(Tiếp
theo Phần II)
Theo
tôi, không chỉ có vua Minh-Trị muốn canh tân đất nước mình,
mà còn có những Nguyên Thủ Quốc Gia khác ở Á Đông, cũng
có những ý kiến tương tựa. Nhưng khi nước mình đã bị
làm thuộc địa của các nước Tây Phương, thì không triển
khai các hoài bảo của mình được. Nhật rất may mắn được
Mỹ can thiệp, nếu không thì đã bị các nước Tây Âu chiếm
làm thuộc địa rồi.
3
- Trường hợp của Thái-Lan.
Thái-Lan
nằm giữa Ấn-Độ, Miến Điện thuộc Anh và Đông Dương
thuộc Pháp, nên được xem như một " vùng Đệm " (zone tampon/buffer
?). Nếu Anh chiếm Thái-Lan thì Pháp sẽ có phản ứng, nếu
Pháp chiếm Thái-Lan, thì Anh cũng sẽ có phản ứng. Vào thời
buổi đó Anh và Pháp được xem như là hai nước thù địch.
Tuy Thái-Lan là một nước " độc lập " trên giấy tờ, nhưng
phải nhượng bộ Anh và Pháp trên nhiều phương diện, như
không công nhận luật pháp Thái cho công dân Anh, Pháp ; được
đặc quyền ngoại giao, được ưu đãi về thuế má..., cùng
gặm nhấm đất đai của Thái-Lan, như Anh thì chiếm Mã-Lai
của Thái, Pháp thì chiếm một phần đất ở Lào và Campuchia
thuộc Thái...
[Xem Dominique
Guillemin : " Quelle place pour le Siam dans l'Asie coloniale ? ",
trên Mạng Internet].
4
- Vai trò cốt lõi của các Thừa Sai đạo Ki-Tô. (7)
Tôi
viết những hàng sau đây, có thể làm phật lòng một số
độc giả. Xin độc giả thông cảm cho, vì đây là Lịch Sử,
có dẫn chứng đàng hoàng. Tôi rất kính phục đạo Ki-Tô,
vì họ làm nhiều điều lợi ích cho xã hội, như các bệnh
viện xưa, ở Pháp, được gọi là " Hostel-Dieu ", hội Hồng
Thập Tự do Henry Dunant, một tín đồ đạo Tin-Lành lập nên,
những trại cùi do các " bà phước " chăm sóc... và với phương
châm " Thương người như chính mình vậy "...
Những
thừa sai đạo Ki-Tô là những người tu hành, muốn đi khắp
thế giới để rao giảng " Phúc Âm " cho người dân " lạc
hậu " của những nước chậm tiến. Họ cũng là những con
người, nên xem trọng, thương kính quốc gia của chính mình
hơn các quốc gia nhược tiểu mà họ đến để truyền giáo.
Họ đi theo các nhà thám hiểm và giúp các nhà thám hiểm chiếm
thuộc địa. [Xem " Missions catholiques aux XVIe et XVIIe siècles
" Wikipedia. Sứ mệnh của đạo Ki-Tô La Mã trong những thế
kỷ 16, 17.]. (Nguyên văn : les Espagnols ne conçoivent
pas la mise en place d'une administration espagnole sans y inclure les
institutions cléricales. Người Y-Pha-Nho không thể đặt chính
quyền, nếu không có thể chế tăng lữ của họ). Hay các
thừa sai đến truyền giáo ở các nước chậm tiến để xúi
chính quyền của mình chiếm lấy thuộc địa. [Xem Eric
Roulet : " Evangéliser en contexte colonial, trên mạng Internet. Truyền
giáo trong bối cảnh thuộc địa.] (Nguyên văn :
L’évangélisation fait partie du projet colonial. Ce sont deux termes
indissolublement liés. Il n’y a pas de conquête ou d’empire sans
évangélisation en Amérique, en Afrique ou en Asie. Il apparaît que
ces deux termes semblent très proches, au moins dans l’intention : évangéliser
pour coloniser ou coloniser parce qu’on évangélise – pour reprendre
les termes des bulles papales ou dans les cédules de la monarchie espagnole.
Truyền
giáo là một phần của dự án chiếm thuộc địa. Đây là
hai điều kiện không thể tách rời nhau. Không có cuộc chinh
phục hay đế chế nào mà không có sự truyền giáo ở Mỹ
Châu, Phi Châu hay Á Châu. Hình như hai thuật ngữ này rất
sát với nhau, ít nhất là trong mục tiêu : truyền giáo để
chiếm thuộc địa, hay chiếm thuộc địa để truyền giáo
- đây là các sắc lệnh của Giáo Hoàng, hay trong lịch trình
của chế độ quân chủ Tây Ban Nha.).
(7) Sở dĩ
tôi gọi Ki-Tô vì Ki-Tô có nhiều đạo : Đạo Tin-Lành, đạo
Luther, Anh giáo, đạo Cơ Đốc Chính Thông, đạo Ki-Tô La-Mã
(còn gọi là đạo Thiên Chúa hay Công Giáo. Công Giáo là do
người Tàu dịch chữ catholicus, có nghĩa là phổ quát), để
phân biệt với các đạo Ki-Tô khác, và còn nhiều đạo Ki-Tô
khác nữa...
5
- Linh mục Pháp đến Việt Nam.
Người
ta thường cho rằng linh mục Alexandre De Rhodes (1591-1660) là
thừa sai Pháp đầu tiên đến Việt Nam. Chuyện không phải
thế. Trước cụ De Rhodes đã có các thương gia, các linh mục
người Pháp khác đã đến Việt Nam, như linh mục François
Xavier (1506-1552), (có ghé qua Việt Nam, chứ không ở Việt Nam)
... Sở dĩ cụ De Rhodes được biết nhiều vì đã làm cuốn
Từ Điển " Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum " (Từ Điển
Việt, Bồ, Latinh) và " đặt ra " chữ Quốc Ngữ. Thật sự
không phải cụ De Rhodes đặt ra chữ Quốc Ngữ mà là linh
mục Francesco de Pina (1585-1625), một giáo sĩ Dòng Tên, người
Bồ Đào Nha, [đến Đàng-Ngoài năm trong năm 1617, từ
trần vì đắm thuyền ở vịnh Đà Nẵng 1625].
Linh mục De Pina là Thầy của cụ De Rhodes và cụ cũng học
thêm với các linh mục Bồ khác. Có chăng thì cụ De Rhodes
có thêm bớt ít nhiều trong những khi tiếp xúc với người
Việt, thời bấy giờ. [Xem Trần Gia Phụng " Lịch Sử
Chữ Quốc Ngữ, trên Mạng].
