa và hơi lấy làm lạ, không hiểu tại sao mình lại cảm thấy nhẹ người như thế. Chính ra, nếu thấy bóng ai đó, hắn sẽ không ngần ngại gọi họ đến giúp đỡ. Có phải chuyện cần giấu diếm gì đâu, hành động như hắn nghĩ là điều đương nhiên. Tuy vậy lúc này, khi thấy không có ai cả, hắn cảm thấy như mình vừa thoát nạn. Dĩ nhiên, hắn cần chút thời giờ rộng rãi để lấy lại bình tĩnh mà đánh giá tình hình, thế nhưng trong khi theo dõi diễn biến tâm lý của mình, A. vẫn thấy có gì không ổn thỏa.

Giữa giây phút ấy, nếu hắn khám phá ngay ra điều ẩn nấp bên trong sự mâu thuẫn đó và chọn lựa một hướng hành động khác thì sự việc có lẽ đã kết thúc cách khác. Thế mà rốt cuộc khi vừa đóng sập cánh cửa xong, động tác kế tiếp hầu như bắt buộc của hắn là khóa trái nó lại từ bên trong. Hiển nhiên sau đó hắn mới bắt đầu để đầu óc làm việc...Cho rằng sự chần chờ của hắn là một chi tiết cỏn con bỏ qua cũng được, nhưng thử hỏi, ai có thể ở đó mà dạy khôn cho hắn về chuyện ấy? Tình hình nghiêm trọng và bức bách quá đi mà!

Hắn hấp tấp khóa cửa. Ổ khóa chỉ là loại ổ hết sức bình thường nhưng bản làm bằng hợp kim khá dày, bên trong lại lót một lớp cao su nên rất mềm, vặn khóa vào vừa khép được khít khao vừa đỡ tốn sức. Khi gan ngón tay cái của hắn ấn lên chìa...hắn có cảm giác khoan khoái thấy ổ khóa hơi dội ngược...Bất đồ, lúc ấy, một ý nghĩ từ đâu ập đến làm hắn muốn nghẹn thở. Không, mình không thể nào lầm. ...Rõ ràng lúc về nhà, mình nhớ có tra chìa vào quay một vòng trước khi mở cửa mà. Thây ma làm gì có thể dùng chìa khóa lại và tự nhốt bên trong! Từ giây phút phát hiện ra xác chết giữa phòng cho đến lúc đó, A đã cố tìm mọi cách để xua đuổi ý nghĩ rằng đây là một vụ án mạng trong khi mọi chi tiết đều chứng minh ngược lại. Không phải chỉ chừng ấy...Sự thể xảy ra như thế này còn có nghĩa là trước tiên kẻ nào đó đã mở khóa vào nhà hắn một cách trái phép.

Nếu vậy, ắt ai đó đã dựng kế hoạch và dàn cảnh hết sức tinh vi. Không chỉ mỗi mình xác chết mà ngay chính hắn cũng đều là quân bài cần thiết bị lôi kéo vào trong kế hoạch phạm tội. Họ nhắm mình ngay từ đầu. Nghĩ đến cái ác ý không dè đó, làn da của hẳn trở nên nhạy cảm và nổi hết gai ốc. Việc hắn không kêu cứu ai đến giúp mình ngay hay không tính toán về khả năng đó có thể là phản ứng bắt nguồn từ bản năng tự vệ của hắn chăng?

Lại nữa, chìa khóa của căn buồng này khó thể nói là thứ tốt hảo hạng. Hình thù có vẻ ăn khớp với ổ khóa đấy nhưng cơ năng của nó đến mức độ nào thì còn đáng nghi lắm lắm. Có một dạo đã lâu, hắn đánh mất chìa và phải nhờ người quản lý cho mượn tạm cái chìa của ông ấy, hắn đã mở được chẳng có vấn đề. Hắn cũng phải xoay đi xoay lại một hồi đấy nhưng cái chìa vạn năng của ông quản lý xem khá ăn khớp với cái ổ. Chỉ cần có chiều ngang và độ dày vừa đủ, có lẽ bất cứ chìa nào cũng mở cánh cửa này được. Thế thì căn buồng của hắn không phải là cái đích bị nhắm đặc biệt, nó chỉ được chọn do tình cờ có vị trí gần nhất ở cầu thang đi lên. Ngoài ra, hồi tưởng rằng mình đã mở khóa khi đi vào nhà có khi chỉ là một ảo giác sau khi thấy chìa khóa tra vào có hơi vướng mắc trong ổ. Cánh cửa chưa hề đóng bao giờ cũng nên... Nói thì nói chứ điều đó không làm sao giảm được sự nghiêm trọng của vấn đề. Tự đưa ra bao nhiêu lối giải thích nhưng không có lối nào làm hắn thỏa mãn hoàn toàn.

Cơn hoảng sợ trở lại xâm chiếm, hắn quay đầu thử nhìn xác chết. Cần cổ hắn lại đánh rắc một tiếng tựa que diêm bị bẻ gãy. Cái xác như toát ra một nỗi phẫn uất. Dù đang nằm đấy bất động nhưng nó cho ta cảm tưởng đang có những chuyển động không nhận ra được nhưng liên tục chẳng khác cây kim đồng hồ treo tường. Có lẽ do tư thế của nó chăng? Cái xác làm ta liên tưởng đến bức ảnh chụp bắt được động tác của một vũ công đang tung người lên múa. Thân thể được gập lại một cách giả tạo: cánh tay trái nằm kẹp dưới thân mình kể từ bờ vai trở xuống trong khi cánh tay mặt oằn ra bên ngoài, trông kỳ dị như bị lệch khớp. Vầng trán úp xuống một điểm trên sàn, đang gánh chịu sức nặng của cả đầu lẫn cổ. Dù vậy, nửa người phía dưới thì lại nằm suôn đuột như vừa mới được chỉnh lại cho ngay ngắn. Rõ ràng sau khi chết rồi, có ai khác đã cho tay vào cái xác này.

Xác chết mặc một cái quần màu xanh dương, không còn nếp. Đầy vết nhầu phía sau đầu gối. Giày nâu nhạt, gót đã vẹt, đế cao su dính mấy hạt cát to. Trên lai quần cũng có dấu cát. Một vệt đen chạy dài từ mông xuống tới bên trong cặp đùi. A. nghĩ anh chàng này chắc bị bóp cổ chết vì hắn có lần nghe thiên hạ kể là kẻ treo cổ chết thường đái ra quần vào giây phút cuối cùng. Áo vét anh ta mặc có đường xẻ rãnh sau lưng, màu xanh lơ và tươi. Vạt áo vắt lên cho thấy cả sơ mi nhưng chẳng hiểu vì sao anh ta không đeo thắt lưng.

Thế rồi, A vội vã đảo mắt nhìn một vòng quanh căn buồng. Hình như đâu vẫn còn đấy cả. Lối vào phòng nơi có đặt bồn rửa mặt...nước vẫn tiếp tục rịn ra. Vẫn cái vòi nước bắt không chặt... Lớp chiếu lát trên sàn lối vào...Căn phòng rộng sáu tấm tatami ...với cái trần bằng ván ép được mấy thanh gỗ dát theo hình chữ thập đỡ lên...bàn, ghế, kệ sách nhỏ...bức tường có trổ một cánh cửa sổ rộng hơi nhô ra...tất cả tắm trong ánh sáng vàng vàng cam của mặt trời chiều đã ngả về Tây. Bên vè cửa sổ là một chậu cây gì đó lá đã rụng gần hết và chiếc khăn lau mặt xài lâu ngày đã tơi tã...

Tuy nhiên, A. không nhìn thấu phần bên trong chiếc giường kê sát rạt vào bức tường phía Bắc, khuất sau tấm màn bằng vải rẻ tiền màu lá úa in lỗ chỗ hình mấy con cá. Hắn thử lắng tai xem có gì động tĩnh nhưng chỉ hoài công. Tiếng ồn ào ngoài đường phố đã che lấp tất cả. Trong tai hắn đầy mọi loại tiếng động. Tiếng lò xo cút kít của một chiếc xe ba bánh không biết đang chạy về hướng nào, tiếng ba bốn con chó hùa nhau sủa dai dẳng, tiếng cười giòn giã của mấy người đi dạo, tiếng ai đó rửa soong chảo, âm thanh một chuyến xe điện lướt ngang qua, cả tiếng còi hụ của một chiếc tàu biển nào đó từ xa dội lên không trung rồi vọng lại.

Tấm màn cửa lay động. Để ý thì tự nãy giờ hình như nó vẫn lay động như thế. Vậy mà trong lòng, A. vẫn chẳng thấy gì đáng lo. Không chừng trong vô thức, A. thầm nghĩ rằng cái có thể đe dọa hắn, dầu là gì đi nữa, không làm sao đến từ phía đó được. Hắn cởi giày, cố ý tránh nhìn phía xác chết, liếc vội về hướng cái giường và tiến dần đến đó. Dĩ nhiên cái giường trống không, dấu vết chiếu chăn y nguyên tình trạng lúc hắn đi ra khỏi nhà. Hắn thấy mình hơi thiếu cảnh giác. Rốt cuộc, để chắc ăn, hắn kiểm tra ngay cả dưới giường xem và chỉ nhận ra màu men trắng của cái bô dùng đi vệ sinh ban đêm lóe lên một cách yếu ớt.

