Sử
thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên
trường ca bất tử của nhân loại
(bài 2)
Nhất
Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển
ngữ thơ lục bát
|
|
THI
CA KHÚC II : PHẦN I - ZEUS GỬI THẦN BÁO MỘNG
Các triết gia Hy
Lạp ngày xưa hăm he bọn thi sĩ du tử : " Hãy choàng vòng hoa
lên cổ bọn thi sĩ, và đuổi chúng ra khỏi thành phố, vì
chúng bất kính với thần thánh ". Tại sao lại choàng vòng
hoa vinh danh, và lại đuổi đi ? Đọc Trong thơ Iliade và Odyssée,
nhiều đoạn Thi hào Homère diễu cợt với thần Zeus, các thần
thánh và cả đến vua chúa. Thần Vương Zeus, ông Trời, Thượng
Đế là quyền uy của cả vũ trụ, Thiên tử giống như Trung
Quốc, Cha của các vị vua. Ý trời cao cả định đoạt sống
chết, vận mệnh tương lai tất cả mọi con người, mọi sinh
vật. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được
phần thanh cao (Kiều). Thế mà Ông Trời còn sợ Bà Trời,
thừa lúc bà Trời ngủ mới ra lệnh cho Thần Báo Mộng, toan
tính làm theo ý mình, theo lời người mình yêu, Thétis, mẹ
của Achille dặn dò, chợt nghe Bà Trời trở mình, sợ Bà Trời
nghe biết rầy rà, đã đổi ý, đành nói xuôi cò theo lời
Bà Trời. Thời Trung Cổ Tây Phương, sau khi đuổi thi sĩ du
tử ngâm thơ Homère, người ta giải quyết bằng cách không
cho ông Trời có vợ, có con ; dẹp hết chuyện vợ, con ông
Trời.. Ông Trời tự sinh ra, sinh ra cả vũ trụ và sống độc
thân một mình. Các bà có thai, có con khi chồng đi chiến trận,
chồng về nhà thì bảo là con của Thần Zeus, Thần hóa thành
con ngỗng xuống ân ái, phải đành câm miệng ; từ thời Trung
Cổ bà vợ được chồng tặng cho cái quần lót bằng sắt,
chồng đi xa, mang theo cả chìa khóa. Tưởng tượng điều kiện
sống phụ nữ khổ sở thế nào khi phải mang quần lót bằng
sắt mà chúng ta còn thấy trong các viện bảo tàng. Thời Trung
Cổ Âu Châu tàn bạo không kém tại Á Châu dùng biện pháp
thiến hết các thái giám hầu hạ nơi cung đình.
Vua Agememnon, là
vua các vị vua Hy Lạp toan tính nói lời kích động, nói ngược
để làm hừng chí binh sĩ, nào ngờ hậu quả ngược lại,
quân sĩ reo hò chạy tuốt luốt ra chiến thuyền, toan rút quân
trở về. Thi hào Homère đã diễu cợt với ý Trời, ý Vua.
Bọn thi sĩ du tử từ ngàn xưa đã xem thường cái kỷ cương
của ông Trời, của Vua. Nhưng chúng được nhân dân yêu mến,
không choàng vòng hoa cho chúng thì choàng cho ai bây giờ, ngày
xưa dân Hy Lạp mùa biển động, thích vừa ngồi bắt chí
cho nhau, cắn chí bộp bộp, thật đã ngứa, nghe thi sĩ diễu
: Ông Trời sợ vợ, ý một đằng, sợ vợ làm một nẽo.
Ông Vua nói một đằng, binh sĩ làm một nẽo, thật là đã
ngứa, thật tức cười. Ngày nay ta tự cười, nào có phải
chuyện xa xôi trên trời, thời nào cũng có bọn phản chiến,
mà chúng nói có sai đâu ? trong lịch sử đầy những chuyện
như thế : Vua Càn Long sai Tôn Sĩ Nghị sang nước ta chờ ván
cờ Ngư ông đắc lợi, Lê Chiêu Thống đánh với quân Tây
Sơn cho đến kiệt lực, Tôn Sĩ Nghị sẽ bắt bỏ cả hai
vào rọ, nào ngờ quân và dân phu Trung Quốc thấy voi bỏ chạy
làm sập cả cầu phao chết đuối, Tôn Sĩ Nghị phải vất
cả ấn tín chạy về nước. Mới ngày nào Tổng Thống Thiệu
mưu tính rút quân Chiến lược, tái phối trí chiến trường..
