THI
CA KHÚC II. PHẦN 2
QUÂN
THAM CHIẾN TRẬN ĐÁNH THÀNH TROIE (1193-1183 trước TL) .
Theo các sử gia,
cuộc chiến tranh thành Troie trong 10 năm xảy ra vào năm 1193-1183
trước Tây Lịch. Thành Troie còn gọi là thành Ilion, xưa nằm
giữa Hellespont, Phrygie và đảo Lesbos, kinh đô nằm tả ngạn
sông Mandérès-Scamandre, chu vi khoảng 12 Km, có thành Bunar-Baschi
vòng thành 2km dựng trên mõm đá cao 154m. Nhưng theo Schieman
người Đức năm 1871-1890 khai quật di tích lại cho rằng thành
Troie nằm trong khu vực Hissarlik tiếng địa phương gọi là
cổ thành. Vùng này xưa kia thuộc Hy Lạp, nay thuộc Thổ Nhĩ
Kỳ.
Uất hận Hoàng
hậu Hélène bị Pâris quyến rũ đem về thành Troie.. Vua Ménélas
đến gặp anh Agamemnon, vua Mycènes bàn cách trả thù. Hai anh
em bàn với lão vương Nestor kêu gọi hợp binh Hy Lạp, kêu
gọi các vị anh hùng đã từng cam kết trong lễ thành hôn
Ménélas và Hélène, mọi người thề trước thần Olympe nếu
rủi ro có chuyện gì xảy ra làm tan vỡ hạnh phúc Ménélas
và Hélène thì mọi người có trách nhiệm liên minh để bảo
vệ hạnh phúc đó. Khi điểm binh thì thấy thiếu Ulysse và
Achille. Agamemnon bèn cho lão vương Nestor và Palamède đi mời.
Ulysse sau đám cưới
Hélène – Ménélas, trở về Ithaque cưới người cháu họ
Hélène là Pénélope, sinh cậu con trai là Télémaque, tên có
nghĩa là Nhìn Trận Chiến Từ Xa, tôi chuyển ngữ tên thành
Thế Viễn Mạc. Ulysse không muốn bỏ vợ dại, con thơ đi
đòi vợ cho người khác nên giả điên, đi cày ruộng kéo
cày với một con ngựa và một con bò và gieo hạt muối. Palamède
biết chàng giả điên, nên ẳm Télémaque đặt trước luống
cày. Ulysse đành chịu thua, không có gì thoái thác, nhưng căm
hận Palamède. Ulysse đành đem thuyền hội quân. Nhưng còn thiếu
Achille, vua Agamemnon phái Ulysse đi tìm người anh hùng. Achille
mình đồng, da sắt, chẳng tên đạn nào bắn thủng, nhưng
chỉ có gót chân, là nhược điểm tử vong, vì khi còn trẻ
bà mẹ nắm hai chân tôi vào nước sông Stich cõi âm phủ,
để trở nên mình đồng da sắt, bà quên không tôi chổ gót
chân bà cầm. Chàng được dạy dỗ để trở thành dũng sĩ
toàn diện, nhưng lớn lên nữ thần Thétis lại tiên tri số
mệnh chàng sẽ ngắn ngủi nếu tham gia cuộc chiến thành Troie.
Bà đem Achille cải trang thành gái, dấu ở đảo Skyros, sống
với công chúa Déidamie, chàng có con trai tên Néoptolème. Ulysse
và Diomède tìm đến đảo Skyros giả làm người buôn bán nữ
trang, vải vóc và áo giáp, khiên, lao. "Cô gái Achille" không
thích nữ trang lại mua áo giáp, lao, khiên nên bị lộ diện,
phải lên đường đem đạo binh Mirmidons hợp binh đánh thành
Troie.
Quân Hy Lạp hợp
binh đi đánh thành Troie gồm 1186 chiến thuyền và hơn 100 000
quân. Homère đã kể tên vùng thủ lãnh, số thuyền, số quân
như sau. Họ nói mười ngôn ngữ khác nhau, một lệnh truyền
được qua mười miệng phiên dịch. Tôi thiết lập sau đây
bản tóm lược các đội binh chiến thuyền tham gia cuộc chiến
theo lời thơ Homère. Mỗi chiến thuyền trung bình 120 quân,
do đó chúng ta có thể ước lượng số quân tham dự.
Quân đội thành
Troie do Hector, con trưởng vua Priam, làm Nguyên Soái. Được
sự chi viện bởi quân các thành lân cận, khoảng trên 50000
quân .
Đoạn thơ này, có
rất nhiều địa danh Hy Lạp, các bản dịch các nước đều
dịch theo ngôn ngữ nước mình. Nền văn hoá La tinh, đã chuyễn
ngữ hầu hết các tên Hy Lạp ra La Tinh ví dụ như Zeus thành
Jupiter, Aphrodite thành Vénus, Hán Việt dịch thành Vệ Nữ..