Hơi tẽn tò, A. kéo tấm màn lại rồi nhìn về hướng xác chết một lần nữa. Từ phía này, hắn nhìn rõ hơn bên trên thân thể con người đó. Mái tóc cắt ngắn sát, hơi cứng... cổ áo như được ai cố tình kéo lên cho thật cao...màu trắng của nó tương phản với cần cổ cáu bẩn đầy nếp nhăn...lỗ tai tái mét rủ xuống...ngón tay xanh gầy như được đánh một lớp phấn...còn móng thì đã thâm tím...

Tuy không nhìn rõ khuôn mặt xác chết nhưng A. hầu như chắc là mình chưa hề gặp người này. Lật đật đi kiểm kê những vết thương trên người nạn nhân, hắn hết xoay quanh bên này đến bên kia cái xác và dí mắt vào mọi góc cạnh giữa nó và sàn nhà. Hắn nghĩ điều quan trọng nhất là phải xem máu có dây bẩn ra sàn hay không. Có lẽ đây là một việc làm không đúng lúc nhưng động tác này có hiệu quả cần thiết để đưa hắn ra khỏi trạng thái tê liệt vì kinh ngạc từ nãy giờ. Nhìn suốt khắp nơi nhưng không nhận ra vết máu vết me gì cả, A bèn ngừng tìm tòi và chỉ chăm chú vào vùng cằm của người chết. Hắn thấy một sợi râu cạo hãy còn sót, đơn độc chĩa thẳng lên trời từ sau chiếc cằm.

Bất chợt bao nhiêu ý tưởng ồ ạt trào lên một loạt như vỡ đê...Không đâu, chưa phải là những ý tưởng bởi vì chúng hãy còn chưa được diễn tả bằng lời nói. Chúng hãy còn ở trong trạng thái xung động nhưng đã giống như một bầy sinh vật vô danh chỉ cùng chung ý muốn là tẩu thoát. Tuy nhiên, trong khi đang cố tìm môt hướng ra, chúng vì hành động quá đỗi thiếu đấu pháp nên làm cho người ta có cảm tưởng đó là một bầy gia súc đang dồn cục trước một lối ra đã bị phong tỏa. Chẳng hiểu thực tình chúng đã bị chẹn mất đường hay chăng! Không đâu, đường ra vẫn còn ở đó đấy chứ! A. thừa biết nếu chịu khó quay lại thôi, hắn sẽ tìm thấy lối thoát. Dĩ nhiên muốn quay lại nhìn, phải có nhiều can đảm. Hiện thời, cái đang làm cho hắn lo sợ lại không có gì khác hơn là chính cánh cửa để thoát thân ấy. ..Thế nhưng muốn chấm dứt nỗi bất an và nỗi khiếp sợ, hắn không thể làm cách nào khác hơn ngoài việc chọn lấy giải pháp này.

Không cần phải nói, giữa hắn và xác chết, chẳng hề có mối liên hệ cỏn con nào. Sự thực rành rành, chắc như đinh đóng cột. Tuy vậy, ngoài hắn ra, có ai biết cho là hắn không dính dáng gì với cái án mạng này. Để thiên hạ tin, buộc lòng hắn phải trưng bằng cớ. Chỉ có bằng cớ nào thật hùng hồn cho thấy hắn không hề có mặt tại phạm trường mới thuyết phục nổi mấy người cảnh sát. Tình thế của hắn hiện nay là như vậy. Bằng chứng hùng hồn đó sẽ là tấm giấy thông hành giúp hắn bước ra khỏi cửa một cách an toàn khi cần thiết. Hắn không biết phải mất bao nhiêu thời giờ cũng như không hiểu chuyện đó có khó thực hiện chăng, nhưng điều chắc chắn là việc hắn quả quyết mình vô tội và việc trưng được bằng cớ để chứng minh sự vô tội đó, là hai sự kiện hoàn toàn độc lập. Công lý hai đường song song sẽ không hề gặp nhau đã đành khó chối cãi nhưng chứng minh được là điều bất khả. Trong khi ấy, định lý cho rằng hai đường không song song sẽ cắt nhau tại một điểm thì chứng minh dễ cái một. Dù sao, cho đến khi mọi sự sáng tỏ hẳn hòi, thật tình khó lòng đưa ra bất cứ một kết luận nào gọi là thông suốt.

Thế mà không hiểu tại sao hắn chưa chịu đi ra cho xong? Cánh cửa nằm ngay trước mặt kia mà. Việc gì cứ phải chần chờ? Dĩ nhiên, đã đến nước này thì khó lòng không trưng bằng cớ. Có điều nên chờ xem thái độ của người gác-dan cái đã. Chỉ cần đợi thêm một tẹo thôi. Hơn nữa, cứ hành động thong dong như người vô tội có lẽ tự nhiên hơn. Thấy mình như thế, thiên hạ có thể tỏ ra khoan dung với mình dầu khi mình thiếu đôi chút giấy tờ. Nếu may mắn hơn, họ còn đâm ra thương tình, tử tế giúp mình đi tìm bằng chứng nữa là....Nhưng trên thực tế, họ có làm y như mình nghĩ không nhỉ?

Chuyện này chẳng lẽ lại bình thường, có thể bất cứ xảy ra ở đâu, để đến nỗi người ta có thể giải quyết bằng những phương tiện bình thường hay sao? Một cái xác không biết từ đâu, chẳng thèm báo trước, đến nằm chình ình trong một căn phòng, chuyện như thế có lý nào được xử lý hành chính máy móc như cuộc khiếu hiện xảy ra hằng ngày? Không, hắn nghĩ không thể như thế được! Đây là một chuyện cực kỳ quái đản, ngoại lệ, cảnh giác bao nhiêu vẫn chưa đủ. Thu thập đầy đủ chứng cớ để biện hộ cho sự ngay thật của mình dễ hay khó không phải là vấn đề ở đây. Điều quan trọng là hắn phải trưng cái thẻ thông hành đó khi bước ra khỏi cửa, bản thân việc này là một cái bẫy nguy hiểm đối với hắn.

Vừa lúc đó chợt có tiếng ai ho ngoài hành lang. Mặt A. co dúm lại. Hắn đứng không động đậy, chong tai nghe. Gai ốc nổi khắp người, chúng chích vào da thịt và lan ra thành những vòng đồng tâm từ chân lên đầu...Rồi hắn bỗng không nghe thấy gì nữa. Hình như hắn từng trải qua cảnh đó trong quá khứ. Ngôi chung cư này xây cất thế nào mà tiếng động từ những căn hộ khác có thể vọng ra ngoài. Không phải bất cứ mọi tiếng động, chỉ riêng vài thứ ngày thường không thể nghe được như tiếng xé giấy hay tiếng thở dài. Vâng, tiếng động lần này có khi cũng cùng một loại như thế.

Dầu sao A. cũng lấy lại được bình tĩnh, ngẩng cằm lên, miệng mở ra và hít hơi vào thật sâu...Đột nhiên, hắn vội ngậm miệng lại, mắt tránh cái xác chết và nhìn sang chỗ khác như e mình hít phải cái độc khí toát ra từ nó. Giờ thì chưa sao nhưng nếu cái xác có bốc mùi cũng là điều khó lòng tránh khỏi. Thế rồi trong lòng hắn lại dậy lên một mối lo mới: lúc cái xác bắt đầu bốc mùi mình phải tính sao đây? Dù chưa hề có kinh nghiệm ngửi thấy mùi thối rữa, nhưng hắn nghĩ tưởng tượng ra được thì cũng không khó. Chắc chắn phải lợm giọng và khó chịu lắm!

Hắn không thể đứng như trời trồng ở chỗ đó mãi dù có khả năng là bao nguy hiểm đang chờ đón lúc hắn đi qua cửa. Và cái đang hờm sẵn đằng sau cánh cửa đó không phải chỉ vô hại như tiếng ho khúc khắc mơ hồ của ai đâu; ngay xác người trước mặt hắn đây chưa chắc đã chịu nằm yên mãi cho. Ngoài ra, bọn bạn làm cùng sở hay những người hắn không ngờ tới có thể bất chợt đến thăm hắn nữa mới khổ chứ...Đó là chưa nói đến những chuyện xui xẻo hơn...Thêm vào đấy, mùi xú uế của cái xác chết này bắt đầu lan tỏa ra khắp căn buồng như lặng lẽ khoe rằng ta đây cũng đang có mặt. Đối với A., nếu sợ nguy hiểm mà thúc thủ ngồi lại đây thì có nghĩa là hắn đã buông trôi hy vọng thoát thân. Như người bị trăn cuốn mà đầu con trăn lại đang ngậm lấy đuôi của nó, hắn hoàn toàn rơi vào trong cái vòng luẩn quẩn, và để tìm một lối thoát, bắt buộc hắn phải cắt đại thân con vật làm đôi ở một chỗ nào đó.

