HOÀNG XUÂN-HÃN
Lý Thường Kiệt
LỊCH-SỬ NGOẠI-GIAO TRIỀU LÝ
DẪN
TÀI LIỆU
I - Tài liệu Việt Nam 
II - Tài liệu Trung Quốc
III - Tục tư trị thông giám trường biên
IV - Các tên đất
Tài liệu dùng để viết sách này có thể chia ra hai thứ : tài liệu Việt Nam và tài liệu Trung Quốc.
 
I - Tài liệu Việt-Nam

Loại này ít và sơ sài. Ngoài những bia xưa phần lớn là phỏng theo tài liệu cũ nay không còn cho nên không thể nhận là đúng hay không. Tôi chỉ dùng những tài liệu xưa nhất và bỏ những tài liệu chép theo tài liệu cũ, trừ khi nào có một chi tiết không thấy trong tài liệu xưa. Nhưng những chi tiết ấy phần lớn không hoàn toàn tin được.

A - Cũ nhất có các bia nhà Lý, phần lớn tôi phát giác ra.

1°/ Bia chùa Báo-ân ở núi An-hoạch làng An-hoạch, dựng năm Hội-phong thứ 9, Canh-thìn 1100, kể khá rõ sự nghiệp Lý Thường-Kiệt về khoảng ông cai trị Thanh-hoá.

2°/ Bia chùa Sùng-nghiêm-diên-thánh ở làng Duy-tinh, dựng năm Hội-tường-đại-khánh thứ 9, Mậu-tuất 1110, kể công một vị nối chức Lý Thường-Kiệt, đối với chùa ấy.

3°/ Bia tháp Sùng-thiện-diên-linh ở núi Long-đội, dựng năm Thiên-phù-duệ-vũ thứ 2, Tân-sửu 1121, kể rõ các đức tính và sự nghiệp Lý Nhân-tông.

4°/ Bia chùa Hương-nghiêm ở núi Càn-nê làng Phủ-lý, dựng năm Thiên-phù-duệ-vũ thứ 5, Giáp-thìn 1124, kể công Lý Thường-Kiệt đối với chùa này.

5°/ Bia chùa Linh-xứng ở núi Ngưỡng-sơn làng Ngọ-xá, dựng năm Thiên-phù-duệ-vũ thứ 7, Bính-ngọ 1126, kể qua sự nghiệp Lý Thường-Kiệt và công ông dựng chùa này.

6°/ Bia đền Ngọ-xá là đền thờ Lý Thường-Kiệt ; tuy mới dựng năm Tự-đức thứ 29, năm Bính-tý 1876, nhưng cũng là thần tích.

B - Sách Việt có nói đến Lý Thường-Kiệt chỉ có chừng bốn quyển cũ.

1°/ Trước hết, có Đại-Việt sử-ký, Lê Văn-Hưu soạn đời Trần Nhân-tông, năm Nhâm-thân 1272 ; và Ngô Sĩ-Liên đời Lê Thánh-tông có sửa chữa ít nhiều (năm Kỷ-hợi 1479, theo lời tựa của Ngô Sĩ-Liên). Bản nay còn, là do sử thần đời Lê đính khảo hai lần (đời Huyền-Tông năm Ất-tị 1665, và đời Hi-Tông năm Đinh-sửu 1697). Bản in nay còn gọi là Đại-Việt sử-ký Toàn-thư (Viết tắt TT), tên Ngô Sĩ-Liên đặt ; nhưng khắc lại đời Nguyễn, và có sửa chữa thêm. Sự sửa chữa, thường là bỏ những điều cho là vụn vặt quá, hay trái với tư tưởng luân lý và chính trị đương thời. Không biếr rằng đoạn sử đời Lý, do Lê Văn-Hưu soạn, có bị đính khảo nhiều không ? Tôi ngờ rằng có, như sau đây tôi sẽ chứng minh. Một sự chắc chắn là, theo bản TT còn nay, việc Lý Tống chiến tranh chép rất sơ lược và có điều lầm.

