HOÀNG XUÂN-HÃN
Lý Thường Kiệt
LỊCH-SỬ NGOẠI-GIAO TRIỀU LÝ
Phần II - Kháng Tống - Đòi đất

CHƯƠNG IX : KẾ-HOẠCH ĐÁNH ĐẠI-VIỆT 

   1. Mục-đích
2. Liên-minh và ngoại-viện
3. Phòng-thủ
4. Trinh-sát và phản trinh-sát.
5. An-ủi nạn-dân
6. Chiêu-dụ khê-động
7. Dùng lục-quân
8. Dùng thủy-quân
9. Chỉ-thị đại-cương
10. Dư-luận
11. Ý-kiến Triệu Bổ-Chi
12. Ý-kiếnTrương Phương-Bình
Chú-thích 

1.- Mục-đích
Trong hai chương trên đã nói, phản động Tống có thể chia làm hai thời-kỳ. Lúc mới nghe Khâm, Liêm bị mất và Ung bị vây, Tống Thần-tông và Vương An-Thạch muốn lập-tức sai đại-quân xuống miền nam, trước là ngăn-cản sức bành-trướng của quân ta tới vùng Quảng-châu và Quế-châu, sau là để đánh thẳng vào nước ta làm cho ta phải thả Ung-châu. Nhưng Ung lại bị mất trước khi Tống sắp đặt xong quân. Cho nên vua tôi An-Thạch định lại kế-hoạch, là sửa-soạn lại kỹ-càng để đến hết mùa nóng-nực, có thể kéo toàn-lực chinh-phục hẳn đất nước ta.

Tống sửa-soạn kỹ-càng về mọi phương-diện vật-chất, như ta đã thấy trong chương VIII trên. Sau đây ta sẽ thấy rằng về kế-hoạch chiến-lược, tướng Tống cũng rất có định-kiến, ít ra là trong lý-trí.

Mục-đích cuộc xuất quân lần này, là đánh lấy hẳn đất ta, rồi sáp-nhập vào nước Tống.

Ngay lúc đầu, sau khi Quách Quì được cử làm tướng, Tống Thần-tông hạ chiếu dặn rằng : " Sau khi bình được Giao-châu, sẽ đặt châu huyện như nội-địa " (28-2, G. Dn, DL 4-4 ; TB 273/13b).

Nhân cơ-hội, Tống muốn đặt quan cai-trị các vùng khê-động thay các tù-trưởng mà đến bây giờ vẫn tự-lập. Nhất là vùng Quảng-nguyên sản-xuất nhiều vàng bạc, Tống lại càng muốn chiếm lấy. Ngày mồng 5 tháng 7, Quách Quì nhận được chiếu về việc ấy. Chiếu rằng : " Nghe nói vùng khê-động có nhiều của quíù. Sau khi Giao-chỉ thua, hãy đặt thành quận huyện mà cai-trị, và hãy sung-công của-cải ". (K. Vi, DL 7-8 ; CN, theo TB 277/1a).

2.-Liên-minh và ngoại-viện
Muốn chia lực-lượng quân ta, quan Tống là Hứa Ngạn-Tiên, tâu xin xui các nước Chiêm-thành và Chân-lạp đem quân đánh miền nam nước Việt. Chiêm-thành bị ta đánh đại-bại sáu năm về trước, chắc sẽ thừa cơ-hội này để trả thù. Vua Tống hạ chiếu nói rằng : " Chiêm-thành, Chân-lạp vốn là huyết-thù của Giao-chỉ. Vậy sai Hứa Ngạn-Tiên và Lưu Sơ mộ dăm ba người buôn bể, đi dụ các quốc-trưởng nước ấy dự vào việc đánh Giao-chỉ. Khi nào bình-định xong, sẽ có thưởng. " (25-12 năm Ất-mão, Q. Su, DL 3-2; TB 271/16b).

Không biết vì lẽ gì Hứa Ngạn-Tiên không đi. Sau khi Ung-châu mất, lại có chiếu sai Lý Bột La Xương-Hạo mang sắc-thư, thuốc, khí-dụng, lụa sang Chiêm-thành và Chân-lạp để dụ các nước ấy đánh ta. Lời chiếu rằng : "Chiêm-thành, Chân-lạp từ lâu nay bị Giao-chỉ cướp. Nay vương-sư sang đánh Giao-chỉ để phạt tội. Các nước ấy nên thừa cơ-hội, hiệp-lực mà trừ nó. Ngày nào đánh dẹp xong, Trẫm sẽ ban thưởng cho. Trẫm lại nghe nói rằng nhiều dân nước ấy đã bị Giao-chỉ bắt về. Trong số ấy, có cựu-vương Chiêm-thành (1), khó lòng trở về nước (vì có sự bất-hòa với vua hiện ở ngôi). Nên triệu y sang chầu. Trẫm sẽ gia-ân cho ". (2-2, M. Ti, DL 9-3; TB 273/2a).

Sau này ta sẽ thấy rằng kế dùng Chiêm-thành, Chân-lạp có được thực-hiện ít nhiều, nhưng bị Lý Thường-Kiệt đón trước. Trong tháng tám năm ấy, Thường-Kiệt đem quân vào tuần tra các châu vừa lấy được của Chiêm, chỉnh đốn việc cai-trị, cho dân vào ở thêm, và tăng sự phòng-bị (TT). Mà bên Tống cũng không có sức gì uy-hiếp Chiêm-thành, Chân-lạp. Cho nên tuy Chiêm-thành có đưa ít quân lên đóng ở biên-giới nước ta, nhưng không dám gây sự.

3.- Phòng-thủ
Trước lúc đánh vào nước ta, theo đường từ Ung-châu đến Lạng-châu, Tống sợ quân ta hoặc từ khê-động tràn vào quấy hậu-phương, hoặc từ Khâm-châu đánh quật vào, chiếm các nơi căn-cứ. Cho nên Tống đã phải dự-bị phòng-thủ phía sau, theo như lời Dương Hội (VIII/1) dẫn sách quân-chí : nên giữ chỗ tưởng không đánh tới.

Vua Tống sai xây gấp lại thành Ung. Ngày 8 tháng 3 Lý Bình-Nhất xin đem cả phu Quảng-đông sang giúp vào việc ấy (Q. Ho, DL 13-4; TB 273/16a). Rồi ti tuyên-phủ lập tức phái tướng cầm đạo quân Hữu-đệ-nhất xuống đóng ở Ung-châu để phòng-bị. Vua Tống cho rằng một tướng giữ không đủ; lời chiếu nói : "Thành Ung-châu đắp chưa xong. Đường chở lương cũng chưa sẵn. Nay vào mùa mưa dầm, khí độc nhiều. Nếu giặc trở lại, thì một tướng không đương nổi. Phải xét lại. " (Chiếu 19-4, G. Th, DL 24-5; TB 274/9a).

Ngày 25 tháng 6, vua Tống lại chiếu rằng : "Trong việc nam-chinh, Ung-châu rất can-hệ. Đó là căn-bản. Tiền, lương, quân-nhu đều để đó. Nếu giặc cùng-kế, mà từ hải-khẩu (có lẽ chỉ cửa Bạch-đằng) theo đường châu Vĩnh-an lấy Khâm, Liêm, rồi từ đó tới Ung-châu, thì chỉ mất vài ngày. Tuy thành Ung vững chắc, nó không lấy được, nhưng ta há lại không nên lo đường vận lương bị đứt hay sao? Bị đứt, thì lòng dân bị lay động. Mà bấy giờ, dẫu muốn trở về cứu Ung-châu, trước sau đều có giặc! Phải nói ti chiêu-thảo nên lo-liệu thế nào, rồi mật tâu về " (K. Zu, DL 28-7; TB 276/12a).

Tống lại sợ các phiên quốc miền tây-nam nhân cơ hội, quấy rối và giao-kết với ta để cùng chống Tống. Viên coi Bành-châu (Tứ-xuyên) là Lữ Đào có tâu rằng : "Nếu Giao-chỉ đánh Quảng-tây, mà lại kết đảng với Nam-chiếu (vùng Vân-nam), thì ta rất đáng lo. Vậy xin sai các châu Lê, Nhã, Nhung, Lô, Thi, Kiềm, thuộc lộ Thành-đô, phủ Chàng và lộ Quí-châu (giáp vùng Vân-nam) phải đề-phòng cẩn-thận. " (21-4, B. Ng, DL 26-5; TB 274/9b).

Tống rất sợ các nước Hạ, Liêu nhân khi Tống bận việc ở phương nam, sẽ gây sự ở phương Bắc. Cho nên vua Tống căn-dặn Quách Quì phải đánh cho chóng thắng (IX, 9).

Tháng 5, sứ Liêu đến Biện-kinh. Nghe tin Tống soạn-sửa đánh Lý, sứ hỏi Chu Ôn-Kỳ là viên tiếp sứ rằng :

"Nam-man có việc gì ? "

Nam man tức là chỉ Giao-chỉ. Ôn-Kỳ trả lời :

"Nam-man cướp. Triều-đình đã sai người dẹp.