Nói thì dễ chứ cái đuôi con trăn, không phải muốn cắt là sẽ cắt được. Nhìn qua, tưởng như cắt ở khúc nào cũng chẳng thay đổi bao nhiêu nhưng thực ra không đúng. Cắt ở khúc nào rất quan trọng. Do đó, dù đã một lần hạ quyết tâm, hắn lại đâm ra dùng dằng mất thêm thời giờ để đi tìm giải pháp tốt nhất. Trong khi đó, vòng thân con vật mỗi lúc càng siết chặt.

A. rùng mình. Nhiệt độ bắt đầu hạ. Ánh mặt trời chiều vừa mới chói lòa bên cửa sổ không biết đã tắt ngấm khi nào. Từ bao lâu rồi ấy nhỉ. Độ rày chiều xuống nhanh thật. Mới phút chốc thôi mà hắn ngỡ như đã lâu lắm. A. vội liếc chiếc đồng hồ đeo tay. Đã năm giờ mười. Tại sao ngay lúc ấy mình lại không xem giờ? Mẹ kiếp! Lòng hắn tràn trề hối hận. Đầu óc mụ đi rồi chắc, hình như mình không còn có thể tin tưởng nơi nó.

Chốc nữa thôi, trời sẽ tối hẳn. Nếu không còn phân biệt được vật gì cả, bắt buộc hắn phải bật đèn. Hình ảnh một khung cửa sổ hắt ra ánh sáng khi nhìn từ bên ngoài lướt nhanh qua đầu. Hắn liền cảm thấy có một luồng khí nóng chạy suốt cần cổ. Người nào đó có thể nhận ra ánh đèn này. Khi đã có người thấy hắn rồi thì còn đâu bằng chứng vắng mặt nào dùng để phản biện nữa. Chắc chắn hắn sẽ bị gán cho cái tội danh dấu diếm xác chết ngay lập tức.

Nhưng ngược lại, hắn không thể cứ để căn phòng tối hù. Trước tiên, hắn không biết xoay xở trong bóng đêm. Giả dụ có nghĩ ra được một giải pháp hay, hắn cũng không có điều kiện biến nó thành hành động. Ngoài ra, hắn không thể đoan chắc mình sẽ trăm phần trăm an toàn trong bóng tối. Ở khu chung cu này, một tiếng động dù nhẹ nhất như tiếng ho ban nãy có thể lan ra thật xa một cách không ngờ. Tiếng giày hắn bước, tiếng hắn vặn thìa khóa, tiếng hắn hoay hoay với nắm đấm cửa hay lách cách bên những lá chắn lỗ khóa... biết đâu chẳng được kẻ nào đó in vào trí nhớ, để ý rằng hắn có trở về phòng. Lại nữa, cũng có thể có người tình cờ mục kích việc hắn đang làm. Những người như thế, khi thấy cửa sổ không có ánh đèn, ắt sinh nghi, rồi nếu biết cả về sự tồn tại của xác chết, sẽ kết hợp hai chuyện với nhau và cho trí tưởng tượng tha hồ làm việc.

Dù làm gì đi nữa, tình thế thật bi đát. Giờ đây, cách có thể giúp hắn rứt ra khỏi các xác chết này là dàn cảnh như thể hắn chưa hề trở về nhà bao giờ hoặc làm cho mất tiêu cái xác nầy. Ngoài hai phương án ấy, hắn thấy không có cách khác trừ nhắm mắt, xuôi tay và đem tự sự việc mình khám phá xác chết trong nhà đi trình cảnh sát.

Nhất quyết không trình! Bởi vì đó chính là điều mà kẻ sát nhân rắp tâm xúi hắn làm. Ai biết cái bẫy nào đang được giăng ra? Viên sĩ quan cảnh sát có thể cười nhạt và hỏi trả lại hắn: " Một người không liên can gì với anh à ? Chắc không đấy ?" Khi người ta còn chưa nêu được bằng chứng buộc tội, hắn sẽ mặc kệ họ nói gì thì nói. Tuy nhiên mặt khác, hắn cũng chưa tìm ra phương pháp thanh minh cho mình. Nếu hắn quen biết nạn nhân, chuyện tìm bằng cớ hãy còn tương đối dễ. Chứ bây giờ, trừ phi họ tin vào lời nói của hắn, việc chứng minh xác chết là người mình không hề quen biết đã trở thành một điều vô cùng khó khăn, hầu như vô vọng...

Như thế, thân con trăn càng lúc càng cuộn tròn và bao quanh.

Bóng tối lan dần trong ngõ ngách của căn buồng. Màu da xác chết cũng sậm hẳn lại. A. chợt nhớ ra mình chưa nhìn khuôn mặt của nạn nhân một cách kỹ càng. Nếu muốn nhìn cho kỹ thì còn đợi đến chừng nào. Hắn hầu như tin chắc mình không hề quen biết người này nhưng gương mặt người ta khi chết có thể khác đi một cách đáng kể so với tướng mạo lúc còn sống.

Hắn vẫn do dự chưa vội mó tay vào xác chết. Hắn muốn sao chỉ cần mỗi một động tác mà cũng xong việc. Trước tiên, túm lấy mớ tóc để nâng cái đầu lên và cùng lúc, kéo nó qua bên trái.... Coi bộ cũng thông đấy tuy rằng kết quả là chỉ hơi kéo được cái đầu qua một bên thôi. Cho chắc ăn, hắn bèn tự thử với cái đầu mình. Nói chung có vẻ suôn sẻ nhưng vẫn chưa hoàn toàn. Tốt hơn lấy cả hai tay mà xoay nó. Cái đầu người chết vốn nặng, mình phải vận hết sức. Hắn không muốn đụng tới nó bằng tay trần nên lấy cái khăn mặt treo bên vè cửa sổ bao quanh bàn tay phải. Sau đó sẽ vứt khăn đi. Hắn quì một gối xuống bên cạnh cái xác và chuẩn bị sẳn sàng. Vấn đề là khi cho hai tay xuống rồi, phải làm một phát thật nhanh thật gọn.

Cần cổ người chết cứng dễ sợ. Hắn có thể xoay để lật nó qua một bên nhưng không thể làm xong cái một. Lúc đầu hắn tính nhầm cách phân bố sức lực, quá đà và đánh mất thăng bằng, đến nỗi bổ nhào ngay lên cái xác. Bây giờ xác ấy là một khối cứng nhắc, chắc là hiện tượng co quắp thấy nơi người chết.

A. phải xoay cần cổ cái xác một cách chậm rãi để nó khỏi rít lên như cưỡng lại. Mái tóc người chết ẩm lạnh. Rốt cuộc khuôn mặt anh ta được lật ngửa, hướng về phía hắn. Bộ tịch cái miệng trông như người ăn phải của chua. Đôi mắt hé mở, một chút tròng đen hé lộ sau riềm mi. Gò má lộ rõ, khuôn mặt hơi thưỡi. Chung quanh lỗ mũi có nét như đang làm trò hề. Ngoại trừ nước da hơi lạ lùng, toàn thể khuôn mặt và dáng vẻ trông dễ coi, hiền lành như người đang bối rối vì bị bắt gặp ngủ dậy trễ.

A. chợt muốn rú lên nhưng không thành tiếng và nhảy qua một bên. Cả người hắn run lẩy bẩy và có cảm tưởng mình không kềm hãm nổi các khớp xương lóng tay lóng chân khỏi bật tung ra bất cứ lúc nào. Lúng túng, hắn rảy cái khăn mặt đang bao bàn tay mặt, nhắm khuôn mặt xác chết và thiếu điều vứt mạnh lên đó. Tuy không trọn vẹn, cái khăn cũng đã phủ gần hết nó.

Nỗi sợ hãi của hắn không vì một lý do nào mới mẻ. Chắc chắn khuôn mặt đó không có chi tiết nào để giúp hắn nhận ra là ai. Hình như sự thiếu óc tưởng tượng của hắn đang bị người đó phục thù chút chơi. Lý do là hắn cũng từng nghĩ khuôn mặt kẻ chết không có một nét có cá tính nào để mà mong đợi. Hắn không cưỡng nổi để khỏi buông ra những tiếng rên rỉ từng hồi một rồi chập choạng bước đi vòng quanh cái đầu của xác chết, băng ngang căn phòng rồi gục mình trên mặt bàn. Hai tay chống xuống để giữ thân hình, hắn đưa mấy ngón tay xoa nắn thái dương.

Hắn mải miết xoa nắn hai bên trán như thế một đỗi lâu. Rồi bất chợt, hắn nhỏm người dậy và biết mình phải làm gì. Tất cả những gì cần làm là đưa cái xác ra khỏi chốn này. Không ai biết nó đang nằm đây ngoại trừ hắn và phạm nhân, người đã đến đặt nó. Nếu như có ai khác biết được, chắc họ đã không giữ im lặng lâu la như thế này mà đã thừa cơ hội làm cho mọi sự vỡ lở ra rồi. Bây giờ nếu hắn thủ tiêu được cái xác thì dĩ nhiên, phạm nhân thực sự sẽ không dại gì lên tiếng phản đối mà chính hắn cũng sẽ thoát cảnh bị nghi ngờ.