Đời Nguyễn Tây-Sơn, có khắc bản Đại-Việt sử-ký (1800), do sử thần dọn lại bản TT và có tham khảo sử Trung-quốc. Về Lý Thường-Kiệt, bản này chính xác hơn. Nhưng tôi không dùng, vì sách ấy lấy gốc ở bản TT, và phần tham khảo Tống sử còn sơ lược. Tôi cũng không dùng bản Khâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục trừ một vài chi tiết nhỏ, vì sách ấy cũng do các sách trên mà ra và không thêm gì chắc chắn hơn.

2°/ Trái lại tôi đã dùng nhiều một bộ sách nhỏ, sách Việt sử-lược (viết tắt VSL) soạn đời nhà Trần, nay còn ở bộ Tứ-khố toàn-thư và đã nhiều nhà xuất bản Trung-quốc khắc. Sách này đổi họ ra họ Nguyễn (theo phép húy đời Trần) và cuối có đề " Kim vương Xương-phù ", nghĩa là " vua nay hiệu Xương-phù ", tức Trần Đế-Nghiện (1377). Sách VSL chép đoạn Hùng-vương rất sơ sài, và không nói đến Lạc-long, đến các chuyện hoang đường ; và tuy có nói đến Thục An-dương-vương, nhưng không kể thành Hồng-bàng-kỷ Thục-kỷ như ở TT. Nay xét lời tựa của Ngô Sĩ-Liên, và phàm lệ của sách TT, ta thấy rằng " Lê Văn-Hưu trùng tu từ Triệu Vũ-đế đến Lý Chiêu-hoàng ". Ta lại thấy chính VSL cũng chỉ có đoạn sử ấy. Ta có thể đoán rằng VSL là do một tác giả, cuối đời Trần, lược lại Đại-Việt sử-ký của Lê Văn-Hưu. Riêng về Lý-kỷ, sách VSL chép nhiều chi tiết hơn TT, tuy lại có đoạn lược hơn. Bởi đó ta biết rằng Ngô Sĩ-Liên đã dọn bớt tác phẩm của Lê Văn-Hưu nhiều. TT còn nói tác phẩm ấy có ba mươi quyển. Thế mà nay nội dung thấy sơ sài. Đó là một chứng thứ hai sự bị ước giải ấy. Sách VSL đã cho ta biết nhiều chi tiết về Lý Thường-Kiệt, lúc đánh Chiêm và lúc Lý Nhân-Tông mới lên ngôi.

3°/ Ngoài loại sử, còn có sách Việt-Điện U-Linh, (viết tắt VĐUL), là một tập thần-tích, Lý Tế-Xuyên soạn đời Trần (1329). Nay còn bản viết. Trong sách này có chuyện Lý Thường-Kiệt, chép khá kỹ, nhưng chỉ ghi những sự tích lớn và các chức tước lần lượt được phong. (1). Sách này có lẽ đồng thời với Đại-Việt sử-ký của Lê Văn-Hưu, vì các sắc thần nói trong sách đều phong trước năm 1313. Nhưng tài liệu dùng, có thể có từ đời Lý, và chung với tài liệu dùng bởi Lê Văn-Hưu. (1)

Dẫu rằng sách VĐUL chỉ còn sao chép, nhưng chuyện Lý Thường-Kiệt có thể coi là chính xác và cho biết thêm một vài điều không thấy ở TT.

4°/ Cuối cùng, có sách Thiền Uyển Tập Anh ngự-lục, (viết tắt TUTA) là chuyện các vị cao tăng ở nước ta từ đời thuộc Đường đến đời Trần. Cũng có một vài chi tiết nói đến Lý Thường-Kiệt đối với các sư. Sách này cũng viết đời Trần, vì bản in cũ nay còn (năm 1715) đều đổi họ Lý ra họ Nguyễn, theo lệ húy đời Trần.

II - Tài liệu Trung-Quốc

Tài liệu Trung-quốc về sử rất nhiều, tôi chỉ dùng những sách soạn dưới triều Tống hay với nguyên liệu Tống.