Tôi
là người Việt đang viết chữ " Quốc Ngữ ", và tôi cũng
cám ơn cụ de Rhodes đã có công, cùng với các vị giáo sĩ
khác, đã đặt nền tảng cho chữ Việt ngày nay, nhưng tôi
không tôn thờ các cụ, vì các cụ đặt chữ Quốc Ngữ là
do lợi ích riêng của các cụ. Các cụ dùng chữ Quốc Ngữ
để dể dàng cho việc đi truyền đạo của các cụ, các cụ
ước vọng biến Việt Nam thành một nước Ky-Tô giáo La-Mã,
như các nước Âu-Châu lúc bấy giờ. Càc cụ không có một
chút mảy may gì để ý đến sự phát triển, hay không phát
triển văn hóa, văn chương của nước ta. Mặc dầu chữ "
Quốc Ngữ " đơn giản hơn chữ Hán và chữ Nôm nhiều, nhưng
cũng vì thế mà từ năm 1919 (dưới triều Thành-Thái) cho đến
ngày nay, một số đông các sử gia không biết chữ Hán, chữ
Nôm, là những tài liệu đầu tay, mà dựa vào sách sử của
Pháp mà viết sử Việt-Nam, thành một số sách sử Việt đều
viết sai sử Việt hết. Cũng may là các sách sử Việt viết
bằng chữ Hán, chữ Nôm được dịch ra Quốc Ngữ, nhưng cũng
mới đây thôi. Văn hóa, văn chương nước ta được phát triển
là nhờ những người Việt, đã dày công cải tiến chữ Quốc
Ngữ, như Nguyễn Văn Vĩnh, Trương Vĩnh Ký (theo đạo Ki-Tô
La-Mã, viết cuốn sử " Cours d’Histoire " thì vu khống, nói
xấu một cách thậm tệ các vua Minh-Mạng, Thiệu-Trị, Tự-Đức,
theo lời của các thừa sai thực dân, còn xúi Pháp " trừng
trị " các vị vua trên vì " phản " lại Pháp) [Xem NQTrị,
sđd, từ trang 514 đến 518, có dẫn chứng đàng hoàng các sách
của các thừa sai và Thục Lục. Thụy Khuê : " Quê Hương Ngày
Trở Lại ". Huế, mạng Internet]..., Nguyễn Trường
Tộ (theo đạo Ki-Tô La-Mã là một tay sai trung thành của Pháp)
[Xem Thụy Khuê : " Quê Hương Ngày Trở Lại ". Huế, mạng
Internet] và sau nầy là các nhóm Nam Phong Tạp Chí,
Tự Lực Văn Đoàn...vân vân...
Ngày
nay, chúng ta phải học tiếng Anh, nếu muốn tiếp xúc hay giao
thương với các nước ngoài. Ở Monaco và ở vài trường học
ở Pháp, Anh văn được dạy từ cấp Tiểu học. Tôi có quen
một số bạn ở Thái Lan và ở Singapore (lúc tôi còn là sinh
viên du học ở Pháp), một vài người trong số các bạn trên
không biết tiếng Thái hay tiếng Tàu, mà chỉ biết tiếng
Anh mà thôi. Vậy chúng ta cũng phải tôn thờ Anh Quốc sao ?
Năm
2022, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc số một hay
số hai của thế giới, về phương diện Quân Sự cũng như
Kinh tế, là nhờ lúc trước Trung Quốc đã học lóm (lỏm)
hay buộc các nước Âu, Mỹ phải chuyển giao khoa học, kỷ
thuật tân tiến của họ, nếu họ muốn làm ăn với Trung
Quốc. Nhưng cả thế giới chưa ai thấy Trung Quốc tôn thờ
các nước Âu, Mỹ trên, mà trái lại còn hống hách với họ
nữa là khác !
Người
Việt mình có tánh hay nhớ ơn. Chúng ta biết ơn cụ de Rhodes
cũng là chuyện thường tình trong phong tục của chứng ta,
nhưng ở trên mạng Internet, ta thấy có vài bài viết của
người Việt có ý tôn thờ cụ de Rhodes, thì theo tôi, đó
là quá đáng.
Hơn
nữa, trong thơ của cụ de Rhodes, ở đầu cuốn sách " Histoire
du royaume de Tunquin et des grands progrès que la prédication de l’Evangile
y a faits en la conversion des infidèles. (Lịch sử vương quốc
Bắc Hà và sự tiến bộ lớn lao mà việc rao giảng Phúc Âm
đã đạt được ở đó, trong việc cải đạo những kẻ theo
dị giáo " do linh mục Henry Albi dịch từ tiếng Latinh sang tiếng
Pháp. NXB Jean Baptiste Devenet, năm 1651), ta thấy cụ de Rhodes
đã tôn kính tâng bốc Louis XIV (Nguyên văn : ... qu’il faſſe
de l’Orient de voſtre Regne, vn Midy, ...Tôi cầu nguyện Thiên
Chúa, để buổi hừng đông của Triều Đại của Bệ Hạ,
được sáng chói như Mặt Trời lúc đúng Ngọ...), đề tặng
nhà vua cuốn " Lịch sử xứ Bắc Hà " với sự trù phú muôn
màu, muôn vẻ của đất Bắc-Hà, và khoe khoang công lao của
cụ cùng các thừa sai đã cải đạo cho trên 200 000 người
(plus de deux cents mille Chreſtiẽs), (có thổi phồng lên không
?), trong một quốc gia mà 5 000 năm nay, vì dị đoan, chỉ biết
tôn thờ Ma Qủy (Nguyên văn : ... vne Nation qui depuis cinq mille
ans n’auoit reconnu que le Demons pour Maiſtres...). Phải chăng cụ
de Rhodes đã khéo léo xúi dục Louis XIV để ý đến Bắc Hà,
để chiếm lấy ? Năm 1663, cụ de Rhodes lập Hội Thừa Sai
Paris (Missions étrangères de Paris), thì ngay sau đó Jean-Baptiste
Colbert (1619-1683), bộ trưởng Hàng Hải, Hải Quân và là cánh
tay mặt của Louis XIV đã lập ra, năm 1664, Công Ty Đông Ấn
của Pháp (Compagnie française des Indes orientales). Thương điếm
Pondichéry được lập năm 1670. Sau nầy còn có François Pallu
(1626-1684), giám mục tổng tòa ở Bắc-Hà và Pierre Lambert de
la Motte (1624-1679), giám mục tổng tòa ở Nam-Hà. Cũng nên xem
bài " Alexandre de Rhodes, tên gián điệp Pháp " của Trần Chung
Ngọc, lấy những đoạn viết trong cuốn " Hành Trình và Truyền
Giáo " (Voyages et Missions dv P. Alexandre de Rhodes) của cụ de Rhodes,
trên Mạng Internet, bài viết " Tuyển Tập Độc Thần Giáo
" của Nguyễn Charlie, cũng ở trên mạng Internet. Bà Thụy-Khuê
thì nói cụ de Rhodes, đem đầu của Anrê Lý đến Vatican và
xin Vatican bảo vệ các thừa sai cùng để cho các thừa sai
Paris độc quyền rao giảng đạo giáo ở Đại Việt, xin chính
quyền Pháp che chở các thừa sai người Pháp, ở Đại Việt,
nghĩa là đem quân chếm lấy Đại Việt ? [Xem Thụy-Khuê
" Quê Hương ngày trở lại ", Huế, Phú-Yên, 2019. Viết tắt
QHH. Trên mạng Internet].