Điều duy nhất hắn cần là một giải pháp có tính quyết định như việc chặt cái thân con trăn làm đôi. Nếu dời được xác chết đi, hắn không những thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn mình đang kẹt trong đó mà còn xua được nỗi sợ hãi canh cánh bên lòng khi đứng trước cánh cửa. Khi cắt một chỗ ở vòng xoắn trên thân con trăn, nó sẽ nới lỏng ra. Mâu thuẫn về cánh cửa cũng thế, nó sẽ tự dưng biến mất. Ít nhất, có thể hiểu như vậy! Cần gì suy nghĩ rối ren. Tuy hắn cho rằng mình đã tính hết mọi sự nhưng trên thực tế, phải chăng hắn chưa hề tính toán được gì cả! Sự thể bây giờ đã đổi khác. Tình thế có thể cứu vãn nếu hắn biết dung hợp khả năng suy luận với phán đoán cụ thể. Chuyện dời cái xác không phải là một hành động phi lý sinh ra từ hoàn cảnh tuyệt vọng. Nó có cơ sở vững chắc và có nhiều lý do xác đáng để biện minh.

Việc thử đứng ở lập trường của một người khác để phán đoán cũng là điều hữu ích đối với hắn. Đặc biệt là khi dời cái xác, hắn sẽ có lợi hơn khi ở trong tư thế người đã đem nó đến đặt ở chỗ này. Tìm thấy một xác chết vô danh ngay giữa nhà mình, vấn đề vì quá giản dị nên việc giải quyết mới thành khó khăn. Tuy vậy, nhờ cơ hội suy nghĩ về những câu hỏi mà phạm nhân thường tự đặt cho chính y mà A. có thể tìm ra nhiều cách thức đánh giá tình hình. Nói ví dụ, phạm nhân có xác suất là người ở ngay trong khu chung cư này. Chuyện tin được bởi vì cái xác đã được đưa tới đây giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng hạn trong khoảng 10 tiếng đồng hồ mà A. vắng nhà. Có ai vác cái xác như thế này đi xuyên qua thành phố giữa ban ngày đâu. Dẫu có cho rằng nó đã được di chuyển nội trong khuôn khổ khu chung cư thôi thì cũng gọi là thỏa đáng.

Dĩ nhiên, chưa có thể đoan chắc phạm nhân có chủ ý chọn căn buồng của hắn làm nơi đặt cái xác hay y chỉ tiện đâu vứt đấy. Dầu sao, có lẽ hàng xóm của hắn, nhiều người biết là ban ngày dân trong chung cư không mấy ai có nhà và ổ khóa căn buồng hắn dù được khóa cũng chẳng khác gì bỏ ngỏ. Nhưng nói gì thì nói, không chỉ riêng căn buồng của hắn mới ở trong tình trạng như thế. Trong số mười lăm căn buồng ở tầng trệt lẫn tầng hai, có biết bao nhiêu căn ở trong tình trạng ấy. Hơn nữa, căn hộ của hắn vì nằm ngay đầu cầu thang đi lên tầng hai khiến cho nó trở thành đối tượng lựa chọn hết sức lý tưởng nếu phạm nhân là người sống ở tầng trệt. Đây chỉ là một sự phỏng đoán có hơi quá lố nhưng biết đâu không chứa đựng phần nào sự thực.

Điều hắn chắc mẫm là cả cái xác lẫn kẻ giết người đều không thể nào có mối quan hệ gì với hắn. Về mặt lý thuyết, có thể chấp nhận rằng người nào đó đã mưu đồ làm khốn hắn và cái xác chết chẳng qua một phương tiện để thực hiện. Thế nhưng sau khi thử điểm mặt một vòng những người thân thuộc, hắn không thấy ai có thể hành động đáng sợ như vậy. Hắn cũng không tài nào nhớ mình đã làm gì để chuốc lấy hận thù với người khác cả. Có thể kẻ giết người chủ tâm nhắm một người không quen biết. Một người tuyệt đối vô can càng tốt. Chứ không có lý do nào khác để người bị mắc vào tròng lại là hắn được.

Hắn không tìm ra điều gì có thể ngăn trở kế hoạch hắn di chuyển xác chết. Có lẽ là không. Nói có lẽ bởi vì trừ phi phạm nhân đã khéo dàn cảnh làm người ta nghĩ hắn có dính dáng với xác chết. Điều này đâu phải hắn chưa từng nghĩ tới. Nếu mình là thủ phạm, A. nghĩ, nhất định mình đã tính đến mọi diễn tiến của kế hoạch ngay cả khả năng này từ đầu. Thủ phạm có nhiều cách thức. Ví dụ y có thể làm cho người gác dan trong chung cư đinh ninh là người tên A. có đem một ông khách về ngủ qua đêm. Hay là từ ngoài y vờ gọi điện thoại về chung cư nhờ kiếm mình. Rồi khi người gác dan nói ông A. đó không có nhà thì hắn sẽ nói với một giọng nạt nộ hăm he kiểu xã hội đen là mình nhất định đang nằm dài ở trong buồng và trách mình đã không tôn trọng giao kèo. Tự nhiên, người gác dan sẽ tin chắc anh chàng này đây là đồng bọn của mình.

Đứng vào địa vị của thủ phạm, A. nghĩ mình phải xử sự như vậy, nghĩa là chỉ cần gây được ấn tượng mạnh nhưng đừng có lộ diện.

Tuy nhiên nước cờ nói trên chỉ gây bất lợi cho hắn khi nào xác chết còn nằm trong phòng. Nếu việc đó không xảy ra, ngay từ đầu đã không có chuyện. Còn như khi người ta lục soát từng nhà một trong khu chung cư thì không có người thuê nhà nào tránh khỏi sự nghi ngờ và kẻ nào vướng cái xác chết trong buồng mình sẽ là người bị buộc tội. Cho dù người ấy có quả quyết mình vô can, việc cái xác nằm giữa nhà ông hay bà ta là chứng cứ sờ sờ khó lòng chối cãi. Lúc ấy, một lần nữa, ông hay bà đó sẽ được yêu cầu phải chứng minh được là mình không liên can gì với xác chết và mình không có mặt lúc án mạng xãy ra. Nhưng đâu là cách giản dị nhất và an toàn nhất để tống khứ xác chết? An toàn hơn cả việc đào cái hố và chôn nó xuống?

Giờ đây, vấn đề cụ thể là phải chọn căn buồng nào để chuyển cái xác này qua? A. đứng tựa lưng vào thành cửa sổ, nhìn trừng trừng cánh cửa nằm bên kia cái xác chết, làm như xuyên qua cánh cửa, hắn có thể đánh một vòng đến từng ngõ ngách của khu chung cư. Thế nhưng hắn thấy bên ngoài sao mà ồn ào hơn dự tưởng. Bây giờ là sáu giờ kém năm chiều. Hầu hết dân cư trong khu chung cư là người đi làm, dù một mình hay cả hai vợ chồng, nên họ ít khi đi ra đi vào. Tuy vậy, đây là khoảng thời gian trong ngày bất tiện cho hắn nhất. Dĩ nhiên, tiếng động và sự chộn rộn luôn luôn là tấm phên che đậy nên ngược lại, hắn có thể đem những điều kiện tự nhiên ấy phục vụ cho mục đích của mình. Việc di chuyển xác chết sẽ êm thắm nếu hắn biết phối hợp tiếng động bắt buộc phải gây ra với những nhịp chân vừa mới bước qua. Ít nhất, hắn không cần phải lo lắng mỗi khi mở hoặc đóng cửa.

A. đã có sẵn một chương trình để di chuyển xác chết. Hắn sẽ dùng cái mẹo học được trong một cuốn phim và hắn rất thán phục. Nghĩa là hắn sẽ làm như đang đỡ một người say. Thường ngày, A. ít khi vừa đi vừa nắm tay ai cho nên việc tựa kề bên vai một thân thể là chuyện cực chẳng đã, nhưng thôi, đây không còn là lúc kén cá chọn canh. Hơn nữa, gói cái thây trong một tấm chăn bông dấu dấu diếm diếm chỉ tổ khêu gợi sự tò mò của thiên hạ. Hắn phải biết lợi dụng cái tri thức thông thường của người đời là hễ xác chết thì phải dấu biến, mà làm ngược lại. Có thể đấy là nguyên tắc được thủ phạm áp dụng khi đem xác chết bỏ vào căn phòng một người hoàn toàn vô can. Vật nào dấu đều có ngày bị khám phá ra. Nếu bề gì cũng bị lộ thì chi bằng từ đầu, kiếm cách kiểm soát để cho sự khám phá đó đi theo chiều hướng thuận lợi cho mình.