ZEUS GỬI THẦN BÁO
MỘNG
Zeus( Dớt) gửi
Thần Báo Mộng(Songe) báo cho vua Agamemnon, Thần Vương toan nói
điều Thần nữ Thétis cầu xin, nhưng Héra (Hạ Cơ) trở mình,
sợ vợ nghe biết đành nói xui cò theo ý vợ. Vua Agamemnon (An
Gia Đại Vương) trình bày giấc mơ mình với các vua Hội Đồng
Liên Quân và cho duyệt binh tướng để công thành Troie với
hy vọng chiến thắng. Để kích động binh sĩ, vua Agamemnon
giả vờ nói rút quân, nào ngờ đâu quân sĩ tưởng thật,
vui mừng ùa chạy xuống thuyền. Ulysse (Uy Lĩnh) ngăn cản binh
sĩ, trừng phạt Thersite(Thạc Đức) làm rối rắm kỷ cương.
Mọi người lại quyết tâm sẵn sàng chiến đấu.
|
Thần, người trong
giấc ngủ say, (611)
Dớt còn trăn trở,
ngất ngây với tình.
Hứa lời phục
hận An Sinh
Làm cho binh tướng
An Kinh nhọc nhằn.
Nửa đêm rón rén
gót chân,
Hạ Cơ say ngủ
giấc nồng thần tiên.
Trời bèn vào đến
phòng bên,
Gọi Thần Báo
Mộng đến truyền lệnh mau.
Lòng thầm nghĩ
đến mưu sâu,
An Kinh cùng cực
ngóc đầu chẳng lên: (620)
Hãy mau đến
các chiến thuyền,
An Kinh đang đóng
vây thành vua Bam (Priam),
Báo tin An Gia
Đại Vương,
Hãy mau điểm
tướng duyệt binh công thành.
Thời cơ thuận
lợi đã dành.
Bỗng nghe có tiếng
trở mình khẽ ho,
Dớt hạ giọng
nói xuôi cò :
Thiên Đình ai
cũng đành lo chung cùng,
Ý Hạ Cơ, Trời
đồng tình,
Cho nên toàn
thể các Thần đều theo, (630)
Chẳng còn chia
rẽ gây nhau,
An Kinh sẽ thắng
hãy mau công thành.
Mộng Thần vâng
lệnh bay nhanh,
Đến ngay doanh
trại binh thuyền An Kinh.
An Gia Vương giữa
trung quân,
Đang say ngủ bỗng
thấy thần trong mê:
Ngủ sao Tôn
tử An Lê (Atrée),
Nổi danh luyện
mã, giỏi nghề kỵ binh.
Làm sao ngủ
mãi, mặc tình,
Trong tay quân
tướng bên thành âu lo. (640)
Hãy nghe ta Thần
Giấc Mơ,
Lời Thần Vương
Dớt dặn dò với ngươi,
Dù Ngài cách
biệt xa vời,
Nhưng luôn lo
lắng phận người yêu thương.
Hãy mau sửa
soạn hùng binh,
Đặng mà phá
lũy công thành Troa quân.
Các Thần ở
chốn Thiên Sơn,
Không còn ý
kiến tỵ hiềm với nhau.
Ý Hạ Cơ thảy
đều theo,
Tang thương lơ
lững trên đầu quân Troa. (650)
Bại vong trận
cuối, thua to,
Mà Thần Vương
Dớt phán cho số phần.
Hãy ghi nhớ
giấc mộng thần,
Dịu như mật
ngọt ta truyền hôm nay.
Nói rồi Thần
Mộng tung bay,
An Gia Vương tỉnh
giấc say bàng hoàng.
Mặc nhung y, khoát
áo choàng,
Hài vàng, trường
kiếm mang quàng ngang vai.
Tay cầm vương
trượng truyền lời:
Hội Đồng Vua
Tướng đến nơi họp bàn. (660)
Hịch vua từ chốn
trung quân,
Bước chân thị
vệ dọc ngang chiến thuyền.
Thần Bình Minh
đỉnh Thiên Sơn,
Tỏa tia nắng sáng
đến muôn thiên thần.