- Binh dùng có đến một vài vạn chăng ?

- Không đến vài nghìn.

- Ai làm tướng ?

- Quách Quì và Triệu Tiết. "

Ôn-Kỳ trả lời như vậy, dấu-diếm sự hành quân vĩ-đại, tưởng thế đã là khôn. Nhưng vì nói hở tên những tướng quan-trọng đóng miền bắc, triều-đình cách chức Ôn-Kỳ, lấy lẽ rằng Ôn-Kỳ không bẩm tin sứ Liêu hỏi dò. (1-5, B. Th, DL 5-6; TB 275/1b)

4.- Trinh-sát và phản trinh-sát
Thời bấy giờ, Lý Thường-Kiệt triệt-để lợi-dụng mọi phương-tiện để dò hành-động của quân Tống, và để địch-vận, chiêu-dụ người Tống theo và giúp mình.

Vua Tống dặn các lộ Quảng-đông, Giang-tây, Phúc-kiến rằng : " Lúc mộ quân hiệu-dụng, phải coi chừng, kẻo tụi gian lẫn vào " (5-3, C. Ta, DL 10-4; TB 273/14b). Lại bảo Tô Tử-Nguyên : " Coi chừng tụi dân thuyền-chài dọc bờ bể. Nếu chúng ra vào, thì phải xét chúng đi đâu; kẻo sợ chúng làm trinh-thám cho Giao-chỉ " (7-6, T. Ma, DL 10-7; TB 276/6b).

Tống phòng-bị như thế không phải là không có lý. Lý Thường-Kiệt đã sai nhiều thám-tử vào Lưỡng-Quảng. Ngày 12 tháng 4, vua Tống hạ chiếu, nói : " Nghe Giao-chỉ sai nhiều kẻ gian tới thám Lưỡng-Quảng. Vậy các chỉ huy, các tướng phải coi chừng. Đừng để nó dò được phép công, thủ, tiến, thoái của ta ". (Đ. Zu, DL 27-5; TB 274/6b).

Lúc trước, khi ta đánh Khâm, Liêm, có bắt hơn trăm nhà sư. Ta lấy bằng mà quan Tống đã cấp cho các sư ấy, rồi giao cho gián-điệp mang vào đất Tống, giả làm sư để dò thăm tình-hình. Cho nên ngày 28 tháng 8, vua Tống hạ chiếu cho lộ Quảng-tây đình việc cấp bằng cho các sư. (T. Ho, DL 28-9; TB 277/12a).

Tuy đề-phòng cẩn-thận như thế, nhưng dọc bờ bể, thám-tử ta vẫn vào nhiều. Ngày 11 tháng 10, vua Tống sai các lộ duyên-hải mộ quân, nói " để bắt quân Giao trốn vào trong xứ để trinh-thám " (G. Ng, DL 10-11; TB 278/5a).

Đời Lý, nước ta dùng nhiều người Trung-quốc. Theo lời Từ Bá-Tường, họ Lý vốn người Mân, cho nên những người Phúc-kiến hay được dùng (2)Vua Tống muốn chiêu-dụ những kẻ ấy trở về, mới hạ chiếu rằng : " Nghe nói Phúc-kiến, Quảng-nam có người sang buôn-bán ở Giao-chỉ, nay lại ở đó để Giao-chỉ sử-dụng. Vậy chiếu cho người nhà những kẻ ấy phải khai rõ, để chiêu-dụ chúng về. Ai về sẽ được bổ-dụng. " (8-3, Q. Ho, DL 13-4; TB 273/16b).

Một mặt khác, Tống muốn sai thám-tử hoặc để dò-la, hoặc làm nội-ứng, hoặc làm hướng-đạo. Đối với những dân khê-động theo ta lúc quân ta vào đánh Tống, vua Tống bảo : " Dụ chúng cứ tạm theo giặc để cho được yên; nhưng khi đại-binh tới, thì sẽ làm nội-ứng; sau khi thắng trận, sẽ có trọng thưởng " (19-4, G. Th, DL 24-5; TB 274/9a). Đối với tù-binh ta, vua Tống dặn : "Nếu có bắt được giặc Giao-chỉ mà chưa giết, thì dùng chúng làm hướng-đạo ". (2-3, DL 7-4; TB 273/14a).

Tống tổ chức gián-điệp ở đất ta, hình như không có kết-quả. Vua Tống phải chú ý đến việc lấy hư-danh, chức-tước để chiêu-hàng. (IX 6).

5.- An-ủi nạn-nhân
Ta đã thấy rằng Lý Thường-Kiệt đã tấn-công vào đất Tống, cố ý tiêu-hủy các căn-cứ của Tống ở Ung-châu, đốt phá hết quân-nhu lương-thực, phá-phách hết doanh-trại mà Tống có thể dùng để tập-trung quân uy-hiếp nước ta. Nhất là lúc rút về, quân ta đã áp-dụng chiến thuật thanh-dã, làm cho quân địch không thể dùng khê-động vào quân sự được nữa (TB 273/9a).

Công việc đầu tiên của Tống bấy giờ, là vỗ về dân bị nạn, để chúng sống trở lại.

Liền sau khi được tin Khâm, Liêm mất, vua Tống ban chiếu hẹn thưởng, cho quân hiệu-dũng nào giết được giặc và cho những kẻ có biệt-công (2-1, K. Vi, DL 9-3; TB 272/1a). Các quan văn, võ chết ở hai châu ấy, đều được tặng mười tư (3) (26-1, Q. Vi, DL 4-3; TB 272/9b). Các người hoặc có công, hoặc tử-trận, đều được thưởng hay tặng (4-2, C. Dn, DL 11-3; TB 273/4b, 5a, b, 6a). Riêng về Tô Giàm, tử-tiết ở Ung-châu, vua ban tặng rất hậu, thăng chức cho con và sai lập đền thờ (VII/cth 11). Cũng vì binh-lính Ung-châu theo gương Giàm, chống giữ đến chết không chịu hàng, cho nên những kẻ chết ở Ung-châu được tặng hậu hơn mọi nơi khác (7-3, N. Tu, DL 12-4; TB 273/15a). Các viên tri-châu, như Nùng Văn-Phú coi châu Thất-nguyên, bị quân ta giết, đều được tăng chức. (TB 274/3b)

Sau trận tấn-công của ta, dân-sự xiêu-giạt, người chết không ai táng. Ngày 6 tháng 3, vua Tống hạ chiếu cho các châu Ung, Khâm, Liêm phải chôn-cất hài-cốt các tử-sĩ, và bảo các chùa phải lập đàn thủy-lục đạo-tràng để làm chay cho những kẻ thiệt mạng. Các nơi đều tuân mệnh, lập những đàn rất long-trọng, dùng đến một nghìn vị sư (TB 273/14b). Đối với kẻ bị hại ở Quảng-tây mà không con, vua Tống sai lấy người bà con lập hậu; người ấy cũng được thưởng như con thật. (9-7, Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b)

Đối với dân sống-sót, vua Tống tỏ lượng khoan-hồng : tha thuế, thứ lỗi. Vua lại giục các quan địa-phương điều-tra sự thiệt-hại và liệu cách cứu-tế (4).

Ngày 9 tháng 7, viên coi Liêm-châu tâu rằng : " Ở Ung và Liêm, các trị-sở đã được làm lại. Ở Ung-châu, đã có sương-binh giúp. Xin cho dân Khâm và Liêm khỏi đi vận-tải lương-thực, và chỉ phải làm việc ở châu nhà mà thôi ". (Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b)

Đối với thân-sĩ các nơi bị hại, vua Tống cũng biệt-đãi. Ngày mồng 8 tháng 3, có chiếu lục-bổ cho những người học giỏi ở ba châu ấy, chứ không bắt thi (Q. Ho, DL 11-8; TB 273/15b). Ta còn nhớ rằng chính vì lẽ học giỏi mà không được dùng, nên Từ Bá-Tường đã phản Tống, xin theo vua Lý. Nhưng bấy giờ, mưu gian ấy chưa tiết-lộ, cho nên Bá-Tường cũng được bổ làm tuần-kiểm các châu Khâm, Liêm, Bạch (VII/cth2).

6.- Chiêu-dụ khê-động
Về đời Tống, phần tây Quảng-tây và Quí-châu bây giờ còn là đất cơ-mi, nghĩa là không bị chính-phủ trung-ương đặt quan cai-trị. Vùng ấy chia ra từng khoảng rộng như một châu, một huyện, dân-cư ở dọc những khe hoặc thung-lũng. Những khoảng ấy gọi là khê hay động. Cho nên gọi tên chung là vùng khê-động. Mỗi động có tù-trưởng, là người thổ-dân, tự cai-quản như là một chúa nhỏ. Tù-trưởng ấy nhìn nhận quyền trung-ương bằng cách nạp thuế, cống, chịu phục-dịch và chịu ban chức-tước. Vùng khê-động giáp nước ta là Tả-giang và Hữu-giang. (IV/2)

Lúc quân Lý Thường-Kiệt sang đánh Tống, đạo quân Tông Đản và Lưu Kỷ đã đánh vào các khê-động ấy. Phần lớn tù-trưởng hàng-phục, theo ta nổi lên đánh quân Tống. Sau khi quân Lý rút về nước, vùng Tả-giang và Hữu-giang hầu như hoàn toàn tự-lập, nhưng vẫn sợ vía quân ta.