1°/ Sách căn bản tôi đã dùng là Tục Tư-trị thông giám trường biên (viết tắt TB) của Lý Đào viết trong đời Nam Tống (thế kỷ thứ 21). Sau sẽ có mục nói kỹ về sách ấy.

2°/ Sách Tống-sử (viết tắt TS) soạn đời Nguyên, với nguyên liệu đời Tống cho ta biết một ít việc không có trong TB. Tống-sử gồm nhiều phần. Phần Bản-kỷ chép chuyện từng vị vua, chỉ cho ta biết một vài chi tiết thuộc lịch sử bang giao Lý Tống mà thôi.

Phần liệt-truyện cho nhiều tài liệu hơn, hoặc là trong chuyện những nhân vật có liên quan đến nước ta, hoặc trong chuyện các ngoại quốc, như Giao-chỉ truyện, Quảng-nguyên-châu man truyện, Chiêm-thành truyện.

Đáng lẽ Giao-chỉ truyện cho ta biết khá đầy đủ về đoạn sử này. Nhưng không may cho ta, chính đoạn " Lý Tống chiến tranh " lại bị khuyết. Sự khuyết ấy có từ lâu, có lẽ từ đời Tống. Sách Sử-vĩ nói : " bản của Nhị Ung đã thiếu đoạn ấy rồi ". Có lẽ người Tống đọc đoạn này, cho là nhục quốc thể mà xé đi chăng. Tôi nói xé ", vì câu văn, còn lại sau khoảng khuyết, đã thiếu đầu.

Phần thứ ba, là phần chí ; ta có thể lượm lặt một ít tài liệu trong quân-chí, lễ-chí, dư-địa-chí ...

3°/ Sách Đông-đô-sự-lược (viết tắt ĐĐSL), Vương Xưng soạn đời Tống. Nội dung như phần bản kỷ và liệt truyện trong Tống-sử, nhưng sơ sài hơn.

4°/ Những việc xẩy ra ở biên thùy Tống Lý rất lớn, nên các danh gia đời Tống từng đã nói đến trong các ký tải của họ. Nay ta còn lượm lặt một ít trong các Tống-thư. Như Tốc-thủy kỷ văn của Tư-mã Quang, Mộng-khê bút đàm của Thẩm Hoạt, Đông-hiên bút lục của Ngụy Thái, Đàm phố của Tôn Thăng, Nhị trình di thư của Trình Hạo và Trình Di, Kê-lặc của Trang xước, Lĩnh ngoại đại đáp của Chư Khứ-Phi, Quế-hải Ngu hành chí của Phạm Thành-Đại, Tống hội yếu, vân vân.

III - TỤC TƯ TRỊ THÔNG GIÁM TRƯỜNG BIÊN

Sách này soạn ra bởi Lý Đào trong đời Nam Tống. Sách chép những sự xẩy ra từ đời Tống Thái-Tổ đến lúc dời đô xuống miền nam (960 - 1126). Việc chia theo ngày tháng, chứ không chia loại ; cho nên gọi là " trường biên ". Lý Đào đã dùng rất nhiều tài liệu nguyên trước mà nay không còn, trích những việc xẩy ra từng ngày, biên vào một phiếu, rồi bỏ phiếu ấy vào một hòm riêng. Xong, sao lại thành sách. Như vậy được hơn 4400 việc, thuộc chín đời vua Tống.

Những văn tự Lý Đào dùng có Thực-lục của các đời vua Tống tức là theo công văn, giao cho sử quán chép, Thời-chính-lục, Nhật-lục tứclà chép lời nói, việc làm của vua, do viện Thời-chính, Nhật-lục ở cạnh vua chép hàng ngày, và ghi những cử chỉ, tư tưởng riêng của vua. Hai loại này rất quí mà nay không còn đủ hay đã mất.

Lý Đào lại dùng các mộ chí, tức là bài bia kể sự nghiệp để ở mộ các vị đại thần, do các đại nho đương thời soạn. Mộ chí các tướng đánh ta như Quách Quì, Triệu Tiết, Yên Đạt đã được dùng.