Đó
ta thấy các cụ de Rhodes (1591-1660), Pallu (1626-1684), de la Motte
(1624-1679) đến Bắc, Nam Hà, và xúi giục chính quyền Pháp
chiếm lấy Việt Nam, lúc mà Nguyễn Ánh chưa sinh ra (sinh năm
1762), thì làm sao Nguyễn Ánh " Cõng Rắn Cắn Gà Nhà " cho được
!
Có
Nguyễn Ánh hay không có Nguyễn Ánh, Việt Nam cũng bị chiếm
làm thuộc địa, vì phong trào và lý do đi chiếm thuộc địa
của các nước Tây Âu vào những năm 1840, như đã trình ở
trên.
Công
bằng và thành thật, phải nói là nhờ sự khéo léo của Nguyễn
Ánh, mà đến mãi năm 1867 (Pháp chiếm 6 tỉnh ở Nam Kỳ),
nghiã là khoảng 70 năm sau, đến triều Tự-Đức (vua Tự-Đức
kêu Nguyễn Ánh bằng Ông Cố/Arrière-Grand-Père/Great Grandfather),
Pháp mới chiếm được Việt-Nam, vì lý do đi tìm thuộc địa
của các nước Tây Âu như đã trình ở trên. Cũng nên nhớ
là Pháp chiếm Pondichéry năm 1674, Mahé năm 1721, Yanaon năm 1731,
Karikal năm 1739 ; và Y-Pha-Nho chiếm Phi-Luật-Tân năm 1565 ! [Xem
Wikipedia về Pondichéry]. Đó cũng do Nguyễn Ánh
gây ra à, khi mà Nguyễn Ánh chưa sinh ra (Nguyễn Ánh sinh năm
1762). Vậy nói Nguyễn Ánh " Cõng Rắn Cắn Gà Nhà " có " Hàm
Hồ " quá chăng ?
Còn
Pigneau thì khỏi nói. Với những báo cáo của cụ trình lên
nội các của Louis XVI, trước khi ký Hiệp Ước Versailles,
thì cụ đã thúc dục Louis XVI chiếm ngay Nam-Hà [Xem Taboulet
" La Geste Française [ăn nói hỗn xược] en Indochine ", sđd, trang
180 đến 184]. Nhưng như đã trình trên, đến khoảng
những năm 1840, các nước Tây Âu mới đua nhau đi chiếm thuộc
địa, vả lại lúc bấy giờ Pháp [dưới thời Nguyễn
Ánh] đang còn yếu (xem chuyện chiếc tàu Armide,
trong mục nói về Barisy, ở trên), nên, nếu Pháp muốn đánh
chiếm Nam-Hà, thì không chắc gì Pháp đã đánh thắng được
Nguyễn Ánh.
Như
đã trình trên : Truyền đạo để chiếm thuộc địa, như
trường hợp Macao (Bồ), Việt Nam (Pháp) ..., hay chiếm thuộc
địa để truyền đạo, như Phi-Luật-Tân (Y Pha Nho), Miến
Điện (Anh Quốc) ...
[Xem Eric Roulet : " Evangéliser en contexte
colonial, trên mạng Internet. Truyền giáo trong bối cảnh thuộc
địa.]
II
- Cản và Cấm đạo Ki-Tô ở Á Châu.
1)
Nguyên nhân Cản đạo Ki-Tô.
a)
Nguyên nhân thứ nhất.
Trên
mạng Internet có bài viết của Isabelle de Gaulmyn : " Pourquoi
l’Asie est-elle restée en dehors de l’influence chrétienne ? " (Tại
sao Á Châu lại nằm ngoài ảnh hưởng đạo Ki-Tô ?). Trong
bài viết đó, tác giả nói đạo Phật không chấp nhận Tạo-Hóa,
trong khi Ki-Tô giáo lại chấp nhận Tạo-Hóa (Dieu/God). Nói
thế, theo tôi thì quá phiến diện.
Tiền
nhân của chúng ta, không may mắn như chúng ta ngày nay. Ngày
nay, chúng ta được xem các hình chụp về những đám " mây
" do các thiên hà tạo nên, nhờ kính thiên văn của vệ tinh
nhân tạo Hubble. Nhìn những đám " mây " đó, chúng ta phải
sững sờ trước sự bao la, huyền diệu của vũ trụ, và nếu
có đức tin, trước sự thần bí của Tạo-Hóa. Có một số
các nhà Vật Lý Thiên Văn tin có Tạo-Hóa. Dãy Ngân Hà chỉ
là một thiên hà nhỏ bé trong hàng tỷ thiên hà khác trong
vũ trụ, Thái Dương hệ chỉ là một hạt cát, đừng nói
chi Trái Đất chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ bao la không
tưởng, còn con người thì không biết lấy gì để so sánh
với vũ trụ. Tuy tiền nhân của chúng ta, không biết về các
hình ảnh do Hubble cho, nhưng các vị cũng biết sự thần bí
của Tạo-Hóa mà người Việt chúng ta gọi là " Ông Trời
".
Ở
Á Châu nói chung và ở Việt Nam nói riêng, chúng ta có các
đạo, như đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng, hay có người
tin dị đoan, đi thờ Cây, Cỏ, Đá, Động, Núi, Sông, Cọp,
Rắn..., nhưng tiền nhân của chúng ta không cho Đức Phật,
Lão Tử, Khổng Tử, Cây, Cỏ, Đá, Động, Núi, Sông, Cọp,
Rắn ... là Ông Trời, là Tạo-Hóa cả ! Chỉ có đạo Ki-Tô
cho một con người, Đức Giê Su (Gésus/Gesus) là Tạo-Hóa !
Một người nữ (Đức Bà Maria) là Mẹ của Tạo-Hóa !
Nếu không có " Đức tin ", thì chuyện đó làm cho chúng ta
quá bỡ ngỡ, khó tin, ngay trong thế kỷ thứ 21 nầy, huống
hồ tiền nhân của chúng ta ngày xưa !
Trên
phương diện chính trị, Á Đông của chúng ta, lúc trước,
chịu ảnh hưởng Nho Giáo rất nặng. Vua được xem như Con
của Trời (Thiên Tử, nhưng vua không phải là Trời, là Tạo-Hóa),
mà thay Trời (Tạo-Hóa) hành đạo. Vua có bổn phận phải
làm cho Nước hùng cường, hưng thịnh, vua có bổn phận phải
làm cho Dân thịnh đạt, phồn vinh. Ngoài ra vua còn có bổn
phận, thay Trời (Tạo-Hóa) dạy dỗ thần dân về đạo đức
" Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín " [Xem " Ý nghĩa các chữ
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín " trên mạng Internet.], như
cha mẹ dạy con cái cho nên người. " Dân chi Phụ Mẫu " (Cha
Mẹ của Dân) là vậy.