Vì vậy, trong kế-hoạch đánh Lý, trước hết Tống phải tìm cách kiểm-soát lại vùng khê-động. Trong các chỉ-thị của vua Tống, ta thấy rõ-ràng những phương-tiện Tống dùng để đạt mục-đích ấy. Hoặc lấy lợi mà nhử, hoặc lấy uy mà hiếp, Tống ép các khê-động bỏ Lý theo Tống. Xong rồi, các quan Tống mộ quân trong các khê-động, để đem sang đánh ta; hoặc là đoàn-kết các khê-động, lập đồn-bảo để ngăn ta không tập-hậu quân Tống được. Đối với các tướng coi khê-động trung-thành theo ta, Tống sẽ dùng võ-lực đánh tỉa dần-dần.

Ngày 15 tháng 2 (T. Su, DL 22-3), lúc Triệu Tiết vào bái-từ để xuống miền nam trước Quách Quì, vua Tống Thần-tông dặn-dò căn-vặn : " Hễ dùng thổ-dân, có đưa thực-lợi thì mới sai được chúng. Chớ nên chỉ dùng lời ngọt mà thôi. Ngươi sẽ mộ vài nghìn thổ-dân mạnh-bạo; chọn tướng dữ-tợn để cai-quản, rồi sai chúng đi ép các dân động. Bảo những dân ấy rằng : đại-binh ta sắp tới qua vùng chúng; đứa nào theo ta thì được thưởng, không theo sẽ bị giết. Nếu chúng quả không theo, hãy giết đi vài ba họ để thị-uy. Lúc binh-uy đã có, ta sẽ bắt đầu ép Hữu-giang, rồi ép Tả-giang. Sau khi hai đạo ấy theo ta rồi, ta sẽ đánh sào huyệt Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên, không khó nữa ". (T Su, DL 22-3: TB 273/8b).

Tống chú ý đến Lưu Kỷ như vậy, vì Kỷ là một kiện-tướng giữ vùng Quảng Nguyên, sau khi Nùng Trí-Cao chạy sang đất Tống. Ta đã thấy rằng trước lúc đại-quân Lý vào đất Ung, Lưu Kỷ đã xung đột với con Trí-Cao là Nùng Trí-Hội (VI/5). Theo Tống sử (TS 495), trong đời Lý Thánh-tông, Lưu Kỷ đã có hiềm khích với Nùng Tông-Đán. Tuy sử ta không hề còn ghi tên Lưu Kỷ, nhưng ta cũng thấy rằng Kỷ giữ một trọng chức bấy giờ. Kỷ có 5.000 quân, luôn luôn uy-hiếp hữu-dực quân Tống. Không diệt được Kỷ, thì đường thông-lộ Ung-châu đến Lạng-châu, còn bị uy-hiếp, đường tiếp-tế quân viễn-chinh Tống sẽ bị đe-dọa luôn luôn, và quân ấy sẽ bị tập-kích.

Ngày mồng 8 tháng 5, khu-mật-viện Tống tâu rằng : "Tụi Lưu Kỷ, ở Quảng-nguyên, trước theo Giao-chỉ vào cướp đất ta. Nay sẵn có lòng hiệu-thuận, nhưng bị Giao-chỉ ép, nên không thể đổi chí-hướng đuợc. Y ở đó, thám-báo cho Giao-chỉ để lo tự-thủ yên thân. Vậy lúc đại-quân tới vùng y đóng, phải trừ tụi ấy đi ".

Vua Tống muốn dùng lối ôn-hòa, bảo Quì và Tiết nên dụ Lưu Kỷ, và hứa sẽ trọng-thưởng cho y, ban chức-tước, vàng, lụa, ruộng đất. Nhân đó vua Tống lại bảo phải đoàn-kết dân các động, để dự-bị việc đánh Lý. Dân động, hễ ai già thì để ở nhà cày, ai mạnh thì sung làm lính; cấp cho một ngày một thăng gạo, hai mươi đồng tiền. Vua dặn phải lập trại, rào chắn các nơi hiểm-yếu, luyện-tập dân-đinh, xem ai giỏi thì thưởng, ai đói thì giúp. (Q. Ho, DL 12-6; TB 275/5a).

Ngày 23 tháng ấy (M. Dn, DL 21-6), vua Tống lại có chiếu nhắc ti An-nam tuyên-phủ rằng : " Phải đoàn-kết Lưỡng-Giang ( Tả và Hữu). Hàng ngày cấp tiền ăn cho cuờng-tráng, sai huấn-luyện vũ-nghệ. Nếu lương khó chở vào, thì lấy tiền bạc trả thay. Ở Tả-giang, trước đây có những động theo giặc, nay nên dùng đủ cách chiêu-dụ trở lại. Nếu chúng không chịu nghe thì nên liệu cách mà dẹp. Nếu có thể kết-ước được các khê-động ở đất giặc gần biên-thùy, thì nên làm. Rồi thừa-hư mà đánh; tùy tiện thi-hành. Phải tuyển gấp binh-lính, mộ cường-tráng cho được năm sáu nghìn người và sai Lưỡng-Giang đoàn-kết binh-lực giúp nhau ". (M. DN, DL 21-6; TB 275/12b)

Vua Tống đã có ý lấy phẩm-hàm chiêu-dụ các tướng ta giữ biên-thùy, từ lúc ban đầu định xuất quân. Ngày 14 tháng giêng, định cấp 40 bằng trống tên cho ti chiêu-thảo; và ban riêng : hàm cung-bị-khố phó-sứ cho các tri-châu Vi Thủ-An ở Tô-mậu, Hoàng Sầm-Mãn Nùng Thuận-Linh ở Môn-châu; hàm tả-tàng-khố phó-sứ cho Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên, và hàm nội-điện-sùng-ban cho Sầm Khánh-Tân (T. Vi, DL 21-2; TB 272/4b)

Lại ngày 19 tháng 4, cấp cho ti chiêu-thảo 92 đạo bằng-sắc trống tên, để thưởng công và chiêu hàng. (G Th, DL 24-5; TB 274/9a)

Lúc Quì đã xuống Đàm-châu rồi, còn nhận được chiếu nhắc : " Phải yết-bảng chiêu-dụ thổ-tù để chia thế giặc " (5-7, K. Vi, DL 7-8; CN theo TB 277/1b).

Về việc chiêu-dụ khê-động, các tướng không đồng ý với nhau. Cho nên vua Tống Thần-tông và Vương An-Thạch có cuộc tranh-biện, mà sử còn chép (2-6, Đ. Ho, DL 6-7; TB 276/1b). Cuộc tranh-biện ấy làm cho ta hiểu rõ tình-trạng khê-động bấy giờ.

Nguyên là ti tuyên-phủ sai Khúc Chẩn, là phó tướng đạo quân Tả-đệ-nhị, coi việc đoàn-kết và huấn-luyện dân khê-động. An-Thạch không bằng lòng và muốn cử Ôn Cảo.

An-Thạch nói : " Chẩn người miền tây, không quen dân-tình khê-động. Nên dùng Ôn Cảo. "

Vua Tống không bằng lòng, nói : " Trước, Ôn Cảo đã nói : " dân khê-động Lưỡng-Giang theo giặc, ta không thể dụ chúng được nữa ". Việc đó, nói vậy không đúng. "

An-Thạch cãi : " Lúc quan-quân chưa tới, thì cấm chúng theo giặc sao được. Đã không cấm chúng được, thì phải nói thật rằng chúng theo giặc. Vả, hoặc có kẻ theo giặc để làm nội-ứng, đó cũng là hay. "

Vua bẻ : " Đã theo giặc, thì chúng phải làm con tin cho giặc; vả đến kẻ già hèn, cũng bị giặc dùng. "

An Thạch nói : " Sức giặc mạnh như vậy, quí hồ ta không xui dân khê-động hàng giặc; còn ra, cản sao được chúng. "

Vua không bằng lòng, nói dỗi rằng : " Nếu ta không xui chúng, thì chúng không dám theo giặc hết. "

An-Thạch nhắc lại : " Sức Giao-chỉ có thể uy-chế nổi Lưỡng-Giang, mà quân ta đã không tới cứu khê-động. Vì cớ gì chúng nó không theo giặc ?"