Vào giờ này, đem xác chết xuống tầng dưới là một việc mạo hiểm. Cho dù có khéo ngụy trang đến đâu, khi thực hành, chưa chắc tránh nổi sự dòm ngó. Hơn nữa, thường thường khi di chuyển, người ta thường đi từ phía cổng ngoài để tiến về bên trong chung cư. Nghĩa là, giờ đây phải là lúc hắn vừa mới về đến nhà. Nếu bây giờ hành động ngược lại thì sẽ không giống ai, thiếu tự nhiên, gây suy nghĩ cho những kẻ nhận ra điều đó và đánh thức sự tò mò không lành mạnh nơi họ. Sau khi đánh giá tình hình cụ thể, hắn thấy mục tiêu kế hoạch của mình chỉ còn là một trong những căn buồng nằm ở tầng hai chớ chả đâu khác.

Chỗ lý tưởng nhất để dấu cái xác có lẽ là một trong ba căn hộ nằm xa hơn cái buồng của hắn so sánh với vị trí cầu thang đi lên. May thay, ba căn đó ban ngày không mấy khi có ai ở nhà. Dĩ nhiên hắn nào biết hôm nay giờ này những người sống trong đó đang làm gì ở đâu.Vì nhớ là chưa nghe có tiếng giày, hắn đồ chừng họ vẫn chưa về. Căn hộ sát bên cạnh hắn nhất là của một anh chàng độc thân to lớn, rậm râu, có khuôn mặt tròn quay và cái tật hay chậc lưỡi, tiếng chậc to đến nổi đứng bên này tường hãy còn nghe. Anh ta làm nghề chào hàng cho một tiệm chuyên về máy hàn ống, và khi uống rượu say mèm trở về nhà buổi tối thì hễ càng say anh chậc lưỡi càng nhiều. Trừ hai ba bận tình cờ gặp nhau ở nhà tắm công cộng, A. không bao giờ trao đổi với anh ta lấy một câu.

Sau căn đó là buồng một anh chàng còng lưng với đường râu quai nón dưỡng thật dài hai bên má. Anh ta sinh sống làm sao, A. cũng chẳng biết nhưng cứ mỗi khi A. đi ngang phòng, lúc nào hắn cũng thấy anh ta đang nghêu ngao hát mấy khúc như âm nhạc cải cách. Anh này đi về không có giờ giấc gì cả; có khi anh ta vội vội vàng vàng hết ra lại vào, có khi im hơi lặng tiếng cả mấy ngày liền. Đôi lúc anh gây ồn ào bằng cách vặn ra-di-ô to hết nấc như thể đang nổi cơn khùng, nhưng khi có ai chịu không nổi, đến trước cửa để cằn nhằn thì thấy trong buồng trống trơn.

Căn hộ thứ ba nằm ở cuối hành lang là của một cặp vợ chồng. Khổ một nỗi là A. hầu như không biết gì về họ cả cho dù hắn cũng chẳng cần gì thông tin để có thể thực thi kế hoạch. Chỉ cần biết họ là người không quen biết, hắn đã thỏa mãn. Thật vậy, càng không quen biết, càng dễ hành động...

Thế nhưng khi nghĩ rằng cặp vợ chồng có thể hốt hoảng khi khám phá ra cái xác chết được vác vào để trong nhà, A. hơi tội nghiệp họ. Đã là vợ chồng với nhau, mỗi người đều có trách nhiệm trước những lo âu của người khác, do đó sự đau khổ và bối rối của họ có thể nhân gấp đôi. Không đủ nghị lực ngồi đó bình tĩnh chờ đợi cuộc điều tra của nhân viên cảnh sát sẽ xảy ra, họ có thể chạy ra khỏi cửa và như thế, rơi đúng ngay vào cái bẫy thủ phạm đã giăng ra... A. tự nhủ : "Điều đó không phải lỗi tôi gây ra. Tôi là kẻ trong cùng hoàn cảnh như mấy người nhưng đã khôn khéo nghĩ được cách thoát thân đó thôi. Mỗi người phải tự lực nghiên cứu để tìm ra một giải pháp cho mình chứ! Còn có biết bao nhiêu là buồng của những người không quen biết kia kìa!". Nghĩ tới chỗ nầy, hắn thấy người đem cái xác bỏ vào nhà hắn có thể là nạn nhân của một hoàn cảnh tương tự khi có ai khác đã chở cái xác đặt ngay nhà họ! Biết đâu cái xác này chẳng được chuyển hết căn hộ này sang căn hộ khác như chạy lòng vòng theo một chu trình quái đản! Ý nghĩ kỳ cục này làm cho hắn nghiến chặt hàm răng lại. "Thôi nghĩ sâu xa chi cho mệt xác! Mình chỉ làm như người ta từng làm cho mình trước đây thôi". Tìm ra được điều này, nỗi buồn phát xuất từ mặc cảm phạm tội của hắn chợt như tan biến.

Hắn sẽ hành động từng bước một như thế này. Trước tiên, dĩ nhiên là hắn phải biết trước chắc chắn những căn hộ mục tiêu của hắn hiện không có ai, sau đó mới mở khóa để sẵn. Theo kinh nghiệm đã có với ổ khóa nhà mình, hắn tự tin sẽ mở chúng trót lọt dù, bằng cách này hay cách khác. Ít nhất hắn phải mở được một trong ba căn. Hắn sẽ lần lượt thử cả ba xem sao. Tùy theo kết quả dễ hay khó mở, hắn sẽ quyết định dùng căn nào. Thế rồi hắn sẽ trở lại phòng mình và từ cửa sổ, kiểm soát động tĩnh ngoài đường phố. Hắn thử tính toán mình cần bao nhiêu thời giờ tất cả? Kể từ khi có bóng người lọt vào tầm mắt của hắn cho đến khi người ấy đi vào bên trong khu chung cư và đến chân cầu thang, phải mất bao nhiêu lâu? Hắn thử dùng mắt đo sơ đoạn đường: cần ba mươi lăm giây đồng hồ. Nói khác đi, nếu lúc bắt đầu kế hoạch mà hắn không thấy có ai, hắn phải thu vén mọi việc trong vòng ba mươi lăm giây còn an toàn này. Hắn sẽ xốc vai xác chết và bước ngay ra ngoài hành lang, để cánh cửa buồng mình bỏ ngỏ. Cách đó không những giúp hắn tiết kiệm được vài giây mà còn dùng nó như tấm bình phong để che đậy việc làm. Đó là lợi điểm khi chọn một trong một trong những căn hộ ở cuối hành lang. Hắn nhẩm lại trong đầu những giai đoạn kế tiếp: đẩy cái xác vào trong căn hộ mục tiêu, khóa cửa lại như cũ rồi bước lui về phòng. Hắn thử nhớ ra từng động tác một rồi thực tập lại trong buồng mình. Tính ra phải mất đúng hai mươi tư giây. Còn thừa những trên mười giây. Nhỡ trường hợp xác chết có đánh rơi giày hay có một sự cố tương tự, hắn hãy còn đủ thời giờ để lượm lên.

Dần dần hắn không còn cảm thấy ấn tượng kinh hoàng trước xác chết nữa tuy vẫn không thể nào xem nó như một người bạn đường lý thú. Thật vậy, cái anh chàng ngu ngốc này không thể nào thương được. Anh ta gây bao phiền toái, đang ở chỗ này lại di chuyển ra chỗ khác, làm khốn khổ cả những người mà anh ta chưa hề quen biết. Nhưng thôi, ta chỉ còn phải kiên nhẫn thêm chút nữa, hắn nghĩ. Giờ đây, xác chết bắt đầu trở thành cái bóng xạm đen và tưởng chừng đã mất hết trọng lượng.

A. lấy cái chìa khóa phòng mình ra khỏi túi. Hắn tung lên trời rồi chụp lấy, tung hứng mấy lần, xoa xoa vuốt vuốt nó trong lòng bàn tay. Còn mười phút nữa... Hắn nghĩ chỉ còn độ mười phút nữa thôi. Lúc đó trời sẽ tối, muốn đọc báo cũng không thấy mặt chữ nên dù có lười đến đâu thì người ta cũng phải đứng dậy bật đèn. Như thế, khi không thấy có ánh đèn lọt qua ngạch cửa, biết chắc mọi người đều vắng nhà, hắn sẽ bắt tay vào việc...

Hắn đưa một điếu thuốc lên môi và đi kiếm que diêm.

Thế nhưng khi nghĩ tới câu chuyện này, hắn thấy buồn cười không chịu được. Tống khứ một cái xác chết ra khỏi nhà đâu có gì thay đổi việc giữa hắn và cái xác có mối liên hệ nào hay không. Ừ, cái mà luật pháp có thể trách cứ không phải là mối quan hệ giữa hắn và xác chết mà là sự vụng về của hắn khi để lâm vào một tình huống buộc phải chứng minh rằng mình không liên can gì đến nó. Nói cho cùng, luật lệ là văn bản và cưỡng bách nhưng nếu biết giải thích với thiện chí thì trong đó cũng còn có tình người. Tóm lại, con người thường vẫn hưởng tự do miễn đừng hành động quá vụng về.