Cho
nên các vua chúa nước ta và cả vua chúa của phần đông của
Á Châu, như Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Mên, Trung
Quốc, Cao Ly, Nhật Bản, ..., khi nghe các giáo sĩ Ki-Tô giáo
rao giảng một con người là Tạo-Hóa, các vị không khỏi
bỡ ngỡ, ngỡ ngàng, và vì các vị không có " Đức tin ",
và vì bổn phận " Dân chi Phụ Mẫu " đều ngăn cản đạo
Ki-Tô, cho đạo Ki-Tô là " Tà giáo ", nhưng chưa cấm đạo
và bách hại giáo dân Ki-Tô giáo.
Cũng
nên nói là chính một phần giáo dân Ki-Tô giáo nguyên thủy
cũng không có " Đức tin " đó. Phải đợi đến năm 325, hoàng
đế Constantinus đệ nhất, vì để thống nhất đế chế,
nghiã là về chuyện chính trị hơn về chuyện tôn giáo, đã
cho triệu tập " Cộng Đồng " Nicaeae (Nicée/Nicaea), để giải
quyết thần khẩn (giáo điều/dogme/dogma) về Tạo-Hóa : Tạo-Hóa
(Thiên Chúa/Dieu/God) có ba Ngôi : Ngôi Thứ Nhất, Ngôi Cha là
sự Vĩnh Cửu, Bất Diệt của Tạo-Hóa (L’Eternel/The Eternal),
Ngôi thứ Hai, Ngôi Con là Lời của Tạo-Hóa (Le Verbe/The Verb
of God) là Đức Giê-Su, Ngôi thứ Ba, Ngôi Thánh Thần, là Khí
Thế của Tạo-Hóa (Souffle/Breath of God). Ba Ngôi trên đều là
một Tạo-Hóa duy nhất cả. Cộng Đồng Nicaeae có khoảng 300
linh mục và giám mục (con số, tùy theo mỗi tác giả), bàn
luận trên 2 tháng (20/05/325 đến 25/07/325) để xác định Đức
Giê-Su là Ngôi Hai của Tạo-Hóa và là Tạo-Hóa. Trong cuộc
bỏ phiếu cho ý kiến, thì có 3 vị không chấp nhận Đức
Giê-Su là Tạo-Hóa là linh mục Arius, giám mục Second de Ptolémaïs
và Thomas de Marmarique. Ba vị nầy bị dứt " Phép Thông Công
" và bị đày đi ở Illyrici, một khu vực ở phía đông nước
Ý, bên kia biển Adriatique bây giờ [Xem " Premier Concile
de Nicée ", Wikipedia, trên Mạng Internet]. Kinh " Tin
Kính " có từ đây.
Vì
một con người ở trên Trái Đất (Đức Giê-Su) là Tạo-Móa,
nên Ki-Tô giáo La-Mã đã cho Trái Đất là trung tâm của Vũ
Trụ. Mặt Trời, các ngôi sao đều quay quanh Trái Đất. Nếu
có những nhà bác học cho những ý kiến khác thì bị giáo
hội Ki-Tô La-Mã trù dập, như các bác học Nicolaus Copernicus
(1473-1543) và Galileo Galilei (1564-1642), đã cho rằng Trái Đất
quay xung quanh Mặt Trời. Giáo hội Ki-Tô La-Mã đã xin lỗi
về vụ án Galilei chỉ vào năm 1992 ! Theo " Đúc Tin ", thì giáo
hoàng không bao giờ sai lạc, vì có " Tạo-Hóa Thánh-Thần "
chỉ vẽ cho, thế mà phải đợi đến 359 năm mới tha tội
cho Galilei (1633-1992). Sự kiện Trái Đất quay quanh Mặt Trời
đã được các nha thiên văn Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập...
biết, cả mấy thế kỷ trước Công Nguyên
Phụ
Trang :
Cách
đây khoảng 20 năm, tôi có đọc vài cuốn sách của Gerald
Messadié, và của M. Baigent, R. Leigh, H. Lincoln. Ở đây tôi xin
nói đến 4 cuốn, tuy viết theo dạng " Tểu Thuyết ", nhưng
có rất nhiều dẫn chứng. Đó là những cuốn " L’homme qui
devint Dieu " (Một con người đã trở thành Tạo-Hóa), NXB Robert
Laffont, Paris, 1988, có khoảng 800 trang, và dựa trên 1 000 tài
liệu (không cho tên những tài liệu đó, vì nếu viết ra,
thì theo tác giả, cũng phải cần trên 1 000 trang giấy) và
" Jésus de Srinagar " (Giê-Su của thành phố Srinagar ở Ấn-Độ
", cùng một nhà xuất bản, năm 1995, có khoảng 500 trang, và
có khoảng 75 tài liệu dẫn chứng, mà phần đông là những
sách hay bài viết của các giáo sư đại học Anh, Mỹ (họ
không theo một đạo nào hay họ là những người theo đạo
Anh giáo ?). Hai cuốn sách nầy kể rất tỷ mỷ về cuộc đời
của Đức Giê-Su, dựa trên các " Phúc Âm khải quát " (Evangiles
synoptiques/Synoptic Gospels), khá giống nhau (khoảng 85%), và theo
Vatican là do Mathiêu, Marco và Luca viết và một " Phúc Âm "
do Gioang viết. Bốn " Phúc Âm " nầy được gọi là " chính
thống " (canonique/canonical) do cộng đồng Nicaeae lựa chọn,
cùng với những " Phúc Âm Mật " (Evanglies apocryphes/apocryphal
gospels) mà giáo hội Ki-Tô La-Mã cho là " Ngụy Tạo " (Có khoảng
mấy chục " Phúc Âm Mật ", như " Phúc Âm " theo Maria, " Phúc
Âm " theo Jacques, " Phúc Âm " theo Phêrô, Phúc Âm " theo Thomas,
vv..., và những bài viết trên những tấm da cừu ở Qumrân).
Hai cuốn sách sau là " L’Enigme Sacrée " (Bí Ẩn thiêng liêng.
Nguyên văn tiếng Anh : The Holy Blood and the Holy Grail : Máu Thánh
và Thánh Vật [có thể là một cái hũ đựng máu Đức
Giê-Su, hay một linh vật khác có dính líu đến Đức Giê-Su]),
của M. Baigent, R. Leigh, H. Lincoln, do Brigitte Chabrol dịch từ
tiếng Anh sang tiếng Pháp, NXB Pygmalion, 1983, khoảng 500 trang,
với gần 280 tài liệu dẫn chứng, và " Le Message " (Sứ Mệnh.