Vua kết luận : " Thế thì, chi bằng nay ta đoàn-kết chúng đi ! "

An-Thạch trả lời : " Tôi đã bảo làm rồi. "

Vua chê Ôn Cảo : " Ti tuyên-phủ tự xin đoàn-kết chúng; thế mà Ôn Cảo đã cho là không thể làm. Chẩn, tuy người miền Tây, nhưng cho sự tới Lưỡng-Giang có thể làm; còn Cảo quen với Lưỡng-Giang nhiều, lại không dám vào đó ! "

An-Thạch bênh Cảo : " Cảo, khi trước, đã xin vào đó, và đã vào sâu để đánh Giao-chỉ. "

Vua hỏi : " Sau, sao không chịu đi ? "

An-Thạch trả lời : " Vì sau Ung-châu mất, Cảo tưởng chưa nên đi. "

Vua hỏi lại : " Vì sao Cảo lại cho rằng đoàn-kết không được ? "

An-Thạch trả lời : " Cảo nói rằng dân động cày bừa mà không đủ ăn, cho nên khó lòng đoàn-kết chúng. Còn như sau này, Triều-đình sẽ giúp đỡ, chẩn-cấp cho chúng. Nếu bấy giờ, Cảo còn bảo không thể đoàn-kết được, thì sẽ mang tội. Chứ khi xưa, không có điều-kiện thuận-tiện như thế. Vậy, tuy Cảo có nói không thể đoàn-kết được, nhưng có tội gì đâu ! "

Vua nói : " Nay ti tuyên phủ đã xin cho khê-động tiền và gạo. "

An-Thạch nhắc lại : " Lúc Cảo nói không thể đoàn-kết được, thì chưa hề nghe nói có chi tiền gạo cho chúng gì cả. "

Xét câu chuyện cãi nhau trên, ta thấy vua tôi Tống cũng đồng ý phải lấy tiền gạo cho dân khê-động, thì mới dụ chúng theo và đăng lính giúp Tống. Dẫu tốn bao nhiêu cũng phải làm, y như lời vua Tống dặn Triệu Tiết : " Quách Quì tính hà-tiện. Khanh nên dụ y rằng triều-đình không sợ tổn-phí đâu " (15-2, T. Su, DL 22-3; TB 273/8b).

7.- Dùng lục-quân
Chủ-lực Tống là bộ-binh. Quách Quì và Triệu Tiết đều là tướng giữ bắc-thùy, quen với lính cưỡi ngựa vùng cao-nguyên và sa-mạc. Vả hai mươi năm về trước, sở dĩ Địch Thanh thắng Nùng Trí-Cao ở phía nam ải Côn-lôn, chính là nhờ kị-binh đưa từ miền bắc xuống, đột-xuất chỗ đất bằng rồi đánh kẹp vào hai bên quân Trí-Cao. Thấy mình thua vì thiếu ngựa, cho nên Trí-Cao đã có ý chạy về đạo Đặc-ma tìm mua ngựa (IV-3).

Vì hai lẽ ấy, trong cuộc nam-chinh lần này, Quách Quì đã đem theo một vạn ngựa.

Đại-binh sẽ kéo xuống, tập-trung tại Ung-châu, phân-phối ra các trại trên đường thông-lộ sang Quảng-nguyên, Lạng-châu, Tô-mậu và Vĩnh-an. Rồi hai cánh đánh vào Quảng-nguyên và Vĩnh-an để chắn đường quân ta tập-hậu. Xong, sẽ đưa đại-quân theo đường chính vào Lạng-châu, qua các sông Đào-hoa (sông Thương), sông Nam-định (sông Cầu), sông Lô (Nhị-hà), đến tận kinh-thành Thăng-long (X/1).

Phần tinh-nhuệ quân Tống là kị-binh, kị-binh là quân xung-phong chọc thẳng hàng-ngũ địch, dẫn đường cho Bộ-binh. Kị-binh lại là "kỳ binh", nghĩa là quân đánh những chỗ bất ngờ. Dùng sự ngựa chạy lanh, và qua những gai gốc, đá sỏi dễ, kị-binh có thể, lúc vướng chỗ này, chạy quanh chỗ khác, để bọc hai bên hông quân địch.

Nhưng muốn lợi-dụng kị-binh để phá địch, thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm-trở, tới chỗ bằng, để cho ngựa xông-xáo dễ-dàng.

Bên ta thì thiện-chiến về voi. Trong trận Ung-châu, ta đã đem voi theo được (VII/2), huống chi trên trận-địa nước nhà. Thế thủ của ta lại dựa vào sông núi, các đèo hiểm-trở, các sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh-bình vào Lạng-châu, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết-lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng-sơn đến Đồng-mỏ ngày nay, vào khoảng làng Nhân-lý, ở phía bắc Ôn-châu (5). Rồi phải qua dãy núi lèn (đá không pha đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm : đó là ải Giáp-khẩu, tức là ải Chi-lăng, ở phía bắc huyện Hữu-lũng thuộc Bắc-giang ngày nay. Cuối đời Đinh, Hầu Nhân-Bảo, là tướng Tống đã bị chết ở đó ; và đời sau, Liễu Thăng là tướng Minh cũng bỏ mình ở chốn ấy.

Đèo-ải tuy hiểm, nhưng có thể dùng kị-binh hoặc vượt qua, hoặc len lỏi qua rừng để tránh. Còn sông sâu rộng, thì ngựa khó lòng qua nổi. Phòng thủ sông khá dễ ; đóng cọc và dùng rào giậu ở bờ nam, cũng đủ ngăn quân địch.Vả chăng thủy-binh ta, từ đời Ngô, đã lập nhiều chiến-công lừng-lẫy. Thế sông ở trung-nguyên lại rất tiện cho thủy-chiến. Sáu ngành sông châu về Vạn-xuân (Vạn-kiếp). Đó là căn-cứ tự-nhiên của thủy-quân ta. Hoặc phải ra cửa Bạch-đằng chắn quân thủy địch, hoặc phải vào sông Đào-hoa (sông Thương), hoặc phải vào sông Nam-định (sông Cầu), hoặc phải sông Thiên-đức (sông Đuống), để chắn địch qua sông ; ta chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục-đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.

Vì vậy, tướng Tống đã nghĩ đến dùng thủy-quân giúp sức Bộ-binh để qua sông.

8.- Dùng thủy-quân
Tống không có thủy-binh sẵn. Chưa hề phải vượt bể, bộ-đội Tống không có chiến-hạm. Lúc hữu-sự, mới sung-công hay chế tạo thuyền mành, và chiêu-nạp hay cưỡng bách dân chài dọc bể tòng-quân.

Từ đầu năm, có Dương Tùng-Tiên dâng sớ tâu rằng : " Xuất quân đường bể là tiện. Tôi muốn mạo-hiểm qua đại-dương, vào sâu tới góc tây-nam, quanh sau lưng giặc, đánh vào chỗ bỏ trống. Nhân đó, tôi xin đem binh bảo Chiêm-thành, Chân-lạp cùng ta đánh Giao-chỉ ". Ngày 18 tháng 3, vua Tống bằng lòng, và bổ Tùng-Tiên làm chiến-trạo đô-giám, thuộc An-nam-đạo-hành-doanh. (Q. V1, DL 23-4 ; STCT, theo TB 273/20b)

Nhưng Tùng-Tiên bất lực. Đến tháng 6, cũng chưa sửa-soạn được gì. Ngày mồng 1 tháng ấy chuyển-vận-sứ Quảng-đông là Trần Xảnh còn xin " chọn quan có kinh-nghiệm về thủy-chiến để soạn thủy-quân " (A. Zu, DL 4-7 ; TB 276/1a)

Đến hạ tuần tháng 6, cũng chưa quyết-định kế-hoạch về thủy-quân một cách rõ-ràng. Các người phụ-trách vẫn bàn-cãi mà không hợp ý. Ngày 17 tháng 6 (T. Su, DL 20-7 ; TB 276/10a), ti An-nam chiêu-thảo tâu rằng : " Theo lời Tô Tử-Nguyên, triều-đình định sai tướng tới Chiêm-thành, Chân-lạp, bảo chúng đánh Giao-chỉ. Quảng-đông đã dư- bị chiến-thuyền xong. Nhưng gió bể chưa nhất-định. Cho nên khó đi đến nơi được. Vả Chiêm-thành sợ Giao-chỉ. Còn Chân-lạp, dân chưa hề tới buôn-bán ở Quảng-châu ; cho nên ta chưa dò được tình-hình nước ấy. Nếu khi thủy-quân ta tới các nước ấy, mà chúng nghi-sợ điều gì, thì sẽ nguy cho ta. Vậy xin bảo Tùng-Tiên đình việc tiến thủy-binh từ các châu Khâm, Liêm. Tử-Nguyên lại có bàn thêm rằng : Trên đường bộ, tiến binh đến kinh-thành giặc còn bị cách sông lớn. Người Giao lại giỏi thủy-chiến. Sợ thuyền giặc giữ các chỗ hiểm ; đại-binh ta khó lòng qua được. Rồi đêm đến, giặc xông tới đánh, thì việc ta hỏng mất..." (T. Su, DL 20-7; TB 276/10a).