Dĩ nhiên, con người nếu hành động vụng về đều có thể gặp nguy hiểm mà không ý thức. Nhưng đó có nhất thiết là điều đáng trách móc không? Kế hoạch di chuyển xác chết này có thể chỉ một trò diễu dở nếu người mà hắn sắp đem xác chết thảy vào nhà lại là chính cái người đã đem xác chết đến đặt giữa nhà hắn trước tiên. Đây không phải là chỗ mà pháp luật tỏ ra công bình vô tư đó sao! Khỗ nổi, cái ý nghĩ độc đáo này chẳng gỡ rối cho hắn được tí nào. Ôi chao, có gì đây? Cái gì làm lồng ngực mình đau nhói lạ lùng?

Hắn đưa tay lần mò trên mặt bàn, cố gắng lục lọi giữa đống tạp chí bừa bãi, nhấc cả cái khay nhôm chất đầy bát đĩa đựng đồ ăn thừa, nhưng một que diêm cũng không thấy. Mẹ kiếp! Hắn nhớ rành rành mình có để diêm ở đây mà. Hay là cái xác đã cuổm nó nhét vào trong túi rồi?

Bất giác trong đầu hắn lóe ra một tia sáng. Cái giả thuyết buồn cười là xác chết đã cuổm mấy cây diêm của hắn dấu đi kết hợp với nhận xét xác chết như đã được thủ phạm di chuyển lòng vòng, đã trở thành một tiếng còi báo động vô cùng mạnh mẽ và kinh hãi. Phải rồi, bằng chứng cụ thể làm gì mà không có. Tại sao mẹo vặt như thế mà bây giờ mình mới nghĩ ra? Thủ phạm chỉ cần khéo léo sắp xếp một chút thì việc chận cho xác chết hết chạy vòng tròn đâu có khó. Ví dụ lấy cái hộp diêm trên bàn nhà hắn và dúi vào túi xác chết. Cái hộp diêm đặc biệt đó lấy ở "Ba Con Mèo", tên một tiệm cà phê hắn thích lui tới. Hình in trên hộp hơi dễ đập vào mắt. Ba con mèo có vằn đen và xanh lá cây trên một nền vàng kim, xếp cạnh nhau như một xâu cá khô. Hình như trên hộp, hắn có ngoáy một hai chữ để ghi nhớ điều gì đó. Cho dù không hề ghi chép gì chăng nữa, hắn khó thể chối được là hộp diêm đó không liên can gì tới mình. Sao mà mình lại bất cẩn đến thế! Nói tóm lại, cái khó khăn để hắn chứng tỏ sự trong trắng của mình không chỉ nằm ở phạm vi lý thuyết. Và hộp diêm chỉ là một trong những bằng chứng cụ thể. Nó còn có thể là tấm danh thiếp, tấm ảnh hay sợi tóc của hắn vướng chung quanh ngón tay xác chết chẳng hạn. Tất cả mọi đồ vật tản mát trong căn phòng này đều có thể đóng vai trò tang chứng đó.

Điếu thuốc lá rơi khỏi môi hắn. Hắn để mặc cho rơi. Chưa bao giờ hắn để ý là một điếu thuốc cũng có sức nặng như lúc này. Như dò hỏi, hắn quay lưng dòm ra ngoài cửa sổ nhưng không còn tìm đâu ra vầng ánh sáng mà hắn chờ đợi. Chung quanh góc cạnh mỗi vật chỉ còn một quầng trong trong mờ mờ bao bọc. Để gỡ được từ xác chết bất kỳ vật gì có thể dùng làm bằng chứng lập được mối liên hệ giữa đôi bên, hắn bắt buộc bật đèn lên, và như thế, lại tạo ra thêm một chứng cứ rõ ràng là hắn có mặt trong nhà vào giờ đó....

Nếu làm được thì hắn đã muốn thanh toán cái xác chết trước khi bật đèn lên. Dĩ nhiên hắn chưa hề từ bỏ ý định di chuyển cái xác. Hắn định bụng tiếp tục tiến hành nó ngay sau khi kiểm điểm là trên cái xác hoàn toàn không còn cái gì có thể dùng làm bằng chứng buộc tội hắn nữa. Ngay khi loại trừ tất cả những khả năng buộc tội đang dính trên xác chết, hắn còn phải giải quyết vấn đề là làm sao chứng tỏ hắn chả có liên hệ gì với cái xác. Một khi di chuyển được nó đến một chỗ nào rồi, hắn sẽ bình tâm bật đèn lên. Thật ra, để đèn sáng còn tốt hơn vì nó chứng tỏ được là hắn vô tội. Thế nhưng nếu việc lục soát cái chết là điều kiện tiên quyết để kế hoạch dời xác của hắn thành công một cách trọn vẹn và ánh sáng cần cho mục đích đó, hắn thấy mình không có cách nào khác hơn là tin tưởng vào khả năng thành công của mình và xúc tiến bằng cách bật đèn ngay bây giờ. Thây kệ những gì có thể xãy ra nếu mình vẫn không rời khỏi cái xác, hắn bật đèn lên.

Ánh sáng chói chang như thể gây chấn động đối với hắn làm hắn bắt đầu đổ mồ hôi. Thần kinh hắn đã hết chịu nổi? Không gian chung quanh như thu hẹp lại và tất cả mọi đồ vật bức bách hắn đến ngột ngạt, đòi lập lại mối liên hệ cũ với hắn. Hơn hết, cái xác tươi mới nằm ra đó cũng như muốn lên tiếng là có tôi đây. Những bức tường và đồ vật quen thuộc trong phòng thì không nói gì chứ đến cái xác kia cũng đòi hỏi như vậy thì hắn không thể chấp nhận được. Nhưng đã lỡ bật đèn rồi. Cái xác giống một tảng đá bất di bất dịch nằm giữa con suối như để làm nổi bật dòng nước. Thế rồi dòng thời gian bắt đầu cuồn cuộn chảy chung quanh cái xác, từ từ nhưng chắc chắn, đã lôi kéo A. đến gần nó hơn.

Hai cái túi áo khoác, bên mặt lẫn bên trái, đều nằm khuất phía dưới xác chết. Mấy túi quần cũng vậy, khó mà khám xét khi tử thi trong tư thế này. Không cách nào khác hơn là lật nó lên để người chết nằm ngữa mặt ra. Rồi hắn ước lượng phải dùng đến bao nhiêu sức cho việc nâng lên đặt xuống, có bao nhiêu lực cản, tính toán vị trí, phương hướng và kết quả có thể đạt được. Hắn muốn tiếp xúc với xác chết càng ít chừng nào càng tốt chừng nấy. Sao không thử đặt cái cán chổi ở dưới làm đòn để bẩy cái xác nhỉ? ...Hay là bước qua phía bên kia các xác rồi nắm lấy vè áo mà kéo.... Cứ xem độ cứng của cái cần cổ người chết khi nãy, bây giờ cánh tay mặt đang duỗi ra chắc không thua gì đá. Hắn có thể lật xác chết lên dễ dàng bằng cách kéo mỗi cái cổ tay thôi. Nhưng nhìn cái cổ tay đó, đủ biết nó đã chết từ lâu rồi. Sự chết ngưng tụ tại đây còn rõ rệt hơn là trên khuôn mặt. A. lo ngại rằng nếu vô ý sờ phải chỗ này, hắn sẽ bị nhiễm cái chết tức khắc. Hắn mới lấy mấy trang giấy một tạp chí đang mở giở chừng kẹp hai bên cổ tay người chết, nắm lấy nó và kéo. Thế nhưng ngược với mọi dự đoán của A., cả cổ tay lẫn khuỷu tay đều lung lay. Thì ra cánh tay này đã bị bẻ quặt một cách khác thường ngay lúc đầu nên bây giờ nó vẫn cong vòng theo một góc cạnh lạ lùng.... Xương cánh tay chắc đã gãy từ lâu. Cái xương gãy nơi người chết thường dễ làm ghê tởm hơn cùng một chấn thương nơi người còn sống. Chẳng lẽ khi gãy rồi thì gân xương không còn cứng lại được sao? Hoặc là có chuyện gì khác xảy ra cho nó?

Dù sao, hắn phải thu xếp cái việc lo lắng đến muốn ói này càng sớm càng tốt. Hắn nhặt chiếc giày lăn lóc trên thềm xi măng ở cạnh lối vào và mắc nó vào bàn chân mặt của mình. Có thể hơi thô bạo nhưng hắn dự định sẽ lật ngược cái xác lên bằng cách đá hất vào thân mình người chết. Hắn không ngừng vận sức ẩy cái xác bằng bàn chân; trước tiên là phần trên thân người, sau đến mông và đôi chân lần lượt đổ qua một bên cái bịch và mặt ngữa lên trên. Tất cả đều đúng theo dự định duy chỉ có cái áo khoác màu xanh của xác chết đã bị vấy một vệt trắng do chiếc dày của hắn in lên. Một luồng khí lạnh lan khắp châu thân và cảm thấy việc mình vừa làm giống như một điềm gở mà giờ đây có hối cũng không kịp. Hắn vội vã đi tìm cái bàn chải quần áo để chà xát cho sạch vết bẩn. May mắn là nó sạch đi ngay và nếu người nào không để ý, sẽ khó lòng nhận ra được.