Sáng soi đến cõi
dương trần,
Khắp nơi tề tựu
Hội Đồng Trung Quân.
Bước vào đại
trại quân doanh
Ninh Tô Vương lão,
vua thành Phi Lô.
Trước bàn tướng
lĩnh quân cơ,
An Gia kể lại
giấc mơ đêm rồi. (670)
Ninh Tô Vương lão
giải bày:
Chẳng nghi ngờ
nữa mộng này Thần ban,
Việc quân cơ
mật sẵn sàng,
Duyệt binh điểm
tướng lệnh quân công thành.
Riêng An Gia Vương
muốn thử lòng,
Kích động quân
sĩ quay chân trở về,
Dặn dò tướng
lĩnh vỗ về,
Dùng lời hùng
tráng hội thề ba quân.
Ninh Tô bàn luận
mộng rằng;
Kính thưa : chiến
hữu Hội Đồng Quân Cơ, (680)
Nếu là người
khác nằm mơ,
Chúng ta bác
bỏ điềm vơ vẫn này.
Nhưng điềm
Thần giáng hôm nay,
Cho vua cao cả
nhất người An Kinh.
Hẵn là Thần
Dớt đã ban,
Ta nên theo lệnh
sẵn sàng tiến công.
Lệnh vua giải
tán Hội Đồng,
Mọi người đứng
dậy quân trung lệnh truyền.
Đi theo vua tướng
đồng lòng,
Thôi đánh điền
dã, nay cùng giao tranh. (690)
Như bầy ong giữa
hoa xuân,
Từ thuyền từ
trại dòng dòng tủa ra.
Thần Tin Đồn
đã loan xa,
Sứ Thần Vương
Dớt tin qua mộng truyền.
Binh đoàn đông
chật giáo khiên,
Ầm ầm dậy đất,
khắp miền tiếng la.
Chín người thị
vệ tiếng loa,
Chỉnh tề quân
ngũ, chiến xa hào hùng.
Lắng nghe từ tiếng
quân trung,
Lời ban truyền
hịch, vua dòng Thần Vương. (700)
Bốn bề quân sắp
thẳng hàng,
Giơ cao vương trượng,
lặng im lệnh truyền.
Cây vương trượng
của uy quyền,
Do Thần Hoả Thái
chạm nên ngọc ngà.
Dâng Thần Vương
Dớt ban ra,
Dớt giao Mai Hạc
(Hermès) truyền qua sứ thần.
Phong vương Phi
Hổ (Pélops) anh hùng,
Phi Hổ truyền
đến con dòng An Lê (Atrée).
An Lê mất để
ngôi về,
Thụy Chân (Thyeste)
giàu có bò dê đầy đồng. (710)
Thụy Chân truyền
An Gia Vương (Agamemnon),
Làm vua trăm đảo
xa gần biển xanh.
Và Đạt Gô Lịch
(Argolide) trị dân,
Xứ giàu hùng mạnh
nhất vùng An Kinh.
Nhìn cây vương
trượng uy quyền,
Toàn quân im đợi
lệnh truyền quân trung.
An Gia Vương muốn
thử lòng,
Thay vì cổ vũ
tiến công sẵn sàng.
Vua lại lên tiếng
thở than,
Hao người, tốn
của, nỗi buồn chiến tranh: (720)
Hỡi toàn quân
dân Đa Niên (Danaens),
Thờ Thần Chinh
Chiến (Arès) xả thân chiến trường,
Thần tử Cồ
Nốt (Chronos) đảo điên.
Đã không giữ
hứa, đan tâm dối lừa,
Gật đầu ưng
thuận ngày xưa,
Thành Ý Long
(Ilion) đó, cho ta phá thành.
Nhưng nay thành
vẫn vững bền,
Hùng cường
còn đứng một vùng trời Đông.
Vậy là Trời
đã dối dang,
Dù binh ta đã
đông hơn kẻ thù. (730)
Bao năm vây hãm
đánh nhau,
Vẫn không phá
được thành hào Ý Long,
Chín năm hao
hụt quân binh,
Chiến thuyền
gỗ mục, dây mòn, cáp lơi.
Vợ con trông
ngóng xa vời,
Ruộng vườn
hoang dại, chẳng ai cấy trồng.
Chi bằng trở
lại non sông,
Chẳng màng tranh
đấu, chiến trường mà chi.