Theo ý Tử-Nguyên, nên thôi đừng dùng kế xui Chiêm-thành, Chân-lạp đánh biên-thùy miền nam nước ta. Trái lại nên đem thủy-quân vào trong cõi nước ta, để hợp-chiến với lục-quân, và nhất là để giúp lục-quân qua các sông. Vẫn lời ti chiêu-thảo tâu : " Vậy xin hạ lệnh cho các ti kinh-lược, chuyển-vận Quảng-đông phải tuyển thủy-binh, chọn những người dũng-cảm rồi dạy thủy-chiến cho chúng. Sau này, sẽ từ Quảng-châu, theo bờ bể, chỉ tiến tới Liêm, Khâm mà thôi, rồi đậu thuyền đợi đó. Lúc nào đại-binh tiến, sẽ hẹn ngày sai thủy-quân cùng vào Giao-châu đánh giặc. Thủy-quân sẽ tách ra một phần thuyền, ghé vào bờ bắc sông để chở đại-quân qua ".

Ti chiêu-thảo lại dẫn lời Tùng-Tiên bàn : " Theo Dương Tùng-Tiên tâu, đường thủy-quân và lục-quân tiến vào Giao-chỉ là : lục-quân chẳng qua từ Ung-châu đến Tả-giang, Hữu-giang, đi các đường qua các trại Hoành-sơn, đến biên-giới gần động Giáp và Quảng-nguyên ; thủy-quân chẳng qua tiến từ Khâm, Liêm. Nhưng thế nào Giao-chỉ cũng phòng-bị cẩn-thận. Nếu ta không dùng quân giấu kín để đánh chỗ bất ngờ, sao tính được ngày thắng chúng ? Theo lý ấy, nên định vào tháng chín, sẽ phát thuyền từ Quảng-châu, nhân gió bắc, vượt bể tắt qua Chiêm-thành, Chân-lạp. Rồi từ đó, hẹn ngày cùng ti chiêu-thảo mà tiến vào nước Giao-chỉ ". Ý Tùng-Tiên trái với ý Tử-Nguyên. Tùng-Tiên chỉ muốn vào dụ các nước ở phương nam nước ta, hẹn ngày vào đánh ta cùng một lúc với quân Tống.

Ti chiêu-thảo bác lời Tùng-Tiên, và dẫn lời Trần Xảnh làm chứng : " Lại theo chuyển-vận-sứ Quảng-đông là Trần Xảnh nói từ trước, sự đi thuyền vào Chiêm-thành, Chiêm-lạp (tức là Chân-lạp) phải tránh khoảng từ tháng 9 đến tháng chạp, vì sợ bão. Bắt đầu từ tháng giêng, có gió bắc, mới vượt bể được ". Rồi ti chiêu-thảo kết luận rằng : " Xét ra, bản-ti thấy lẽ của Dương Tùng-Tiên vụng-về, và kế của Tô Tử-Nguyên hay. Vậy xin triều-đình định liệu. " (TB 276/10b)

Triều-đình trả lời : " Cứ theo kế hay mà thi-hành. ". Như thế đủ biết triều-đình Tống không có định-ý và ít quan tâm đến thủy-quân.

Sau này, Dương Tùng-Tiên vẫn được giữ chức chiến-trạo-đô-giám và y tìm cách thi hành vừa kế của Tử-Nguyên vừa kế của mình. Kết quả là không thực hiện được kế nào cả, vì thủy-quân Tống không đủ sức.

9.- Chỉ-thị đại-cương
Tống đánh ta chuyến này, dự-bị như thế thật là cẩn-thận. Ấy bởi lẽ Vương An-Thạch lượng thấy sự thắng trận sẽ có ảnh-hưởng tốt cho mình và cho nước rất nhiều.

Vả, đã hai lần quân Tống đụng với quân ta, mà hai lần bị thua : thua Lê Hoàn và thua Lý Thường-Kiệt. Đó là chưa kể bị thua Nùng Trí-Cao nữa. Vì vậy, vua tôi Tống không dám khinh-nhờn ta. Trong những lời vua Tống dặn-dò các tướng, hai ý ấy được nhắc tới luôn luôn.

Ngày 28 tháng 6, vua dặn Quì rằng : " Tuy ở biên-thùy bắc, Quách Quì đã phân phát kế-hoạch đề-phòng cho các tướng ở lại đó, nhưng người bắc thấy triều-đình bận việc nam-chinh, chắc muốn quấy. Vậy phải lo việc An-nam cho chóng xong. " (N. Ti, DL 31-7; CN, theo TB 276/14a).

Phải đánh chóng xong, đó là câu vua Tống luôn luôn nhắc. Vua lại bảo : " Nếu có một vài khê-động không quan hệ chưa chịu hàng, như tụi Dương Quang-Tiềm ở Thiện-châu, thì cũng làm ngơ, chớ nên lưu đại-binh lại đó, vì sẽ có hại cho việc nam-thảo. " (Chiếu 16-7, K. Ti, DL 17-8; CN và TB 217/3b).

Sáu ngày sau (A. Ho, 22-7, DL 23-8) có chiếu gửi cho Quách Quì ở Đàm-châu, dặn rằng : " Có tin báo nói giặc đã về sào-huyệt; ngày ngày tụ-đảng tập binh-lính, nhóm họp voi ngựa, tập-duyệt phép chạy, phép xung-phong. Thứ Man này vốn là giảo-hoạt. Nay nó lo sợ có hoạn-nạn lớn, trí gian của chúng ắt nghĩ ra những ý mà ta không đoán trước được. Vậy ta đáng sợ rằng trong tháng 8, chúng nó quả-nhiên lại đánh Ung-châu. Hãy xét có tướng-quan nào trung-dũng, thì sai dự-bị để tiếp-chiến với chúng. Ta lo sẽ có hại đến đại-sự đó ! Vậy khi đem quân thâm-nhập vào cõi chúng, ta phải đánh cho chóng được. " (22-7, A. Ho, DL 23-8; CN, theo TB 277/4b)

Từ khi quân đã xuống miền nam, vua Tống Thần-tông ngay-ngáy lo quân mình đánh sẽ không thắng-lợi. Có Thạch Giám được bổ coi Quế-châu. Nhân vào chầu vua Tống, Giám tâu rằng : " Người Giao-chỉ cơ-trí, gian-xảo. Thật không thể khinh-nhờn ". Vua Tống liền sai hoạn-quan Thuấn Cử mang chiếu xuống dụ Quách Quì : " Theo Giám nói, giặc Giao-chỉ mạnh, gan, liều chết. Chúng chỉ kém quân nước Hạ mà thôi. Theo đó, đi đánh lần này, có can-hệ đến sự an-nguy cho Lưỡng-Quảng. Bốn phương nhìn về. Nếu ta không vạn toàn thắng hẳn, thì bất-tiện cho nước đó. Nên cẩn-thận ! ". (16-8, K. Ho, DL 16-9; CN, theo TB 277/9b).

10.- Dư-luận
Kẻ muốn chiến-tranh là vua Tống, kẻ mưu chiến-tranh là Vương An-Thạch. Tuy An-Thạch được trở về ngôi tể-tướng, nhưng thế-lực cũng kém dần. Về nội-trị hay ngoại-giao, thường bị chỉ-trích gay-gắt.

Lễ-bộ thị-lang Vương Thiều đã tranh-biện kịch-liệt, chủ trương không muốn gây việc binh-đao, muốn nuôi dân-lực và bớt phí-tổn cho nước. Vì thế, Thiều đã sinh hiềm-khích với An-Thạch. (TB 280/14a).

Cho đến lão thần Phú Bật đã về hưu, cũng còn lo ngại. Tháng 6 năm ấy, ông dâng sớ tỏ lòng thắc-mắc. Lời tâu như sau : " Tôi về ở chốn cỏ-gianh, không biết đến nhân-sự. Mới đây, nghe Man Lào (nói quân ta) phạm cõi, gieo họa cho Lưỡng-Quảng.

" Mà nay, dân mất mùa. Nên tha thuế, giúp-đỡ dân. Đợi lúc Lĩnh-nam yên-ổn, mùa-màng khá, rồi lại lo việc đánh Giao-chỉ, thế cũng chưa muộn...

" Người ta lại đồn rằng : giặc Man cướp rất nhiều, rồi đã lập-tức trốn về. Như thế thì không cần đánh vội. Nhưng vương-sư đã ra đi, ắt là để đánh chúng. Quân thủy lục đã tiến, uy đức đã ban. Bệ-hạ nên hạ chiếu cho Quách Quì tới Lưỡng-Quảng, xét định kỹ-càng về việc công-thủ thế nào, rồi tâu về. Nếu có thể đánh được thì đi. Nếu không, thì nên liệu cách khác để cho toàn danh-vọng của vương-sư " (TB 276/14b).