Nguyên văn tiếng Anh : The Messianic legacy : Di Sản Thiên Sai),
của cùng ba tác giả trên, do Hubert Tezenas dịch từ tiếng
Anh sang tiếng Pháp, cùng NXB, 1987, cũng khoảng 500 trang, với
gần 200 tài liệu dẫn chứng.
Theo
4 tác giả trên và một số tác giả mà họ đã dẫn chứng,
thì Đức Giê-Su thuộc một phái đạo giáo Do-Thái, chống
sự xâm lược La-Mã, nên bị Pontius Pilatus (Ponce Pilate/Pontius
Pilate, 12 trước Công Nguyên - 38 sau Công Nguyên), Thống Đốc
La-Mã tại Iudaea (Judée/Judaea), bắt và đóng đinh lên Thập
Tự Giá. Theo luật La-Mã thời đó, tội tử hình gồm có :
Ném Đá hay Đánh Bằng Roi cho đến chết, Thắt Cổ, Chém và
Đóng Đinh trên Thâp Tự Giá. Có quy ước giữa Pilatus và Sanhédrin
(tòa án đạo giáo và dân sự của đạo Do-Thái) là nếu có
người Do-Thái phạm pháp về luật đạo Do-Thái, thì Sanhédrin
có quyền xử tử hình bằng cách " Ném Đá hay Đánh Roi ",
còn tội " Đóng Đinh trên Thập Tự Giá " là dành cho những
người chống lại La-Mã. Đức Giê-Su bị lính La-Mã bắt và
bị Pilatus đóng đinh trên Thập Tự giá. Theo các " Phúc Âm
" chính thống, thì các quan tòa Sanhédrin xúi dục dân Do-Thái
làm áp lực lên Pilatus, để giết Đức Giê-Su. Theo 4 tác giả
trên và một số tác giả mà họ đã dẫn chứng, đó là do
các " Phúc Âm " chính thống đã sao đi, chép lại, bỏ trước,
thêm sau, sửa đổi nhiều lần cho đúng " Đức Tin " của Vatican
đề ra, vì nếu Đức Giê-Su phạm lỗi về đạo giáo, thì
Sanhédrin có thể giết Ngài bằng cách " Ném Đá, Đánh Roi
", chứ cần gì phải xin xỏ, hay làm áp lực với Pilatus để
xin giết Đức Giê-Su ! Vả lại tên Pilatus là một tên đại
gian, đại ác, giết người không gớm tay, độc tài, tham nhũng,
ăn hối lộ còn hơn tiền nhiệm Velerius Gratus của ông ta đến
mấy lần, Gratus cũng đã có tiếng là đại gian ác rồi. Một
tên đại gian, đại ác, độc tài, tham nhũng, ăn hối lộ
như Pilatus mà lại nhượng bộ đám dân Do-Thái đi biểu tình
ở thành Jérusalem à ? hay cho binh lính ra hành hung để giải
tán đám dân. Chưa nói đến chuyện dân Do-Thái thành Jérusalem,
hôm qua, thì rước Đức Giê-Su như một vị vua, thì hôm nay,
lại đứng trước mặt Philatus để xin giết Đức Giê-Su !
Thật là một chuyện hoang đường, bịa đặt !
Một
chuyện khác, cũng theo các tác giả trên, là Đức Giê-Su không
phải đã chết đi, rồi ba ngày sau sống lại do thần thông
của Tạo-Hóa Ngôi Hai Giê-Su. Các tác giả giải thích như
sau : Một người bị " Đóng Đinh " sẽ chết ngạc một hay
hai ngày sau đó, nhất là chân được đóng vào một miếng
gỗ, để đỡ thân người khỏi trụt xuống làm ép phổi
và sẽ ngạc thở rồi chết. Có người, cả một tuần sau
mới chết ! Đập bể hai ông chân không phải là một hành
động độc ác, mà là một hành vi nhân đạo, để cho thân
mình của tội nhân trụt xuống, phổi bị ép, hết không khí
trong phổi, nên chỉ vài phút sau là chết, khỏi bị tiếp
tục đau đớn vô tả. Ngoài ra, thân nhân của những tội
nhân bị " Đóng Đinh " không có quyền an táng nạn nhân. Nạn
nhân phải để treo trên Thập Giá, để cho chim muôn hay cầm
thú đến xé xác, xé xương.
Trên
đầu Thập Giá có treo một cái biển, kể tội của phạm
nhân. Thập giá của Đức Giê-Su có 4 chữ " INRI " (Iesus Nazarenus
Rex Iudaeorum). Theo Vatican là " Giê-Su Nazareth Vua xứ Judée ",
còn theo các tác giả trên, thì người ta chép lầm tiếng araméen
(tiếng nói thông dụng ở Judée thời Đức Giê-Su) chữ " Nàzàri
", có nghĩa là sự tuân thủ luật lệ của giáo phái, còn
có nghĩa là thành viên của giáo phái Nazaréen (tiếng Latinh
là Nazarenus), với chữ " Nazéri " có nghĩa là người gốc ở
thành phố Nazareth (hay Nazaréthain, tiếng Latinh là Nazarethanus)
[Xem " Etude sur Nazareth et Nazaréen " trên Mạng Internet],
vậy theo các tác giả trên 4 chữ " INRI " có nghĩa
là " Giê-Su Nazarenus (chống La-Mã) Vua xứ Judée ".
Còn
việc hành hình Đức Giê-Su thì sao ? Theo các tác giả trên,
Đức Giê-Su có một người bạn đại gia, rất giàu có, là
Joseph d’Arimathie (có người cho d’Arimathie là một nhân viên
mật trong nhóm kháng chiến của Đức Giê-Su, hay là bà con
với Ngài). D’Arimathie có liên lạc rất " mật thiết " với
Pilatus (nịnh bợ Pilatus và cho ông ta ăn hối lộ thường xuyên).
D’Arimathie đã hối lộ cho Pilatus, còn mua chuộc đám lính
La-Mã lo việc hành hình. Sau khi lấy roi đánh Đức Giê-Su,
rồi đóng đinh Ngài, ba giờ sau (tôi nói lại là ba giờ sau),
Đức Giê-Su nói là tôi khát, thì một tên lính lấy một cây
thương đâm vào một miếng giẻ nhúng giấm (giấm là một
loại thuốc an thần, nếu uống vào thì bớt đau và tỉnh
lại. Giấm còn cho quân nhân La-Mã uống, khi bị thương ở
trận mạc, để giảm đau), đưa lên cho Đức Giê-Su uống.