Thế nhưng cái vết giày chẳng phải là mối lo lớn cho lắm nếu so sánh với chuyện xảy ra sau đó. Trong khóe mắt hắn chợt bắt gặp một vệt màu nâu nhạt, mà ban đầu hắn ngỡ là miếng giấy gói đồ, đang dính vào dưới cổ áo của người chết. Kéo cái cổ áo sơ-mi của nạn nhân ra để nhìn cho rõ, hắn nhận ra chiếc áo ấy đã bị rách và cái mà hắn vừa nhìn thấy là mảnh vải đã bị rách ra. Cái chấm nâu là một vệt máu khô đã phai màu.

Hành động như phản xạ, hắn nhìn xuống chân mình, nơi cái thây vừa nằm sấp ngực mới đây thôi. Quả như hắn đã tiên liệu, có một vệt máu màu sét rỉ to cỡ một đồng bạc nhôm một yên. Hình thù của nó không được cân đối, giống như một mụn ghẻ với một cái vè óng ánh bao quanh và một nốt đỏ hơi trong chính giữa. Có lẽ một vài giọt máu đã thấm qua lớp vải chỗ áo bị rách và đọng khô lại trên mặt sàn.

Phản ứng của hắn trước cú sốc không dữ dằn như hắn tưởng tượng. Nó chỉ là một nỗi kinh ngạc làm tê liệt tứ chi. Sau một lúc, hắn cúi xuống nhặt cái khăn lau mặt mới rơi xuống sàn khi hẳn lật ngửa cái xác và bắt đầu lau chùi vết máu một cách máy móc. Hắn nhổ nước bọt lên vết bẩn và chùi thêm một hồi nữa. Chẳng mấy lúc mặt sàn lát chiếu đã sạch nhưng mấy chỗ máu thấm len vào từng thớ chiếu nhỏ vẫn không đi hết được. Hắn bèn bước về phía bồn rửa mặt để nhúng ướt cái khăn. Trên lối đi, hắn lơ đãng nhìn khuôn mặt xác chết đang nằm ra đó. Nó có lấm tấm mấy đốm thâm thâm ở phía trái tức là cái phía bây giờ ngửa lên nhưng hồi nãy hãy còn úp sấp. Nhưng coi nào, lần đầu khi hắn có dịp nhìn nó thì những đốm này chỉ tập trung ở vùng chung quanh mũi và phía dưới cằm. Có lẽ đây là dấu hiệu của hiện tượng người ta gọi là "vết bầm dập của xác chết". Có phải những cái đốm này cũng thay đổi vị trí theo trọng lực của quả đất mỗi khi người ta đổi chỗ xác chết? Thành ra, gọi là cái xác chứ nó không còn gì khác hơn là miếng bọt biển ướt đẫm một chất nước có màu.

Chiếc khăn lau ẩm ướt không giúp hắn bao nhiêu để tẩy cho được vết bẩn đã bám vào thớ chiếu xanh nhạt. Phải chi có được một thứ dung dịch nào dễ bốc hơi hơn, ét xăng hộp quẹt máy, cồn hay thuốc tẩy mực. Trong khi chờ đợi, thử tẩy bằng xà phòng xem sao! Đó là phương pháp hắn áp dụng khi nhỡ bị đứt da chảy máu lúc cạo râu và thấy khá có hiệu quả. Trước hết, hắn bôi ít xà phòng cạo râu chung quanh vết máu đọng, rồi đập đập lên đó với một miếng vải thật ướt cho đến khi bọt dậy. Vắt khăn, lau hai ba lần như vậy thì quả là vệt máu đã biến mất, nếu không nhìn kỹ, khó lòng nhận ra. Khốn nỗi, tấm chiếu chỗ đó vì được chà xát kỹ lưỡng nên cũng sạch bong.

Kiểu đó, hắn không thể đánh lừa ai được. Ngay cả một người vô tâm nhất cũng nhìn thấy chỗ trắng đó trên mặt chiếu. Nếu một mai hắn có bị tình nghi thì đây là chứng cớ sẽ làm tiêu ma đời hắn. Nghe nói có một loại thí nghiệm hóa học mà khi dùng nó, người ta có thể khám phá ra cả những vệt máu lờ mờ nhất. Người kiểm tra chỉ cần nhỏ những giọt hóa chất ấy lên, vết máu sẽ phản ứng và phát ra một màu xanh huỳnh quang.

Tóm lại, xác chết làm như muốn lợi dụng cái vệt máu khô bé xíu này để cài then cố thủ trong căn phòng. Dự tính di chuyển cái xác bây giờ đã mất hết ý nghĩa. Trước sau gì vết máu cũng sẽ bị khám phá dù xác chết đã được khuâng đi đâu chăng nữa. Một khi cái xác bị phát hiện, người ta sẽ đến từng nhà điều tra và nhân viên hình sự sẽ xem xét từng căn hộ một, bất luận dân cư trong đó là đối tượng tình nghi hay không. Dấu tẩy xóa mới đây trên tấm chiếu mặt sàn này chắc chắn làm họ mừng hết lớn. A. sẽ hết sức khốn đốn, không thể che đậy nó bằng bất cứ món đồ nào trong nhà vì cái vết máu khả nghi ấy nằm giữa lối ra vào!

Hắn nghĩ bụng không biết cái vết máu này đang chuẩn bị chuyện chi để tiết lộ cho nhân viên công lực khi họ khám phá ra nó đây? Chắc chắn là cuộc điều tra sẽ theo đúng bài bản. Trước hết, những nhà điều tra sẽ so sánh vệt máu đó với các loại máu khác và đưa ra mọi thứ giả thuyết. Sau đó họ sẽ chú ý đến vấn đề giờ giấc. Lúc ấy, vai trò của vệt máu mà A. muốn tẩy xóa sẽ là yếu tố quyết định bởi vì nó chứng minh được rằng lúc xác chết nằm trong buồng hắn, vết thương hãy còn mới toanh, nói cách khác, chỉ trước hay sau thời điểm nạn nhân chết một lúc. Khám phá đó đủ gây khó khăn để cuối cùng bắt chẹt hắn. Vệt máu nhất định sẽ bám sát, không để hắn thoát.

Như người không rửa được thật sạch cáu ghét dính vào tay, cứ phải cố rửa đi rửa lại cho kỳ sạch, hình ảnh vệt máu làm hắn quá dao động nên A. chẳng còn nghĩ ngợi, tay cứ thế lục soát đồ vật trong túi nạn nhân xem anh ta mang theo những gì. Dẫu bây giờ tình thế hầu như đã đến chỗ tuyệt vọng, hắn vẫn không thể chấp nhận việc thủ phạm tạo ra một bằng chứng dối trá nhưng đủ nguy hiểm để buộc tội mình. Hơn nữa, ngay một kẻ sắp tự tử, có chết cũng phải thu vén mọi thứ chung quanh cái đã chứ!

Tuy nhiên túi nào túi nấy trống rỗng. Không có tấm danh thiếp của A. , không có hộp diêm quán "Ba Con Mèo". Không mảy may một vật gì có thể gợi ý là có mối liên hệ giữa A. và xác chết. Không một cắc bạc, một chiếc khăn tay, một que diêm rời, không cả một mẩu giấy vụn với vài chữ ghi số điện thoại, nghĩa là những vật mà ta thường thấy trong túi quần mọi người. Cái xác trông sạch sẽ như mới vừa đem tự tiệm giặt ủi về hay vừa được ai dùng máy hút bụi đi xong một đường. Tất cả đều dược chuẩn bị kỹ càng, ngay cả nhãn hiệu của cái áo khoác cũng đã được cắt gỡ đi. Không còn một bằng chứng gì giúp hắn biết tông tích người chết, ngoại trừ mấy hạt cát lớn còn dính vào dưới đế giày và trong lai quần. Bộ quần áo hắn mặc cũng chỉ là loại may sẵn bán hàng loạt.

Tình hình không khá ra nhưng cũng chẳng xấu đi. Rốt cục, A. có tiến lên cũng lại như quay về chỗ cũ và trong một ý nghĩa nào đó, hắn đã dự tưởng mọi sự rồi sẽ xảy ra như thế. Thủ phạm láu cá thật, không để lại bằng chứng như kiểu này còn hay hơn là vụng về đưa ra những bằng chứng giả mạo. Chỉ cần không có vệt máu khốn kiếp này, mọi sự đã trôi chảy êm xuôi cho mình rồi!...Thật tình, thủ phạm đâu cần phải tạo làm chi chứng cớ nào khác...