Tưởng rằng lời
nói ngược tai,
Sẽ làm kích động
quân giai như lời. (740)
Nào ngờ lới nói
trêu ngươi,
Dao lòng người
chẳng dự nơi Hội Đồng.
Đám đông như
ngọn sóng tràn,
Reo hò, như lớp
trùng trùng sóng xô.
Chạy về thuyền
rối tơ vò,
Như ong vỡ tổ
ra bờ biển xanh.
Mịt mù cát bụi
không trung,
Mừng vui, sung sướng
chạy nhanh xuống thuyền.
Tiếng reo vọng
đến Thiên Đình,
Héra lo ngại sự
tình thảm thê : (750)
Quán Trí (Athéné)
hãy cản đường về,
Dùng lời dịu
ngọt vỗ về sĩ quân.
Hãy mau trở
lại công thành,
Lẽ nào để
lại vua Bam (Priam)cuộc cờ.
Cho Phi Tuấn
(Pâris) Hạ Lan Đạt Gô (Hélène d’Argos),
Trải bao xương
máu cơ đồ chín năm.
Hãy mau nhanh
cản bước chân,
Đoàn quân giáp
sắt đang toan rút về,
Chiến thuyền
hậu cứ gần kề,
Gieo lời kích
động hội thề tiến công. (760)
Quán Trí, mắt
cú tinh anh,
Tung mình từ đỉnh
Thiên Sơn xuống trần,
Đến ngay trước
mặt binh đoàn,
Gặp ngay Uy Lĩnh(Ulysse)
trầm ngâm sững sờ .
Bên thuyền đen
dọc bến bờ,
Chàng còn đứng
lặng, bất ngờ biết sao ?
Quán Trí Tuệ giọng
ngọt ngào :
Uy Lĩnh tài trí
nghĩ sao cơ đồ ?
Lên thuyền bỏ
cuộc mặc cho,
Quân Troa ngạo
nghễ reo hò chiến công ? (770)
Bỏ Hạ Lan nỗi
hận lòng.
Mặc cho xương
máu anh hùng chín năm !
Hãy mau ngăn
chận đoàn quân,
Xuống thuyền
toan bỏ tay không trở về.
Hãy dùng lời
ngọt vỗ về,
Ngăn thuyền
rời bến toan bề rút quân.
Uy Lĩnh nhận diện
Nữ Thần,
Vất Âu Thy Bậc
(Eurybate), áo choàng cầm tay,
Vội vàng tìm đến
Vua ngay,
An Gia trao trượng
cầm thay uy quyền. (780)
An quân tái lập
lệnh truyền,
Vỗ về quân sĩ,
nội tình hỗn mang.
Cầm tay vương
trượng hiên ngang,
Dọc theo bãi vịnh
neo bên thuyền đồng.
Gặp từng thủ
lĩnh, đại vương,
Dặn dò ban lệnh
đoàn quân vào hàng.
Tướng, Vương
ngồi xuống làm gương,
Lệnh đoàn quân
xếp lặng yên lệnh truyền.
Chúng ta đã
dự hội bàn,
Vua An Trích muốn
thử lòng mà thôi. (790)
Chớ nên lầm
lẫn ý lời,
Ý Thần Vương
Dớt sáng soi mộng này.
Từng quân đoàn
chỉnh tề ngay :
Lặng im quân
sĩ, nghe đây lệnh truyền.
Giơ cao vương trượng
uy quyền,
Tiến lên về phía
quảng trường trung quân.
Bốn bề im bặt
bước chân,
Còn nghe từng đợt
sóng thầm đi qua.
Như sau bão táp
phong ba,
Biển trời lại
sáng, bờ xa nắng hồng. (800)
Đoàn quân ngồi
lại theo hàng,
Chỉ còn Thạch
Đức (Thersite) hãy còn ba hoa,
Nhỏ to bàn bạc
vào ra,
Xỏ xiên, phá phách,
lời pha tiếng cười.
Xấu trai, mắt
lé, bé người,
Lưng còng, đầu
nhọn, lời xời râu trê.
Lệnh trên, hắn
chẳng thèm nghe,
Lại còn diễu
cợt, lè phè mép môi.
Chê An Sinh (Achille)
chẳng tiếc lời,
Ghét luôn Uy Lĩnh,
nhạo cười kỷ cương. (810)
Nay ngạo An Gia
Đại Vương.