Khi Đức Giê-Su đưa miệng vào nút một tý " giấm ", thì nói
to vài tiếng và " chết " liền. D’Arimathie thấy vậy thì
la oai oái là " Thầy đã chết " và nói với một tên lính
lấy cây thương đâm vào sườn mặt (vì sườn trái gần tim)
của Đức Giê-Su, độ 2 phân, mà Đức Giê-Su không có một
phản ứng nào, khi rút cây thương ra, thì có một ít nước
chảy ra. D’Arimathie la lớn là " Thầy đã chết thật rồi
" và nói với lính canh, đã được mua chuộc trước, là đừng
đập gãy hai ống chân của Đức Giê-Su, (vì nếu đánh gãy
hai ống chân, thì Đức Giê-Su sẽ chết liền trong vài phút),
rồi chạy đi báo với Pilatus rằng Đức Giê-Su đã chết và
xin phép mang xác Ngài về chôn. Pilatus cũng rất ngạc nhiên
[Xem Phúc Âm, Marco XV, 44], vì chỉ mới 3 giờ
đồng hồ mà Đức Giê-Su đã chết, nhưng vì đã ăn hối
lộ của d’Arimathie rồi, nên cho phép d’Arimathie đem xác
Đức Giê-Su về chôn, một điều mà chưa có tiền lệ. Còn
" giấm " thì thật ra là thuốc mê, mà thời Đức Giê-Su, người
ta đã biết thứ thuốc đó (theo các tác giả trên, họ đoán,
nhưng không chắc, là có thể thuốc phiện trộn với cà dược
(belladone) cùng một ít thứ thuốc khác để gây mê). Đức
Giê-Su bị đóng đinh gần một cái vườn (vườn của d’Arimathie,
và có thể là vườn Gethsémanie), trong đó có một cái huyệt
đá mới [Xem Phúc Âm, Gioang XIX, 41]. D’Arimathie
đem " xác " Đức Giê-Su vào chôn trong huyệt đá. Trời đã
nhem nhem tối, nên dân chúng đứng ở xa, không thấy rõ, vả
lại là vườn tư nhân, dân chúng không được vào. Đức Giê-Su
được d’Arimathie, Nicodème, một đảng viên mật và vài đảng
viên của giáo phái lo chửa trị, thuốc men cho Đức Giê-Su,
rối Đức Giê-Su từ từ bình phục trở lại, tuy còn yếu.
Các đồng chí phát họa cuộc đi trốn của Đức Giê-Su, vì
nếu Ngài bị bắt lại, e Ngài phải chết. Sáng chủ nhật
Đức Giê-Su gặp Bà Maria Magdala (Marie Madeleine/Maria Magdalene),
theo các tác giả trên, là Phu Nhân của Đức Giê-Su, để từ
biệt [Theo truyền thuyết, Bà Magdala là một người giàu
có, sau khi La-Mã chiếm Palestine, vào những năm 70, Bà đã trốn
sang Saintes-Maries-de-la-Mer, Marseille, sau cùng lên tu Thiền, trong
một cái động, ở Sainte-Baume, trong khoảng 30 năm, cách Marseille
khoảng 60 km, về phía đông bắc. Cách đây, khoảng 55 năm,
tôi có đến viếng mộ của Bà và cái sọ của Bà được
thờ tại nhà thờ Saint-Maximin], rồi Đức Giê-Su
đi trốn cùng với môn đệ của Ngài là Thomas sang phía Bắc
Ấn-Độ và Đức Giê-Su chết già ở đó.
Chuyện
Đức Giê-Su chết đi, rồi sống lại, do thần thông của Tạo-Hóa
Ngôi Hai Giê-Su, thì theo các tác giả trên là do Vatican phịa
ra.
Bà
Magdala đang ôm tay Đức Giê-Su.
(Tranh:
Họa Sĩ Pierre-Paul Rubens, Public Domain)
Độc
giả muốn biết sơ sơ về 4 cuốc sách trên, thì nên xem qua
cuốn " L’Enigme Sacrée ", từ trang 381 đến trang 391, cũng có
được vài ý niệm về 4 cuốn sách kể trên.
Hết
Phụ Trang.
Chuyện
nầy, độc giả có tin hay không là tùy từng độc giả. Mục
đích của tôi viết lên đây để nói chuyện Đức Giê-Su
có phải là Tạo-Hóa hay không. Đây là một cuộc bàn cãi
rất sôi nổi, giữa các nhà Triết Lý Học, Thần Học, Khoa
Học, trên thế giới vào những thế kỷ thứ XX và XXI nầy.
Ở
các nước Âu, Mỹ, ngày nay (thế kỷ thứ 21) cũng có nhiều
người công giáo (đã chịu phép rửa tội, phép thêm sức)
nhưng không tin Đức Giê-Su là Tạo-Hóa. Họ theo thói thường
mà nhiều người đang làm (danh từ mới gọi là Thời Thượng/Mode/
Way of live), chỉ đi nhà thờ khi rửa tội, đám cưới, đám
ma. Họ không " xưng tội " hay đi lễ ngày Chủ Nhật như pháp
lệnh của đạo Ki-Tô La-Mã. Người ta ước tính tại Pháp
chỉ có 2% người công giáo giữ đạo trọn vẹn. Mặt khác
ở Âu, Mỹ thiếu " Ơn kêu gọi " (Vocation/Vocation), cho nên,
ở phần đông các nhà thờ, các linh mục là người Phi Châu
da đen, hay người Á Châu (ở Pháp, phần đông là linh mục
người Việt). Có vài anh bạn nói chơi : " Lúc trước Tây
Phương đi rao giảng đạo Ki-Tô cho những nước chậm tiến,
thì nay ngược lại, những nước chậm tiến lại đến rao
giảng Ki-Tô giáo ở những nước Tây Phương ".
Một
chuyện khác, hết sức khéo léo, của các giáo sĩ Ki-Tô giáo,
là khi mới sinh ra, thì phải chịu " phép rửa tội ", nếu
không thì mang " tội tổ tông " (tội của ông A Đam và bà
Ê Va) và sẽ xuống Địa Ngục. Óc não của trẻ thơ đang
còn non nớt, lại nhấn vào óc não của các em những giáo
lý Ki-Tô, để sau đó, khi lớn lên khó mà quên được cho
đến già. Hiện ở Âu Mỹ, một số gia đình không cho con
cái, còn nhỏ, chịu " phép rửa tội ", mà để chúng lớn
lên, có suy nghĩ, thì tự chúng muốn theo hay không muốn theo
một tôn giáo nào đó.