Lời tâu ấy, hình như không được vua chú ý tới.

Ngô Sung một tể-thần ở triều, cũng không bằng lòng cuộc nam-chinh, nhưng cũng phải gượng theo vua và An-Thạch. An-Thạch bảo : " Đánh Giao-chỉ chắc được ". Mà Sung nói : " Đánh được cũng vô ích ".

An-Thạch muốn cho Triệu Tiết làm thống soái, vua theo ý Ngô Sung, lại cử Quách Quì (VIII/1). Tiết đã miễn-cưỡng cử Quì và xin làm phó. Cho nên hai tướng bất-hòa; đến nỗi hiệu-lệnh bất-nhất. Tiếng vang về đến triều-đình. Đến lúc đại-quân Tống sắp vào nước ta mà hai tướng vẫn còn cãi-cọ (X/5). Khi tin ấy báo về triều, vua Tống phê rằng : "Quì, Tiết phải biết rằng triều-đình đã giao cho trọng-trách. Thế mà ta nghe rằng các ngươi bàn-luận, thường không ăn-ý nhau. Vậy, phàm việc gì cũng phải theo lệnh trên; trong khi thương-nghị, chớ có giằng-co nhau. " (21-10, G. Th, DL 20-11; TB 278/9a).

Sách TB chép lại chuyện nầy có thêm rằng : " Nguyên Quì với Tiết vẫn thích nhau, cho nên Tiết mới cử Quì. Nhưng lúc gặp nhau, bàn nhiều chuyện, Quì bị Tiết cãi. Lại có hoạn-quan Lý Thuấn-Cử tức Tiết đã gạt bỏ hoạn-quan Lý Hiến, cho nên cũng ghét Tiết. "

Các đại-thần khác, thấy vua không hỏi ý-kiến triều-đình, đều lấy làm bất-mãn. Chúng nhao nhao bàn-bạc, dâng sớ, hoặc để can-gián, hoặc để hiến mưu. Đến nay còn vài bài luận về việc chinh-nam, trong đó có hai bài rất dài bàn đủ mọi lẽ : một bài của tiến-sĩ Triều Bổ-Chi (VKT 9), và một bài của đại-thần Trương Phương-Bình (VKT 9 và TB 276/18b). Sau đây sẽ lược ý hai bài ấy.

11.-Ý-kiến Triều Bổ-Chi
Triều Bổ-Chi là một văn-thần; thấy dư-luận xôn-xao, ai cũng muốn dâng mưu-kế, nên cũng dâng sớ. Tuy lời văn sáo, lý-luận suông, nhưng sớ ấy cũng cho ta biết một vài điều về tình-hình binh-bị Tống. Triều Bổ-Chi lại là người độc-nhất bàn đến những cớ có thể làm cho quân Tống có thể thất-bại. Những cớ ấy sau nầy sẽ thành sự thật. Bài sớ rất dài. Sau đây chỉ lấy đại-ý mà thôi.

Bổ-Chi muốn chứng rằng xuất-quân chắc được, mà cũng có thể không thành công. Mặt nào, y cũng viện ra lý; mà mặt nào cũng tìm đủ vừa năm lý !

A - Đánh chắc được, vì những lẽ sau :

1). Giao-chỉ đã cướp đất Tống,Tống đem quân đi hỏi tội là có danh-nghĩa.

2). Bầy tôi Tống đều trung-thành và có nghĩa-khí. Xem chuyện Tô Giàm thì rõ. (VII/8)

3). Từ khi Tống Thần-tông lên ngôi, vũ-bị được chấn-hưng. Nay binh mạnh, khí-giới nhiều.

4). Giao-chỉ là một nước nhỏ. Chỉ cần biên-tướng cũng đủ phá. Thế mà nay phát đại-binh đi đánh.

5). Các tướng Tống có nhiều mưu, và đã bàn cùng vua kỹ-càng. Còn Giao-chỉ kiêu-căng nhưng ngu-muội.

B - Có thể không thành công, vì những lẽ sau :

1). Đến lúc cùng-túng quá, Giao-chỉ sinh gian-giảo. Có thể giả tỏ vẻ hèn để lừa quân Tống.

2). Đất Giao-chỉ nóng-nực, nhiều lam-chướng, nhiều rắn-rết.

3). Quân Tống phải đi đánh xa, lương-thực rất khó liệu đủ. Mà muốn lấy lương địch để nuôi quân mình, thì đất Giao-chỉ nhỏ bé, vốn không đủ nuôi dân-chúng.

4). Đất Giao-chỉ nhiều rừng núi, khe ngòi. Quân Tống chỉ quen dùng xe, ngựa, là lợi-khí đồng bằng. Quân địch lại quen đường lối. Quân Tống dễ bị du-kích.

5). Quân Tống mộ ở Hà-bắc, Kinh-đông, gồm một nửa lính mới. Ấy toàn những lũ dân du-đãng, nay cùng thế, mới đăng lính. Chúng rất ô-hợp, khó điều-khiển và không có dũng-khí.

Kết luận đoạn nầy, Bổ-Chi khuyên không nên đem đại-quân đi đánh, mà chỉ nên lập đồn giữ biên-thùy và bờ biển mà thôi.

Nhưng y vẫn bàn đến chuyện đánh. Đoán kế-hoạch của địch, Bổ-Chi nói :

"Giao-chỉ dùng không ra ngoài ba kế sau :

"Một là Giao-chỉ cố-thủ các cửa quan không chịu ra, để làm cho quân Tống đóng lâu, bị mỏi. Nếu quân Tống rút, quân Giao sẽ tiến. Nếu quân Tống quay trở lại, quân Giao lại về giữ cửa quan. Làm như thế, vùng biên-thùy sẽ rất khổ. Đó là thượng sách của địch.

"Hai là Giao-chỉ bỏ hở các cửa quan để khiêu-chiến, nhử quân Tống vào chỗ đặt phục-binh. Quân Tống sẽ không tiến không lui được. Đó là trung-sách.

"Ba là Giao-chỉ bỏ các cửa quan, xông ra chiếm đồn trại của Tống. Chúng sẽ bị đánh tan. Đó là hạ-sách. "

Bổ-Chi, ức-đoán hành-động quân ta, và đề-nghị cách đối-phó. Y nói tiếp:

"Giao-chỉ không thể thi hành thượng-sách được, vì cần phải có ngoại-viện. Vậy nên sai sứ tới biên-thùy, dụ dỗ các man-dân theo Tống, để cắt chân-tay của địch.

"Nhưng Giao-chỉ có thể vừa dùng thượng và trung sách. Bổ-Chi khyên nên đem đại-quân tới gần các cửa quan. Hoặc trương bày cho địch thấy, rồi sai quân tinh-nhuệ đi đường tắt đánh quanh. Làm như thế để đối-phó với thượng-sách địch. Hoặc giấu đại-quân, rồi sai quân kỵ giả cách trúng kế khiêu-khích của địch, chia ra hai cánh đánh vào địch. Nếu địch lui thật, thì cứ đuổi theo; nếu địch xông ra đánh lại, thì giả cách rút lui, nhử địch vào chỗ phục binh của Tống. Làm thế để đối-phó với trung-sách địch.

"Khi Giao-chỉ dùng thượng và trung sách đều thất-bại, cùng túng, chúng sẽ xông ra đánh. Đó là hạ-sách của chúng. Giao-chỉ sẽ tan. "

Bổ-Chi vẫn đuổi theo lý-luận:

"Bị thua, Giao-chỉ chạy trốn. Tống nên đóng binh lại, chớ đuổi theo xa. Hoặc Giao-chỉ chạy vào chỗ hang cùng; theo vào đánh thì như chuột ngoài vào cắn chuột trong hang, chuộc trong chắc được. Hoặc Giao-chỉ chạy ra bể; theo thì quân Tống nhát sóng, hơi có gió đã sợ rồi, không biết sẽ chiến-đấu làm sao ? Vả người Giao-chỉ giỏi thủy-chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói chúng có kẻ đi chìm dưới đáy bể mươi dặm mà không thở (!).Và nay, thuyền buôn thường gặp giặc bể, bị chúng lặn dưới nước đục thuyền. "

Đó là chứng cớ rõ-ràng quân Tống sợ thủy-quân ta.

Giấc mộng nhà nho vẫn kéo dài. Tuy Bổ-Chi nói nước Tống đất rộng của nhiều, cần gì lấy đất và của báu Giao-chỉ, chỉ cần phạt-tội cho nó hiệu-thuận mà thôi, nhưng y vẫn bàn đến sự tổ-chức sau khi bình-định. Y khuyên nên theo cũ, chọn tướng-súy tốt và giỏi, đặt làm thứ-sử và thái-thú, mộ thổ-binh để tự-vệ, mộ những kẻ hoặc ham công-danh, hoặc muốn báo thù, hoặc muốn chuộc tội , hoặc bất-đắc-chí tới đó ở. Rồi Bổ-Chi kết luận :

"Đó là kế lo cho trăm đời. "

Kể ra lý luận chính trị Bổ-Chi đã rất cao, mà óc thực-dân y cũng đã mạnh !