Cất lời the thé,
trêu gan hỗn hào :
Vua An Trích,
thiếu bao nhiêu ?
Cần bao nhiêu
nữa đủ điều thở than ?
Bao nhiêu phẩm
vật đồng, vàng.
Bao nhiêu mỹ
nữ tấm thân ngọc ngà.
Toàn quân sống
chết xông pha,
Dâng bao nhiêu
nữa cho vừa lời than.
Tang thương xương
máu sống còn,
Phơi thây trăm
họ nên công một người. (820)
Về đi thôi,
anh em ơi !
Mặc ai tranh
gái, tranh ngôi làm gì !
An Sinh công sức
ai bì,
Thế mà cũng
bị tước đi lấy phần,
Chúng ta tay trắng
hoàn không,
Chiến công xương
máu đầy đồng cho ai ?
Đến bên Uy Lĩnh
véo tai,
Đập ngay vương
trượng trên vai tức thì :
Thạch Đức,
mi hãy im đi,
Ba hoa hãy liệu,
giữ mi cái đầu. (830)
Chớ nên lăng
nhục cấp cao,
Vua, tôi tướng
sĩ làm sao ngang hàng.
Mi còn ăn nói
huênh hoang,
Lần sau ta sẽ
lột luôn áo quần,
Đuổi mi ra khỏi
đoàn quân,
Đánh cho trăm
trượng tội hình nói ngông.
Mi từng gọi
tên ta bằng,
Cha Thế Viễn
Mạc (Télémaque) ta không nói gì,
Từ nay còn gọi
thế thì,
Ta chẳng tha
nữa, thẳng tay trị trừng. (840)
Thạch Đức sợ
hãi lặng thinh,
Lau dòng nước
mắt chảy quanh đôi hàng,
Mọi người bỗng
rộ cười lên :
Tướng quân
Uy Lĩnh trị quân đúng thời,
Chớ nên vì
chuyện nhỏ nhoi,
Để thằng lếu
láo, móc moi sự tình,
Làm cho binh sĩ
nãn lòng,
Chẳng còn ý
chí tiến công trận tiền.
Tướng Uy Lĩnh
đứng oai nghiêm,
Cầm tay vương
trượng uy quyền vua ban, (850)
Quán Trí Tuệ đứng
kề bên,
Hiện ra dưới
dạng sĩ quan cận kề,
Sáng soi mắt cú
bốn bề,
Khiến cho quân
sĩ vỗ về lặng im.
Uy Lĩnh cất giọng
hùng trầm :
Vua An Trích muốn
thử lòng toàn quân,
Cho nên nói ngược
rút quân,
Ý là Vua muốn
nhục vinh khích lòng.
Nào ngờ quân
sĩ tưởng lầm,
Lấy điều nhục
nhã, bại vong tức thì. (860)
Chúng ta chưa
thể rút đi,
Ngày chưa phá
được Ý Long thành này.
Hiểu lòng quân
sĩ hôm nay,
Xa con, xa vợ
mong ngày đoàn viên.
Chín năm xông
xáo chiến trường,
Trận đồ kết
thúc, công thành là đây.
Lòng ta kiên
nhẫn lúc này,
Lẽ nào tủi
nhục trắng tay về nhà.
Can trường bạn
chứng cùng ta,
Tiên tri Cát
Sĩ nói là : đúng, sai ? (870)
Chúng ta chứng
kiến điều này,
Nơi thành Âu
Lịch (Aulis) những ngày hội binh.
Nơi nguồn suối,
bàn thờ thần,
Dưới tàn cây
rộng ngô đồng, xuất quân.
Chúng ta cầu
khấn các Thần,
Điềm thiêng
hiển hiện trên cành cây xanh.
Một con rắn
đỏ sậm lưng,
Đớp luôn một
lúc cả đàn sẻ con.
Tám con trong
tổ kêu vang,
Cả con sẻ mẹ
cánh vờn chung quanh. (880)
Chín con chim
sẻ nuốt xong,
Thần đà hóa
kiếp, rắn thành đá rơi.
Chúng ta kinh
ngạc bồi hồi,
Tiên tri Cát
Sĩ bói lời tiên tri :
Chớ nên kinh
ngạc điềm này
Dớt đà gửi
đến báo ngày vinh quang,
Chín con chim,
ấy : chín năm,
Chúng ta sẽ
hạ được thành vua Bam.