Theo
tôi, thì ngày nay và cả trước nữa, có thể có một số
giáo dân Ki-Tô giáo La-Mã cũng không tin Đức Giê-Su là Tạo-Hóa,
ngay cho (không chắc chắn) cả hàng giáo sĩ như linh mục, giám
mục, hồng y hay có thể cả một số giáo hoàng, nhưng hàng
giáo sĩ không dám nói lên. Ví dù cho giáo hoàng không có "
Đức Tin " cũng không dám nói, vì nói ra thì 1,3 tỷ người
công giáo sẽ hoảng loạn lên, còn hàng giáo sĩ thì sợ bị
" dứt phép thông công ", bị đuổi ra khỏi giáo hội Ki-Tô
La-Mã, làm mất tất cả quyền lợi tinh thần to lớn mà họ
đang có. Chỉ học có 4 hay 5 năm, cho đi tương đương với
" Cử Nhân ", nhưng một người có bằng Cử Nhân, cũng phải
chạy vạy hàng tháng, để kiếm việc làm nuôi thân, thì các
linh mục, một bước, đã nhảy lên làm Cha (đại diện cho
Đức Tạo-Hóa Giê-Su). Các cụ tuổi bằng ông, bằng cha phải
gọi các linh mục trẻ bằng Cha và xưng con, chưa nói đến
các giám mục, hồng y, có quyền hạn tinh thần vô biên đối
với giáo dân Ki-Tô giáo. Cũng như các ông sư, mới biết vài
câu kinh, vài tiếng kệ đã tự xưng là Thầy và bắt phật
tử, tuổi bằng cha mẹ mình, xưng con. Ở Âu, Mỹ, phần nhiều
(rất may là không phải tất cả) các ông sư, bà vãi, ít học,
trở thành triệu phú nhờ sự cuồng tín của phật tử.
Tôi
tôn trọng tín ngưỡng của mỗi người, tôi tôn trọng tất
cả các tôn giáo, vì tôi thấy con người quá nhỏ bé, quá
mỏng manh trên Trái Đất nầy, chứ đừng nói đến sự bao
la, huyền diệu của Vũ-Trụ, vì thế con người phải tin tưởng
vào một cái gì, vào một vị thần, vị thánh nào đó, để
xin cứu giúp, trong những lúc bi hoạn nạn hết cách chống
đỡ. Tôi có đọc một hồi ký chiến tranh : Một anh đại
đội trưởng, người theo đạo Công Giáo, bị địch vây tứ
phía, " con cái " của anh gồm khoảng 100 thuộc hạ, mà đã
có trên 60 người tử thương và bị thương, hai máy truyền
tin đều bị gãy, hết đường liên lạc với bộ chỉ huy
hay quân bạn. Anh quỳ xuống nhìn " con cái " mà khóc ròng vì
đã hết đường xoay xở. Anh nhìn lên trời, đọc kinh " Kính
Mừng " và anh nói trong khi quá bấn, anh cũng niệm Đức Quán
Thế Âm... Cũng may, trong khi dìu dắt nhau một cách vô vọng,
thì gặp được quân bạn, nhờ có máy truyền tin, nên anh
ta liên lạc được với bộ chỉ huy, và sau đó đã có trực
thăng đến đánh phá và đưa cả đại đội anh, gồm " con
cái " còn sống, thương binh và tử binh về bộ chỉ huy...
Theo tôi đây cũng chỉ là chuyện trùng hợp, chứ không phải
anh cầu Đức Mẹ Maria, Đức Quán Thế Âm, mà được thế,
và tôi tin anh ta sau nầy cũng không bỏ đạo Công Giáo. Chính
tôi, là một phật tử nhỏ bé, nhưng tôi tin có Tạo-Hóa.
Tôi biết phật pháp ít hơn giáo lý đạo Công Giáo nhiều
(trong 12 năm, học từ lớp Năm, đến lớp Đệ Nhất, tôi
đã để 10 năm, học các trường Bà Xơ, Cha Cố và Thầy Dòng
de La Salle). Theo Đức Thích Ca thì " Mình làm, mình chịu " (Luật
Nhân Quả), chứ không cầu Trời, Đất, Phật, Thánh gì được
cả, thế mà tôi, lúc gặp những chuyện nan giải, tôi cũng
niệm Đức Quán Thế Âm (một sản phẩm của các ông thầy
tu luận sư của Tàu, chứ không do Phật Giáo Nguyên Thủy má
có) [Theo Thích Chân Tuệ ở một chùa bên Canada thì phải,
nếu tôi không lầm], và đôi khi, tôi cũng đọc
kinh " Kính Mừng " để cầu Đức Mẹ Maria ! Cổ nhân ta có
câu " Có Sự thì vái Tứ Phương " là thế đó. Đến chùa
chỉ nghe niệm Phật A Di Đà (sau khi chết, được Đức Phật
A Di Đà đưa về cõi Tây Phương, Cực Lạc) hay niệm Phật
Quán Thế Âm (để được ân huệ), còn ít khi nghe niệm Đức
Phật Thích Ca. Theo tôi, nếu các chùa không cho phật tử "
cầu xin ", thì e các chùa phải đóng cửa, hay rất ít bổn
đạo lui tới. Có một vài ông sư biết chuyện " Phật A Di
Đà, Phật Quán Thế Âm... " là sản phẩm của phái Đại Thừa
Trung Hoa, nhưng các ông sư nầy, nói là không sao cả, vì đó
chỉ là " Phương Tiện " để tu học Phật Pháp, để khỏi
mất bổn đạo, và để tiếp tục làm triệu phú chăng ?
Tôi
viết những hàng trên, không có ý phạm đến đạo Công Giáo
mà tôi rất kính phục các nhà tu sĩ đã làm những điều
thiện to lớn cho xã hội (sau nầy, các tôn giáo khác mới
bắt chước), và phương châm " Thương Người như chính Mình
vậy ". Tôi viết ra để nói vì sao mà các vị hữu trách tiền
nhân của hầu hết các nước Châu Á lại cản, cấm đạo
Ki-Tô. Ở thế kỷ thừ 21, còn có một số ngưòi Âu, Mỹ
đã chịu phép " Rửa Tội " lúc còn nhỏ, khi lớn lên, họ
cũng không tin Đức Giê-Su là Tạo-Hóa, huống hồ là các nhà
hữu trách tiền nhân của chúng ta ở hầu hết các nước
Á Châu, nên các vị, vì bổn phận " Dân chi Phụ Mẫu " (Cha
Mẹ của Dân) đã cấm cản đạo Ky-Tô, để cho dân đừng
tin ở " Tà Đạo " (theo quan niệm của tiền nhân).
b)
Nguyên nhân thứ hai.
"
Thờ Cúng Ông Bà ". Chuyện thờ cúng Ông Bà đã có từ thời
Tiền Sử. Tiền nhân của hầu hết nhân loại đều lo chỉnh
đốn mồ mả của Ông Bà, Cha Mẹ quá cố, có ý là nhớ thương,
nhớ ơn công lao dưỡng dục (nuôi nấng và dạy dỗ) của
Ông Bà, Cha Mẹ, và theo thời gian, ở Á Châu, phần nhiều
gia đình nào cũng có bàn thờ Ông Bà, Tổ Tiên, ngoài các
từ đường của mỗi họ. Thờ Ông Bà cũng không ngoài ý
nghĩ đã trình trên, chứ không cho Ông Bà mình là Thần Thánh
gì cả. Chữ Hiếu, càng ngày càng rộng hơn, như con cái phải
tôn kính cha mẹ, ông bà, phải lo chăm sóc cha mẹ, ông bà...
và từ đó biến thành các hành vi ứng xử đạo đức trong
xã hội mà luật pháp phải thừa nhận. Hỗn láo với cha me,
ông bà là phạm tội trước luật pháp ; đi thi (3 năm một
lần) mà nếu cha mẹ, ông bà mất, thì phải ngừng thi, để
về chịu tang...