12.-Ý-kiến Trương Phương-Bình
Sau đây sẽ tóm tắt bài thứ hai, mà Trương Phương-Bình đã dâng vua hồi tháng 6, trước khi quân Tống tập-trung tại Ung-châu. Bài này tóm-tắt mọi phương-diện của cuộc chiến-tranh Lý-Tống bấy giờ : cớ ta đánh Tống, việc ta tấn-công Quảng-tây, kế-hoạch Tống báo thù, và dư-luận của phái phản đối Vương An-Thạch.

Trong khoảng đầu, Phương-Bình nói việc Lý đánh Tống :

"Từ đời Lý Nhật-tôn, Giao-chỉ bỏ việc cống. Triều-đình đã rộng lượng tha cho, không hỏi tội. Biên thần đã cẩu-thả sao-nhãng sự canh-phòng. Tụi hung-hãn, trộm-cướp, có kẻ bị giam đày mà bỏ trốn. Binh cũng có đứa ngoan-ngạnh, bỏ trốn sang giúp giặc. Cho nên Càn-đức mới dám trái vương-mệnh, dùng nhiều người Hoa.

"Vả, ngày trước (đời Lê Hoàn), triều-đình sai sứ (Lý Cảo) đến Giao-chỉ. Sứ đã thấy trong thành chúng không có dân-cư; chỉ có phủ-xá ẩm-thấp, vài trăm khu nhà gianh để lính ở. Binh-khí chỉ dùng cung nỏ, còn mộc bài, thuẫn, thương, trúc-thương, chúng hèn không dùng nổi. Thế lực chúng không đáng làm cho Trung-quốc sợ. Cho nên ta đã khinh-dể.

"Trong đời Cảnh-đức (Tống Chân-tông 1004-1008), họ Lý trộm chiếm bờ cõi (thật ra Lý lên ngôi năm 1010). Từ đó đến nay đã hơn bảy mươi năm. Người nước ta lâu ngày không đến đó, nên không biết tình-hình hư thực thế nào. Nay nghe nói kinh-đô chúng có thành, hào mấy từng; binh-lực, dân-chúng sung-túc. Chúng lại đánh được các nước nhỏ lân-bang. Thế-lực chúng, so với trước, thì mạnh hơn nhiều.

"Thế mà, biên-lại quen thói cũ, vẫn khinh thường, không lo. Cho nên mới sinh sự. Man-dân có đứa hung-hãn, làm cho Giao-chỉ không chịu nổi. Giao-chỉ tố-cáo thì không nghe; gửi thư kêu thì không chịu nhận. Sự-tình ủng-tắc, chứa thành oán giận.

"Đến lúc chiến-hạm chúng tới bờ bể ta, đại-quân chúng tới gần thành ta, thì như là đến chỗ không người. Quân ta không lo dự-bị chống lại chút nào. Quân giặc đến đâu, thành-ấp đều bị vét sạch. Cướp của-cải, bắt con gái, đàn bà. Chúng tham-lam rất mực, tha-hồ làm khốc-hại. Tôi nghe chuyện mà đau lòng... "

Đoạn thứ hai rất dài, bàn về tương-lai, và việc sửa-soạn đánh ta. Sau đây, sẽ rút lấy đại-ý mà thôi :

"Nhưng đó là chuyện cũ. Về tương-lai tôi xin hiến chín điều :

1. Nay các vùng Hoài, Điện (kinh), Lưỡng-Chiết, Giang-đông, Giang-tây, Hồ-nam, Hồ-bắc đều bị đói kém. Vậy nên dùng mẹo mà chế giặc, chớ nên dùng binh. Nên chọn hai thú-thần rất giỏi để trấn-thủ hai nơi Quảng-châu và Quế-châu, hãy chọn-lọc kẻ giúp việc cho kỹ để trị dân. Đem cấm-binh giữ các lộ Kinh-hồ. Mộ thổ-đinh để giữ thành-ấp gần biên-thùy. Đóng trại ở các chỗ yếu-hại, để cứu lẫn nhau. Làm như thế, thì giặc thôi không giám dòm-ngó đất ta nữa.

"Đó là thượng-sách. Nhưng nếu nghĩ r ng đã cất quân đi thì không lui được, tôi cũng xin hiến những điều sau, gọi là trung-sách.

2. Giặc vào cướp, đã trở về sào-huyệt được mấy tháng rồi. Tuy triều-đình đã thưởng công, suy ân, nhưng còn thiếu. Nên ban lời an-ủi xuống Kinh-hồ, Quảng-nam để tỏ lòng thương xót của Bệ-hạ. Nên tha-thứ cho kẻ có tội để cho lại-tốt không có lòng phản-trắc. Nên thưởng các tù-trưởng để chiêu-dụ khê-động. Nên chôn-cất tàn-cốt, tế-tiếu vong-hồn.

3. Sáu lộ đông-nam bị đói. Quan không có tiền cứu giúp. Lại thêm các phép thanh-miêu, trợ-dịch, thị-dịch, làm dân khốn-khổ vì việc đài-tải. Trước hết, xin bỏ phép trợ-dịch ở bốn lộ Kinh-hồ nam và bắc, Quảng-nam đông và tây, và quay lại cựu-chế, để gọi là tuyên bố đức-trạch.

4. Giặc không đông và không đủ mưu-trí bằng Trung-quốc, sở-dĩ chúng giám phạm đất ta, là vì chúng ỷ-thế núi bể hiểm, rừng bụi rậm. Nhân ta không phòng-bị, chúng mới được mãn ý. Nay tôi nghe rằng đất Giao-chỉ hiểm-trở, đường rừng khó qua. Năm trước, chúng đem voi vào cống, có dọn đường cho voi đi, nhưng đi xong, cây cỏ lại mọc đầy. Đường vào nước chúng coi chừng rất khó, chỉ có chúng biết rõ mà thôi. Nay, chúng đã kéo về hết. Sự ta đánh chúng không gấp nữa. Ta phải lo sao cho toàn-thắng. Nay ta đem đi mười vạn quân, mỗi ngày tốn ngàn lượng vàng. Nhưng binh giỏi không nên đưa vào đất độc, ngựa hay không nên ruổi trên đường hẹp. Doanh trại không chỗ đóng, đường tải lương không chỗ thông. Binh nhiều không chỗ dàn, xe-cộ không thể dùng được. Như vậy, đến lúc của hết lực kiệt, sẽ rất hại cho uy nước. Nếu ta sang đánh bây giờ, mà mùa đông này giặc chưa tan, thì mùa xuân sau, quân ta ắt phải lui, rồi lại soạn-sửa tiến một lần nữa. Tôi cho rằng làm như vậy khó thành công.

"Vả bây giờ, Lĩnh-nam đã có vạn quân, giặc sao dám vào quấy. Huống chi các vùng Hoài, Chiết-giang, Kinh-hồ bị đói kém. Ta nên để quân đóng lại vùng Tương, Đăng (Tương-dương và Nam-dương, hai chỗ nầy đều ở Kinh-tây nam-lộ, hay Hà-nam bây giờ), là hai vùng được mùa. Làm như vậy, dân khỏi phải đi đài-tải, mà binh no, ngựa béo. Đến cuối thu, ta lại phát-binh. Như thế thì nhuệ-khí rất nhiều. Ta chắc thắng.

5. Tôi xét việc đánh Man, có thể dùng mẹo, chứ khó dùng sức. Huống chi Giao-chỉ, tục không giống Man khác. Các Man khác từ trước đến sau, đều phục-tùng một họ quí-chủng mà thôi. Còn ở Giao-chỉ, thì từ khi quốc-triều lập lên, thủ-lĩnh đã đổi đến bốn họ (Ngô, Đinh, Lê, Lý), mà đều là đại-tướng lên cướp ngôi chúa. Đó là thói quen của các phiên-trấn cuối đời Đường. Vì vậy, thế Giao-chỉ dễ lật đổ. Càn-đức còn nhỏ. Những kẻ giúp việc đều theo ba người (5). Năm nay, khi chúng vào cướp đất ta, chúng lấy được nhiều vàng, lụa, con gái. Chắc chúng sẽ tranh-giành nhau khi chia của. Chúng sẽ chia thành ba bộ, do ba tù-trưởng cầm đầu. Rồi chúng sẽ khai-hấn lẫn nhau. Bấy giờ ta đánh càng dễ.

6. Lâm-ấp ở phía nam Giao-chỉ. Từ đời Đường, tới cống ta luôn. Đời quốc-triều ta, vì bị Giao-chỉ chia cách nó mới đình cống. Đời Tấn, Tống, Lâm-ấp thường xâm vùng Nhật-nam, Cửu-chân. Cuối Đường, hợp với Lào, (Nam-chiếu), nó lại hãm Giao-chỉ, và gây mối lo cho Trung-quốc.