Kinh đô đường
rộng huy hoàng,
Đúng điềm
tiên báo công thành hôm nay. (890)
Chúng ta sẽ
thắng trận này,
Năm nay ra sức,
ra tay công thành.
Năm thứ mười
của thành công,
Chúng ta thắng
trận cuối cùng năm nay.
Thần Vương
đã báo điềm này,
Chúng ta sẽ
thắng từ đây, chiến trường.
Quân Đạt Liên
vui reo vang,
Quanh thuyền binh
tiếng hô tràn không trung.
Ninh Tô Vương lão
hài lòng,
Cất lời cổ võ
tinh thần quân binh : (900)
Ai mà chạy tựa
trẻ con,
Chẳng lo âu
việc chiến trường binh cơ,
Đâu lời nguyện
ước dưới cờ,
Đâu lời thề
quyết, bên bờ suối trong.
Chiến công đánh
trận bao năm,
Lời thề ước
hẹn, công thành liên quân.
Lời thề bên
ngọn lửa hồng,
Rượu thề uống
cạn, một lòng đấu tranh,
Dù bao nhiêu
nỗi khó khăn,
Dù bao nhiêu
nỗi bất đồng cỏn con. (910)
Hỡi Vua An Trích
quân vương,
Giữ lòng dũng
cảm, can trường tiến công.
Dớt sai lời
chúng ta chăng ?
Không ! Thần
Vương chẳng phụ lòng chúng ta.
Một lời hứa
xuất quân ra,
Thần Vương
sấm chớp sáng lòa biển xanh,
Ý Ngài ban xuống
điềm lành,
Căng buồm nhanh
lướt con thuyền Đạt Liên.
Quyết gieo tang
tóc đảo điên,
Quân Troa chiến
bại, lũy đồn tang hoang. (920)
Lẽ nào trở
lại quê hương,
Khi chưa chiếm
đoạt nữ nhân Troa thành,
Trả thù mối
nhục Hạ Lan (Hélène),
Vì nàng danh
dự toàn dân tộc này.
Nhục thù ân
oán trả vay,
Lẽ nào ta lại
trắng tay trở về.
Điên cuồng,
ai trở về quê,
Mặc cho số
phận bạn bè nguy nan.
Nghĩ suy, hỡi
các tướng quân,
Đã từng bàn
bạc Hội Đồng cùng nhau. (930)
Theo lời sáng
suốt đổi trao,
Điều binh khiển
tướng, nhanh mau hợp đồng,
Từng bộ tộc,
từng đoàn quân,
An Gia thống
lĩnh, đấu tranh chiến trường.
Không hèn nhát,
chỉ kiên cường,
Hôm nay chỉ
có một đường có nhau,
Ý Thần Vương
đã truyền trao,
Quân ta sẽ thắng
cất cao ngọn cờ.
Ta không hèn
nhát bao giờ,
Ta không ngu muội
đợi chờ, chiến tranh. (940)
Đứng lên An Gia
Đại Vương:
Cám ơn Vương
lão có lòng khuyên răn,
Bầy con bộ
tộc An Kinh,
Những lời tâm
huyết, quyết tâm chiến trường.
Hỡi Dớt, đấng
Phụ vương,
An Long, Quán
Trí chứng lòng chúng ta.
Nếu có mười
vị như là:
Quân Sư Vương
lão Chiến Xa anh hùng,
Chúng ta sẽ
chóng hạ thành,
Vua Bam chiến
bại, tan tành giáp binh. (950)
Thao ôi, Trời
đã dục lòng,
Cho ta phạm những
lỗi lầm đau thương.
Ta cùng tướng
quân An Sinh,
Tranh nhau vì
chuyện nữ nhân khuê phòng.
Vì ta nóng nẩy
bất bình,
Nên ta lấn lướt
tranh giành phần hơn.
Nay ta đã biết
lỗi lầm,
Sẽ mau xin lỗi
với cùng tướng quân.
Giờ đây ta
quyết một lòng,
Chẳng còn biếng
trễ công thành quân Troa. (960)
Bây giờ trước
mắt ăn no,
Sẵn sàng chuẩn
bị phất cờ tiến quân.
Mài thương nhọn,
sắc gươm đồng.