Thế
mà các giáo sĩ Ki-Tô không hiểu điều đó, lại cho là đi
thờ Ma Qủy, nên cấm các giáo dân thờ Ông Bà. Mặc dầu,
có vài thừa sai cảm thông về sự thờ cúng Ông Bà của người
Á Châu, nhưng các giáo hoàng thời đó (Innocent X và Alexandre
VII), triệt để không chấp nhận. Cũng như Pigneau có bàn cãi
với Nguyễn Ánh về chuyện lạy Ôn Bà của Thế Tử Cảnh
và Pigneau cũng nhận thấy chuyện thờ cúng Ông Bà và thờ
Trời (Tạo-Hóa) là hai chuyện khắc nhau và đã trình cho giáo
hoàng Clément XIV, nhưng giáo hoàng cho là thờ Ma Qủy, nên không
cho phép.
Dưới
thời Pháp thuộc còn tệ hơn. Các giáo sĩ Pháp dựa theo phong
tục của Pháp lúc bấy giờ, nên trong đám tang, thì linh cửu
phải sơn đen, bàn đám thì chỉ trang hoàng bằng vải trắng,
đen, không được sơn linh cửu bằng màu đỏ, bàn đám tang
cũng không được trang hoàng bằng các màu xanh, đỏ, lục
vàng, không được thắp hương... (chính mắt tôi thấy), vì
cho đó là tượng trưng cho Ma Qủy. Cũng vì thế, người ta
có cảm tưởng là người theo đạo Công Giáo đứng ngoài
lề của xã hội. Mãi đến những năm 1957, 1958, dưới nền
đệ nhất Cộng Hòa Miền Nam, người theo đạo Công Giáo mới
được thắp hương để hoà mình vào xã hội truyền thống
của Việt Nam. Và sau đó có cộng đồng Vatican II (1962), người
theo đạo Công Giáo mới chính thức hòa đồng vào xã hội.
Hiện giờ, ta thấy ở các nhà thờ Công Giáo có hương, trầm,
đèn đuốc như ở các chùa hay đền thờ của các đạo khác
ở Việt Nam.
Năm
1996, tôi có về thăm Việt Nam với hai đứa con tôi, chúng
tôi có đi thăm một ngôi nhà thờ ở gần chùa Vĩnh Nghiêm,
trên đường Lý Chính Thắng, thì thấy trước hiên nhà thờ
có để một cái chuông chùa (ở phía dưới nó không lòe ra,
mà hình trụ), và được đánh bằng một đùi gỗ. Hai tiếng
chuông nhà thờ và chuông chùa khác nhau. Tiếng chuông nhà thờ
(chuông phần dưới lòe ra), được treo trên tháp chuông, được
đánh rất nhanh, để hối thúc giáo dân đến cho kịp dự
Thánh Lể, tiếng chuông có âm thanh rất cao, trung bình là 400Hz,
tương ứng với nốt La3, còn chuông chùa (phần dưới hình
trụ) được đánh chậm, âm thanh trầm và ngân nga đến cả
mấy cây số, tần số trung bình là 147Hz, tương ứng với
nốt Ré2, làm cho tâm hồn người nghe, được trầm lặng,
thỏi mái.
2)
Cấm đạo.
Vua,
Chúa nước ta và các nước Á Châu, đã đối đải tử tế,
lễ phép với các thừa sai, vì họ có kiến thức khoa học
hơn tiền nhân của chúng ta, nhưng họ đem " Tà Đạo " (theo
quan niệm của tiền nhân) vào dạy dân của chúng ta, nên các
vị vua chúa Á Châu đã thành khẩn mời các thừa sai ra khỏi
nước của chúng ta.
Ở
Việt Nam, như cụ de Rhodes bị mời đi 4 lần [Theo Thụy
Khuê trong " Khảo sát công trạng những người Pháp giúp vua
Gia Long "], rồi cũng lén lút trở về Đại Việt,
hay giám mục Dominique Lefèbvre (tên Việt là Pha-ba-ly-e) cũng
được mời đi nhiều lần, một cách long trọng, thế mà một
lần được mời đi, là một lần chui rúc về Đại Nam cho
được, nhờ các giáo dân che chở, để làm giám mục Gia Định,
để rao giảng thêm, càng đông người theo Ki-Tô giáo La-Mã
càng tốt, và cho đó là một vinh hạnh trước Thien-Chúa [Xem
Dominique Lefèbvre tên Wikipedia, và Nguyễn Quóc Trị, sđd, trang
703, NQTrị trích dẫn sử gia Phan Khoang]. Đây chỉ
nói đến de Rhodes và Lefèbvre, nhưng hầu hết các thừa sai
khác (có hàng chục người) đều làm như vậy cả, chưa nói
đến là họ còn lén lút đưa thêm thừa sai, càng nhiều càng
tốt, vào Đại-Nam để rao giảng, mua chuộc dân chúng ở nông
thôn, ít học (khoảng 90 đến 95%). Rồi càng ngày, càng đông
thừa sai đến Đại-Nam, nên vua, chúa của chúng ta phải cấm
" Tà đạo " trong dân chúng.
Cũng
nên nhớ là các thừa sai thực dân, ăn lương hàng năm của
các vị vua Pháp. [Xem Nguyễn Charlie " Tuyển Tập Độc
Thần Giáo : Tôi ác của Hôi Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ
19 ".].
Giám
Mục đi võng lọng như Vua Quan.
(Nguồn:
"Tuyển Tập Độc Thần Giáo")
3)
Vì sao bách hại những thừa sai và những người đầu não
theo đạo Ki-Tô.
Lịch
sử Pháp không nói đến những phạm pháp tày trời của các
thừa sai, mà chỉ nói đến sự bách hại các thừa sai và
giáo dân của họ !
Các
vua Minh-Mạng, Thiệu-Trị và Tự-Đức không muốn bách hại
người theo đạo Công Giáo, chỉ muốn cấm " Tà Đạo " và
mời các giáo sĩ ra khỏi nước Việt-Nam, nhưng càng mời họ
đi, thì họ lại chui rúc về lại Việt-Nam và xúi dục dân
theo đạo Công Giáo (phần đông là ít học) chống lại triều
đình, nên các vị vua trên mới giết để làm gương cho quốc
dân. Sau đây tôi xin dẫn chứng qua loa vài trường hợp :
Nguyễn
Vĩnh-Tráng.
Tiết
Hàn Lộ, năm con Cọp
109
102 022 nvt*ttl*
Xin
xem tiếp Phần IV.
Có khoảng 65 Tài
Liệu tham khảo. Xin xem ở cuối bài viết.
|