Một loại văn nữa rất quí là các tư-kỷ của các nhà chức trách, như tư-kỷ của Vương An-Thạch, Tư-mã Quang, Tăng Bố ; như Chinh-nam nhất tông văn-tự của Quách Quì.

Các văn tập của các đại nho đương thời, không có quyển nào Lý Đào không đọc tới, và đã được trích lục vào trong sách TB. Một phần các văn ấy nay còn, ta có thể khảo thẳng và so sánh.

Nói tóm lại, sách TB là một kho tài liệu, cực đầy đủ ; tuy chưa phải là sử, nhưng nhờ sách ấy mà ta có thể viết sử.

Lý Đào là ai ? TS liệt truyện cho ta biết rõ ràng. Ông người Mị-châu, đậu tiến sĩ năm Thiệu-hưng thứ 8 (1138). Xuất sĩ, ông làm các chức như tri huyện, tri châu. Trong lúc làm quan, ông thấy sách Tư-trị Thông giám của Tư-mã Quang, nên muốn tiếp tục công việc ấy. Không ở sử quán, mà làm công việc sử rất khó. Muốn được vua để ý tới, ông bắt đầu soạn Bách quan công-khanh biểu dâng lên. Năm Càn-đạo thứ 3 (1167), được vua triệu về kinh. Năm sau ông đã dâng lên phần đầu sách TB, từ đời Kiến-long đến đời Trị-bình (960-1067) gồm 108 quyển (cách chia quyển lúc đầu khác bây giờ).

Năm 1169, ông được bổ vào Bí-thư-cục, coi viện Khởi-cư-xá và kiêm chức kiểm thảo viện Thực-lục. Thế là ông đã được một chức thích hợp với xu hướng ông. Nhưngvì ông nói mất lòng tể thần, nên phải xuất ngoại.

Năm đầu Thuần-hi (1174) ông được về kinh, nhưng sau lại phải đi xa. Ít lâu, ông được về Sử-quán, làm biên-tu viện Thực-lục. Trong thời kỳ ấy, ông vẫn tiếp tục soạn nối sách TB. Cho nên sau, tuy phải xa kinh, ông cũng soạn xong phần Bắc-Tống. Năm 1180, ông dâng toàn sách lên vua Tống Hiếu-Tông, vua sai để sách tại Bi-các.

Tự xét sách mình, Lý Đào đã nói " thà chịu chê là bề bộn hơn bị chê là sơ lược ". Vua Tống cũng khen " sách này thật không thẹn với sách Tư-mã Thiên ", rồi bổ ông làm Phu-văn-lâu học sĩ và coi làm quốc sử.

Ông xin về hưu năm Thuần-hi thứ 11 (1184) và mất năm ấy.

Các danh nho được đọc sách TB, đều khen ngợi và thán phục.

Bây giờ đọc phần còn lại, ta không khỏi sửng sốt về công phu vĩ đại mà một viên quan bé, phải thuyên chuyển nay đây mai đó, mỗi lần phải mang theo tài liệu đi đến nghìn dặm, đã cố gắng trong 40 năm, để làm xong bộ sách khổng lồ !

Sách rất to, ít ai chép lại nổi ; cho nên không mấy ai đọc được. Đến đời Minh Thành-Tổ (1405-1424) sách được chép vào bộ Vĩnh-lạc đại-điển ; nhưng cũng chỉ để trong bi các mà thôi. Đến đời Thanh Thánh-Tổ, niên hiệu Khang-hi (1662-1721) mới được sao vào bộ Tứ khố Toàn thư, và từ đó mới được truyền bá.

Nhưng bấy giờ sách đã khuyết mất ba khoảng : khoảng đầu, 4 năm, từ tháng 4 năm Trị-bình thứ 4 đến tháng 3 năm Hi-ninh thứ 3 (1067-1070), khoảng thứ hai, gần 4 năm, từ tháng 7 năm Nguyên-hữu thứ 8 đâến tháng 3 năm Thiệu-thánh thứ 4 (1093-1097), và đoạn cuối là hai đời Huy-tông (1101-1125) và Khâm-tông (1126). Phần còn lại chia làm 520 quyển.