Giáp khiên tề
chỉnh, đội hình oai nghiêm.
No nê chiến
mã nhanh chân,
Chiến xa tu bổ,
tên đồng, dây thang.
Mỗi ngày Thần
Chiến định phần,
Ngày không một
chút nghỉ bàn quân cơ,
Đêm không để
một hở sơ,
Lửa lòng chinh
chiến, đợi chờ khẩn trương.
(970)
Bao mồ hôi đổ
chiến trường,
Chiến bào ướt
đẩm, ngọn thương chẳng sờn.
Mồ hôi thấm
ướt yên cương,
Chiến xa tung
gió bụi đường xông pha.
Kẻ nào hèn
nhát ở nhà,
Kiếm đường,
kiếm cớ chẳng ra chiến trường.
Quẩn quanh ẩn
náo bên thuyền,
Luật quân trừng
trị, vất thân sói diều.
Hào hùng cất tiếng
hô cao,
Tiếng vang như
sóng dội vào ghềnh xa. (980)
Gió Nam phong thổi
đi qua,
Còn vang vọng tiếng
phong ba ầm ầm.
Ro hò giải tán
đoàn quân,
Về thuyền hậu
cứ, bữa ăn sẵn sàng.
Khói mờ bên trại
nhẹ lên,
Lửa hồng cúng
tế các Thần phúc ban.
Gửi thân Thần
Chiến sa trường,
Khẩn cầu thoát
khỏi nguy nan trở về.
An Gia Vương tế
sinh bò,
Vừa tròn năm tuổi,
lông tơ béo tròn. (990)
Cồ Nốt Thần
tử phúc ban,
Giúp cho phần thắng
gian nan chiến trường.
Vua cho mời các
quân vương,
Đến cùng hiến
tế hiệp thương luận bàn.
Ninh Tô Vương lão
trước tiên,
Cùng các quý tộc
An Kinh hợp đồng.
Vua Anh Đô Mai (Idoménée)
can trường,
Và hai An Bắc (Ajax)
tướng quân anh hùng.
Tinh Đê (Tydée)
Tôn tử kiên cường,
Uy Lĩnh là sáu
mưu khôn như thần. (1000)
Mai Ninh Vương (Ménélas)
cũng theo chân,
Nỗi tình nung nấu,
nỗi lòng anh em,
Bên bò rắc lúa
mạch xong,
An Gia cầu Dớt,
Thần Vương Thiên Đình:
Thần Vương
ban phúc ban ân,
Thần Vương
cao cả vinh quang chiến trường.
Từ ánh sáng
đỉnh Thiên Sơn,
Cho tôi chiếm
được cung đường Vua Bam.
Lửa cháy trên
các cửa thành,
Giáo thương
đâm thủng giáp binh kẻ thù. (1010)
Thủng lồng
ngực tướng Hắc Tô,(Hector)
Cùng bao chiến
tướng, chiến bào tang hoang.
Thua cơ đại
bại chiến trường,
Gục trong bụi
đất, hàm răng nuốt bùn.
Cồ Nốt Thần
tử Thiên Đình,
Còn chưa chấp
nhận lời xin khẩn cầu,
Lễ hiến tế,
Thần gật đầu,
Nhưng còn bao nỗi
cơ cầu máu xương.
Sau khi rắc lúa
mạch xong,
Vật sinh thọc
huyết, một dòng máu tuôn. (1020)
Lột da chặt các
đùi tròn,
Phủ lên một lớp
trắng tinh mỡ chài,
Ruột lòng ghim
ướp rượu mùi,
Lửa thần tí tách
reo vui củi cành.
Sau khi đùi đốt
tế Thần,
Mới cùng xẻ thịt
nướng vần lửa than.
Nấu nêm các món
thơm ngon,
Mới cùng dạ tiệc
rượu nồng mời trao.
Chia phần thịt
nướng đều nhau,
No nê rồi mới
vài câu luận bàn. (1030)
Ninh Tô Chiến Xa
Lão Vương,
Ngỏ cùng Nguyên
Soái chiến trường An Kinh:
An Trích An Gia
Đại Vương,
Chúng ta đã
họp luận bàn cùng nhau.
Những điều
thần ý truyền trao,
Giờ đây nhanh
chóng cùng mau công thành.