Có tiếng chân nhẹ nhàng như dè dặt. Ai đó đang bước lên thang gác. Tiếng giày cao gót, không vững chãi cho lắm. Nàng ta hay sao?...Không, hôm nay mới thứ tư mà!...Ai vậy nhỉ? Tại sao cô ấy lại đến nhằm ngày thứ tư?...Hắn lật đật kéo cái xác đẩy vào dưới gầm giường thật nhanh, nhanh đến độ chính hắn cũng không ngờ...Cái bô vệ sinh bị xác chết đẩy va đổ vào tường kêu thành tiếng. Tiếng bước ngắn và chập choạng đi ngang qua trước buồng hắn rồi có tiếng tra chìa khóa nhẹ nhàng vào cánh cửa căn hộ cuối hành lang.

Hắn thở hào hển, thè lưỡi liếm môi nhưng dù làm mấy lần, môi vẫn còn khô. Không những môi hắn khô mà còn phồng và nẻ. Bây giờ, người đàn bà hàng xóm đã về, hắn có hơi bận tâm cho khả năng thành công của kế hoạch mình một chút. Nhưng điều đó không khiến hắn phải hấp tấp bởi vì trong đầu hãy còn lắm chước. Nếu thấy sự có mặt kia gây cản trở, hắn sẽ dụ bà ta ra khỏi phòng bằng cách gọi, ví dụ, từ một điện thoại công cộng góc đường. Dù sao, hắn đã lỡ lên đèn trong nhà và giờ này hết ngại gì có ai khác bắt gặp. Khi người gác-dan reo chuông gọi bà ta xuống nghe, hắn sẽ bỏ lửng ống nói và đi về buồng mình. Rồi trong khi bà ta đang ở trong phòng gác dan đợi người muốn nói chuyện với mình bên kia đầu giây - thật ra không hề có ai - hắn sẽ thanh toán cái xác thật nhanh. Chẳng lẽ thời gian bà ta thôi đợi và cúp điện thoại ra về lại ngắn hơn 24 giây đồng hồ! A. hài lòng khi thấy mình sáng trí biết nghĩ ra giải pháp nhanh như vậy.

Hơn thế nữa, đợi đến khi hai trong ba căn hộ kế bên đã có người về và chỉ một gian còn lại là trống thôi thì kế hoạch hành động của hắn sẽ gặp rắc rối. Tuy không phải hoàn toàn hết hy vọng nhưng độ nguy hiểm cao hơn rất nhiều. Nếu muốn thanh toán xác chết thì có lẽ phải thi hành lúc này thôi. Thế nhưng, nếu làm một việc không có hiệu quả thì chỉ tốn công vô ích. Có lẽ việc dàn cảnh công phu thế này thế nọ, ngược lại, chỉ tổ làm cho lập trường của mình càng khó bào chữa. Cái vết máu khốn nạn này, không cách nào tránh được nó đi sao, hỡ trời!

Sau khi dời xác chết, hắn mới khó chịu khi thấy cái chỗ nó nằm bây giờ sao mà rộng thênh thang. Và trên cái khoảng không gian rộng rãi này, màu trắng trên tấm chiếu còn lại sau khi chùi vết máu, lộ rõ như đập vào mắt. Bất chợt A. bị cám dỗ bởi ý tưởng phải làm sao nới rộng chu vi có màu trắng này. Lúc đầu khi ý tưởng chưa thành hình, nó chẳng qua là một xung động sinh lý. Thế nhưng, khi hắn bắt đầu ý thức ra điều đó và thấy được ý nghĩa to tát của việc làm, lập tức nó lớn phồng như thổi. Đúng, đúng đấy, muốn làm mất khoanh trắng này đi, hắn bắt buộc xát xà phòng lên phần sàn có lát chiếu và rửa sạch tất cả.

Từ chỗ đó, hắn tiến thêm một bước nữa. Sao ta không làm biến mất hết chiếu trên sàn, hử? Dĩ nhiên hắn không thể đem bỏ đằng trước nhà như mớ đồ phế thải. Người ta sẽ có cớ tóm hắn ngay. Chi bằng cắt thành từng mảnh nhỏ rồi đem đốt dần trong cái gạt tàn thuốc. Hắn đã mua một cái gạt tàn đặc biệt, khá lớn để khỏi đem đi đổ tàn thuốc thường xuyên, không ngờ lại tiện lợi quá sức. Sau đó, hắn có thể đem tro đi đổ trong nhà xí và giật nước là xong.

Mọi chuyện như thế là giải quyết rồi. Sau đó hãy còn dư thời giờ để nghĩ đến xác chết. Không đêm nay, còn ngày mai.

Những thanh chiếu dát ở lối ra vào cháy dễ dàng, toát nhiệt. Hắn thích thú tách chúng ra từng sợi một, liệng hết sợi này đến sợi khác vào ngọn lửa. Mỗi sợi cháy tàn là mỗi bước hắn tiến gần đến tự do. Nhưng eo ôi, khói ghê quá. Hắn ho lụ khụ và chùi nước mắt lia lịa. Nếu chỉ có khói thôi, hắn còn chịu được, thế nhưng mùi cháy khét mới là vấn đề. Người gác-dan cực kỳ nhạy cảm với tất cả các loại mùi, ông ta mà nhận ra nó thì biết sao đây? A. nhìn lên và thấy căn phòng đã mù mịt khói. Bóng điện như bị sương mù bao phủ, chỉ thấy lờ mờ. A. vẫn chưa đốt xong mớ sợi lát đầu tiên. Thế thì không còn hy vọng gì nữa. Hắn trút mớ nước chuẩn bị sẳn trong ấm lên trên ngọn lửa. Một cột khói trắng bay lên không trung và, đánh cắc, cái gạt tàn nứt làm đôi.

Dù gặp khó khăn đến đâu chăng nữa, phải tẩy rửa hết mọi thứ. Hắn đổ đầy nước vào bồn rửa mặt, xắn quần xắn áo lên và bắt đầu lau chùi sàn sạt. Để chứng minh mình vô tội, phải chịu đựng cực nhọc như thế.

Làm được một đỗi, A. bất chợt nhận ra mình không khéo đã ngu dại đi thụt lùi mất. Có khi chính cái vệt máu mà hắn đang hì hục tẩy cho sạch lại có thể cứu đời hắn, nó là chứng cứ duy nhất có thể gíup hắn thoát khỏi mọi nghi ngờ. Nói cách khác, nếu xác chết được xem xét thận trọng, việc suy luận một cách chính xác giờ giấc nạn nhân bị giết có thể thực hiện dựa trên trình độ co cứng của xác chết và vết bầm dập trên thân thể, vân vân và vân vân. Khi đã rõ về điều đó, nhà điều tra có thể hình dung ra xác chết đã được khuân bỏ vào phòng hắn ở thời điểm nào. Vệt máu có thể được đánh giá như bằng chứng cụ thể không chối cãi được. Chỉ cần hắn có bằng cớ mình đã vắng mặt ở thời điểm có vấn đề ấy - và quả như vậy, hắn không hề rời bàn giấy suốt ngày hôm nay cho đến giờ tan sở - thì sự chứng minh hắn vô tội sẽ không gặp khó khăn nào.

Thế nhưng khi hắn nghĩ tới điều đó thì nguyên cái sàn đã được lau chùi sáng choang. Thuốc tẩy độ này sao mà có tác dụng mạnh thế. Hắn đứng há hốc nhìn chung quanh cái sàn bóng loáng như mới tinh. Biết làm sao giải thích lý do có cái màu trắng quái gở này cho người khác đây? Trắng đến như vậy chỉ lôi cuốn sự chú ý của bọn hiếu kỳ và làm cho thiên hạ sinh nghi. Trong khi đó để cho dây máu thì có có thể gỡ tội, thế mà ...

Tệ nhất là khi vừa khám phá ra xác chết, hắn lại không nói cho ai biết mà còn dấu kín nó một nơi. Không còn cách gì để tự bào chữa nữa rồi. Hắn đã làm hết cách này đến cách khác nhưng chỉ để hủy hoại bằng cớ là mình vắng mặt lúc ấy. Bây giờ chờ đợi thêm nữa thì tình huống chỉ càng xấu đi thôi. Cái hay nhất là đừng để bị dao động nữa, phải hạ quyết tâm đi ra thú thực mọi việc cho nhà chức trách. Mà phải làm càng sớm càng tốt.

Ôi chao, còn cái sàn trắng hếu này! Kết cuộc, coi bộ không tài nào làm cho nó trở lại như xưa. Thôi đừng chết nhát, phải tiếp tục chiến đấu đến cùng với cái xác chết chứ nhỉ? Dù sao, hắn thấy mình cần có can đảm. Muốn đi ra thú thực hay ở lại vật lộn với cái xác, cái hắn cần là lòng can đảm. Và trong hai sự chọn lựa, cái nào cần đến lòng can đảm nhiều hơn cả là chọn lựa đúng nhất.

Thế nhưng ngày đã rạng sáng mất rồi và hình như hắn có hơi mệt mỏi để có thể quyết định xem đâu mới thật là can đảm.

ABE KÔBÔ
Đăng lần đầu trên Tạp Chí Gunzô (tháng 4 năm 1961)
Dịch xong ở Tôkyô ngày 28 tháng 4 năm 2008.

Abe Kôbô (1924-1993)



 [  Trở Về  ]