Đời Quang-tự thứ 7 (1881), có viên tuần phủ tỉnh Chiết-giang là Đàm Chung-Lân đem khắc in. Ông tìm được một bản khá đầy đủ như bản Tứ khố toàn thư và hai bản đời Tống nhưng khuyết nhiều. Ông so sánh cẩn thận với bản để ở bi các và các bản sao khác, rồi sai khắc. Nhờ đó nay có bản in rất đẹp và ít sai còn lưu truyền. Tôi đã dùng bản ấy. Sau này tôi dẫn chứng, có biên rõ số quyển, số trương theo đó.

Thực ra sách TB khó dùng, vì to mà chép theo thứ tự thời gian. Đời Tống, đã có Dương Trọng-Lương có ý sao lại, nhưng xếp thành mục ; được hơn 400 mục. Sách ấy gọi là Tục tư-trị thông-giám trường biên bản-mạt (viết tắt BM). Sách này rất tiện cho việc kê cứu. Riêng về việc Tống Lý bang giao, sách BM có ba mục : Giao-chỉ nội phụ (quyển 12) chép chuyện Đinh, Lê về trước ; Quảng-nguyên man bạn (quyển 50) chép chuyện Nùng Trí-Cao, và Thảo Giao-chỉ (quyển 87) chép chuyện Lý Thường-Kiệt đánh Tống và Quách Quì đánh Lý.

Tuy sách BM dùng tiện, nhưng tôi xét thấy rằng Dương Trọng-Lương lúc sao lại, đã bỏ nhiều chuyện, cho là không quan hệ. Tôi đã dò lại bản TB và chỉ dùng BM để kiểm soát mà thôi. Cũng may rằng bản TB còn gần đủ và nhất là sử các năm 1070-1093 còn vẹn, cho nên ta biết khá đủ rõ đoạn sử chiến tranh này.

Người xuâÙt bản sách TB cũng đã khắc cả bản BM. Ông lại còn có ý hay, tìm cách lập lại đoạn đã mất trong TB, bằng tài liệu lấy lại trong BM ; vì BM soạn khi TB còn toàn bích. Kết quả thành sách Tục Tư-trị thông-giám trường biên thập-bổ. Đối với việc Lý Thường-Kiệt, sách ấy không cho biết thêm điều gì. Thế mà đọc phần TB còn lại, ta nhận rằng trong khoảng đã mất, chắc có chép một ít việc. Đó là thêm chứng cớ rằng Dương Trọng-Lương đã bỏ bớt nhiều trong khi soạn BM.

Giá trị của các tài liệu kê trên không đều nhau, và cũng không tuyệt đối là hay. Trong khi dùng, tôi đã gắng so sánh cân nhắc.

IV - TÊN ĐẤT

Các tên đất chép trong sách Lý Thường-Kiệt, phần lớn tên có đời Lý. Tôi đã gắng công tìm tên mới để nhận ở địa đồ. Sự ấy rất khó. Tuy đã có nhiều sách cũ làm việc ấy, như sách CM, Đại Việt cổ kim duyên-cách địa-chí khảo, Đại-Nam nhất thống chí, và rất nhiều sách Tầu. Nhưng sự phỏng đoán trong các sách ấy có nhiều chỗ chắc sai hay thiếu. Khi nào tên cũ nay còn, và phần đất theo địa thế hợp lý thì tôi nhận. Ngoài ra, lý luận phải lấy điều kiện nhân sự và địa thế hợp nhau làm chuẩn. Còn sự trùng tên, hay gần tên, chỉ là một chứng phụ mà thôi - nếu thật nó có thể dùng được.

Tôi tưởng rằng, sau khi đọc sách này, độc giả sẽ thấy rằng các tên quan trọng đất Tống hay ta, dọc biên thùy, và các chiến trường trên đất ta, nhận như trong sách nầy, có phần đúng lẽ.