Mau gọi thị
vệ lệnh truyền,
Gọi binh giáp
dọc chiến thuyền An Kinh,
Giáo khiên tập
họp đội hình,
Dàn quân thẳng
hướng vây thành tiến công. (1040)
Nghe lời Vua An
Gia Vương,
Lệnh đoàn thị
vệ loa tin truyền lời.
An Kinh chiến sĩ
tóc dài,
Nhanh chân tụ hợp
quanh người chỉ huy.
Các vua thủ lĩnh
oai nghi,
Duyệt binh cưỡi
ngựa quân đi trùng trùng.
Quán Trí Mắt Cú
Nữ Thần,
Cầm khiên huyền
nhiệm lẫy lừng chiến tranh,
Trăm tua vàng tỏa
ánh hồng,
Mỗi tua vàng đáng
giá trăm con bò. (1050)
Cầm khiên vàng
nhìn khắp bờ,
Mắt Thần thúc
giục quân cơ đội hình.
Tiến lên nhịp
trống thúc quân,
Dục tim dũng sĩ,
anh hùng xông pha.
Máu say gươm giáo
chói lòa,
Say mê trận chiến
trường xa chẳng nề.
Chẳng còn nhớ
đến tình quê,
Xuống thuyền quay
gót trở về quê hương.
Rừng xa ngọn lửa
bừng bừng,
Núi cao rực đỏ
sáng trưng mây hồng. (1060)
Giáo dài thép lạnh
không trung,
Gươm đồng lấp
lánh, trùng trùng tiếng vang.
Như muôn cò hạc
chiều vàng,
Đất bằng dậy
sóng, chim ngàn tung bay.
Đồng Á (Asias)
sân Cây (Caystre) đó đây.
Tiếng kêu vang
vọng trời mây chập chùng.
Từ chiến thuyền
đến trại quân,
Lời vang tiếng
vọng khắp đồng Sa Măng (Scamandre).
Đất bằng vang
dội bước chân,
Ngựa phi rộn rịp
trên đồng hoa lay. (1070)
Trùng trùng như
lá rừng cây,
Như hoa xuân nở
trắng bay trên đồng.
Như ruồi, ong đến
trại xuân,
Sữa tươi đầy
vại chờ mong phút này.
Trước quân Troa
trận dàn bày,
An Kinh chờ đợi
phanh thây quân thù.
Như cừu dê chốn
đồng sâu,
Mục đồng chăn
dắt từng câu lệnh truyền.
Tướng quân cưỡi
ngựa oai hùng,
Binh dàn đội ngũ
thẳng hàng theo sau. (1080)
Lệnh truyền, cờ
hịch nối nhau,
Oai nghiêm quân
tướng bước mau chiến trường.
An Gia Thống Lĩnh
Đại quân,
Đầu như Thần
Dớt sấm truyền khắp nơi.
Đai như Thần Chiến
(Arès) rạng ngời,
Ngực Hải Long
(Poséidon) thổi khắp trời bão giông.
Bước đi hùng
dũng như thần,
Bước như bò mộng
giữa đồng cỏ xanh.
Theo chân bầy thú
quây quần,
Chiến trường
chờ đợi tiến quân rửa hờn. (1090)
Chú thích:
Chronos thần tử:
con Cồ Nốt tức là Zeus. Zeus con Chronos Ngày xưa Hy Lạp chưa
có họ, người ta thường gọi: Ông B, con ông A. Tôi dùng thần
tử (con thần) tôn tử cho bậc quyền quý, nương tử cho bậc
phu nhân cho đẹp câu thơ thay vì nói con ông, con thần. Nếu
gọi tên Ulysse thay vì con Laerte, (tôn tử Laerte), lại gọi
là cha Télémaque là hổn hào xấc xược.
Đánh điền dã:
Trong khi vây thành Troie, quân Achéens đi đánh các vùng lân
cận để lấy lương thực nuôi quân sĩ.
Athéné : Quán Trí
Thần Nữ khi ra trận thường cầm chiếc khiên thần bất tử,
chẳng gươm giáo trần đâm thủng, làm hư hỏng.
Arès: Thần chiến
có thân hình thon. Poséidon có ngực rộng.
Kỳ tới Sử Thi
Iliade 3, Thi Ca khúc II. phần I. Điểm binh quân tham chiến.
Paris
20-5-2016
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
*Tiến
sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
|
|