"Vậy nay, Lâm-ấp rất có thể làm hao-tổn Giao-chỉ. Vả Lâm-ấp cách kinh đô Giao-chỉ 1.000 dặm, lại chung với Giao-chỉ đất Tượng (ba châu mới nhường cho ta). Nay từ Quế-châu tới Ung-châu còn 14 ngày đường; như thế thì Lâm-ấp tới Giao-chỉ còn gần hơn.Vậy ta nên mộ sứ tới dụ Lâm-ấp diệt Giao-chỉ, rồi hẹn ngày cùng vào đánh. Nếu phá xong Giao-chỉ, ta sẽ cho nó Nhật-nam (Quảng-bình trở vào), Cửu-đức (Hà-tĩnh). Man-di tham lợi. Cứ hẹn như thế, chắc nó sẽ gắng sức làm.

7. Hậu-quân đi nam-chinh, nay còn ở phủ này (kinh), đợi ngày xuất quân. Ngoài quân của tướng Nam-kinh, lại còn có chừng 2.500 kị-binh ở châu Kinh, Nguyên, Tần, Lũng. Các quân đã hẹn đến tháng 7 sẽ tới đây. Mùa hạ và mùa thu nóng-nực. Mà đến Quế-châu đã phải đi vạn dặm rồi. Vả ở Giao-chỉ, như trên đã nói, núi rừng rất hiểm; người không qua lại được, ngựa sẽ khó dùng. Trước kia, khi Nùng Trí-Cao nổi loạn, Địch Thanh phá giặc ở vùng tây-bắc Ung-châu. Đó là chỗ ngoài núi, địa thế rộng, phẳng. Ngựa có chỗ thi sức, cho nên mã-quân đã có công to. Nay thì khác, Trí-Cao chỉ là một thủ-lĩnh khê-động, vào đất ta mà cướp. Còn Giao-chỉ là mộït nước, lại có đất-đai xa và hiểm.

"Quân ta lấy ở Tần, Vĩ, và quân cung-tiễn-thủ (bắn cung) vốn để phòng-ngự các rợ Khương, Nhung ở mặt bắc. Quân tốt ấy, ngựa hay ấy, tới kinh-sư mà còn chưa chịu được thủy-thổ, huống chi là xua chúng vào nơi hiểm-độc. Đã không dùng chúng ở đó được, mà khi trở về, sẽ còn sống được bao nhiêu ? Huống chi giặc Nhung ở mặt bắc, chăm-chắm rình ta. Ví bằng nhân đa-số quân kị ta xuống phương xa, chúng đột-nhiên vào quấy, thì vì đường xa, quân ấy về cứu sao kịp ?

"Vậy xin đem kị-binh trở lại. Chỉ nên chọn đinh-tráng ở các lộ Kinh-hồ, thêm vào với thổ-quân mà dùng. Tướng thì chọn người am hiểu sơn-xuyên, địa-lợi. Còn nếu muốn dùng kị-binh, chỉ nên dùng ngựa miền nam; vì nó quen thủy-thổ và quen đi lại chỗ hiểm-ải.

8. Ti An-nam chiêu-thảo hẹn đến trung-tuần tháng 7 sẽ tới Đàm-châu (Tràng-sa). Đàm-châu cách Quế-châu 14 ngày đường. Mà ở ngoài Lĩnh, tháng 8, tháng 9 rất nhiều lam-chướng; từ tháng 10 trở đi mới bớt. Nếu quân chưa ra ngoài Lĩnh, còn đóng đợi lại ở Đàm-châu, thì vì Hồ-nam đã bị đói, lương-thảo sẽ khó lòng biện; ở đó lâu, sự vận-tải rất tốn. Nhưng nếu cứ tiến ra ngoài Lĩnh, thì sợ chướng-độc làm cho người và ngựa, chưa dùng, đã ốm.

9. Từ trước, mỗi lúc bản-triều có việc biên-phòng, từng sai quần-thần bàn-bạc một cách rộng-rãi. Nay, muốn đánh Giao-chỉ, ta đem mười vạn quân đi, phải trải qua nhiều nguy-hiểm. Lợi hại như thế rất lớn. Thế mà Bệ-hạ tự định trước một mình. Tuy quốc-luận cũng đồng ý, nhưng xin cứ hỏi ý-kiến các quan trong ngoài, các cận-chức, để cho rộng lời bình-luận. Làm như thế, không những sẽ biết được ai hay giỏi, và sẽ làm yên lòng quân, lòng dân, mà lại còn có thể tìm được những kế-hoạch hay nữa."

Lời bàn của Trương Phương-Bình rất là xác-đáng, trừ sự mong đợi dân ta chia bè-đảng là sai. Sự thi-hành phần lớn cũng hợp với lời bàn. Duy chỉ về việc dùng quân miền bắc, việc hoãn kỳ xuất-quân, thì không thay đổi ý đã định. Và các tướng sẽ rất phân-vân về việc nên đánh chóng hay không. Quách Quì chù-chừ, do-dự. Triệu Tiết biện lương không đủ. Lại thêm lam-chướng giết quân Tống và quân ta chống-cự dũng-cảm. Cho nên, tuy soạn-sửa chu đáo, kế-hoạch hợp lý, nhưng cuối cùng cũng khiến quân Tống xuất trận phải thất-bại chua cay.

CHÚ-THÍCH
(1) - Cựu-vương Chiêm-thành nói đây là vua Chiêm bị kẻ khác tranh ngôi, đã chạy sang nước ta. Sử ta không chép việc này. Nhưng TB 252/22b và TS 489 đều có chép : Ngày C. Dn tháng tư năm G. Dn 1074, Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-đức dâng biểu nói : " Tháng 10 năm ngoái, trại Định-phiên thuộc Nam-giới trình rằng quốc-vương Chiêm-thành đem hơn ba nghìn lính và vợ con, cưỡi thuyền đến xin hàng. Tháng giêng năm nay đã đến đạo tôi (nước tôi) cúi đầu xin phục ". Vua Tống trả lời bảo bằng lòng nhận hàng. TS chép sơ lược hơn một ít.

Theo Maspéro trong sách Le Royaume du Champa, bia chàm ở đền Ponagar (Nha-trang) có nói đến chuyện ấy, và vua chạy sang hàng vua Lý, chính là Chế-Củ hay là Rudravarman III bị Lý Thường-Kiệt bắt rồi được tha, năm năm về trước. 2.

(2) - Xem chú-thích 1 ở chương VII và lời tâu của Trương Phương-Bình (IX/12). Vả trong các triều đại nước ta, sau này cũng thường hay dùng người Trung-quốc giúp; những người ấy phần lớn là cựu-thần một triều-đại Trung-quốc đã bị diệt, không chịu ở dưới triều-đại mới, bèn trốn sang nước ta. Vì lẽ ấy, phần nhiều họ là những người giỏi và giúp được việc. Đời Trần có người Tống giúp, đời Lê có người Minh giúp. Vậy đời Lý, rất có thể có người thuộc những nước bị Tống diệt chạy sang nước ta, rồi tự mình hay con cháu giúp vua Lý. Như tôi đã nói, họ Lý rất có thể là một họ như vậy, và đã giúp vua Đinh, vua Lê ở nước ta. 4.

(3) - là một thứ điểm dùng để thưởng-lục cho các quan. Khi vị nào đáng thưởng, vua ban cho một hay nhiều . Cuối khóa (hạn 3 hay 6 năm), sẽ cộng số tư thưởng và trừ những tư phạt; còn bao nhiêu, thì theo đó mà thăng giáng. 5.

(4) - Ngày 6 tháng 3 (T. Zu, DL 11-4), miễn thuế trong hai năm cho những nơi bị phá, và cho những người tản cư (TB 273/14b).

Ngày 5 tháng 3 (C. Ta, DL 10-4), tha lỗi cho những người đã bỏ chạy lúc quân ta lấy Khâm, Liêm và Ung (TB 273/14b).

Ngày 13 tháng 3 (M. Dn, DL 18-4) tha cho thổ-binh bị hại ở ba châu ấy khỏi phải nạp tiền trợ-dịch (TB 273/17b).

Ngày 18 tháng 4 (Q. Ma, DL 235) hỏi các quan địa-phương về số nhà bị phá và hỏi đã liệu cách gì cứu-chữa chưa (TB 274/8b).

Ngày 3 tháng 7 (Đ. Ti, DL 5-8) tha thuế cho thổ-đinh bị hại (TB 277/1a). 5.

(5) - Xem V/1. Tên các sông lớn chắn con đường từ trại Vĩnh-bình đến Thăng-long là : sông Ô-bì, Đào-hoa, Nam-định cũng gọi là Phú-lương (LNĐĐ) và sông Lô. Sau nầy (X/2), ta sẽ thấy rằng sông Phú-lương chắc chắn là khúc sông Cầu ngày nay thuộc địa-phận Thái-nguyên và Phúc-yên. 7.