Các ngôn ngữ Tây phương đều viết theo tiếng La Tinh. Bản
dịch tiếng Pháp, Pháp hóa theo tiếng Pháp, bản dịch tiếng
Anh, viết theo ngôn ngữ tiếng Anh, bản dịch Trung Quốc phiên
âm thành chữ Hán, bản dịch tiếng Nhật phiên âm theo tiếng
Nhật. So lại cùng một địa danh, một tên người mỗi
nước đọc khác nhau, người Hy Lạp nghe cũng không hiểu,
vì đâu Hélène tên người con gái đọc thành nàng Hy Lạp,
nước Hy Lạp, còn chữ Grèce lại không dịch. Do đó tôi mạnh
dạn Việt hóa các địa danh Hy Lạp, chọn một tên âm giống
gần kề, đơn giản bớt các chữ đa âm còn hai âm, hay gần
nghĩa, điều kiện duy nhất là làm đẹp câu thơ. Tôi kèm
theo bên cạnh tên đã được phiên âm theo tiếng Pháp, vì
chữ Hy Lạp khác vần A, B, C khó đọc được. Trải qua ba
ngàn năm phần lớn các địa danh đều thay đổi tên, trừ
các nơi danh tiếng được Homère mô tả. Việc truy tầm các
địa danh, ít nhà nghiên cứu thực hiện được.
ĐIỂM BINH QUÂN
THAM CHIẾN THÀNH TROIE
Hỡi Thi Thần chốn
Thiên Sơn, (1091)
Nữ Thần chứng
kiến trận tiền liệt oanh.
Biết từng hào
khí anh hùng,
Lời thơ dậy sóng
chiến trường ngàn năm.
Ai là các tướng
Đa Niên,
Sử xanh còn đó
họ tên lưu truyền.
Muôn binh đến
tự các miền,
Chiến trường
ai kể đến tên được nào ?
Từ mười ngôn
ngữ khác nhau,
Quân trung mười
miệng truyền trao lệnh truyền. (1100)
Tiếng loa sang sảng
ngực đồng,
Khắc ghi chín chữ
Thi Thần Thiên Sơn.
Ái Nữ Thần Dớt
mang khiên,
Dục về trận
chiến, chiến trường Ý Long.
Ai chủ tướng,
Vua các miền ?
Tên anh hùng đó
bao thuyền hội quân.
Chỉ huy đoàn quân
Bảo Liên (Béotiens),
Bế Niên, Lỗ Tố
và cùng quân cơ.(Pénéléos,Löitos)
Đạt Lê, Bồ Tố
, Cổ Nơ, (Archésilas, Prothoénor, Clonios)
Chỉ huy binh đội
mang cờ Hy A (Hyria). (1110)
Âu Ly núi thạch
sơn hà,(Aulys)
Sô Nông, Cổ Tố
cùng ra chiến trường.(Schoinos, Scôlos)
Âu Tôn, Thế Phi,
núi non,(Etéone, Thespie)
Và Mỹ Ca Lệ vùng
đồng đông dân.(Mycalèse)
Hạc, Y, Ê châu
chung quanh,(Harma, Ilèse, Erythra)
Anh Long, Hy Lệ,
Bế Tôn kề gần.( Eéon, Hylé, Bétéon)
Ô Ca, Mê Độ kinh
thành, (Ocalée, Médéon),
Cô Bát, Âu, Thích
xứ vùng bồ câu. (Copas, Eutrésis, Thisbé)
Cô Rô, An Lạc
xanh màu (Coronée, Aliarte),
Pha Tôn, cai trị
dân cư mạnh giàu (Platée). (1120)
Hy Bô thành vững
hào sâu (Hypothèbes)
Ly Sát cư ngụ
nối nhau trị vì. (Glisas)
Anh Tố thánh nữ
đức tài, (Onchestos)
Hải Long xinh đẹp,
rừng dài thông xanh.(Poséidon)
Hạc Na nho trái
đầy đồng (Arna)
Mi, Ni, An Thế giáp
vùng biên cương (Midée, Nisa, Anthédon))
Hội quân năm chục
thuyền đen.
Một trăm hai chục
thanh niên mỗi thuyền.
Đến quân dân
Đạt Pha Long (Asplédon);
Ốc Cô Mai với
dân thành Minh Nguyên (Orchomène, Minyens ) (1130)
Đạt Ca La Phổ
tướng quân (Ascalaphos)
Ý An Mê Nộ anh
hùng tướng quân,(Ialménos)
Con trai Thần Chiến
và cùng,
Anh Thy công chúa
tiết trinh đợi chờ. (Astyosché)
An Đê tôn tử,
Ất Tơ,(Azée, Actor),
Lầu cao thêu gấm
hững hờ sắc duyên.
Nào ngờ Thần
Chiến đến bên,
Tay hùm cưỡng
bức cho nàng hoài thai.
Sinh con dũng tướng
cõi người,
Hợp quân mang đến
ba mươi chiến thuyền. (1140)
Đến đoàn quân
dân Phổ Liên,(Phocéens)
Chế Đô thống
lĩnh đội quân kiên cường (Schédios)
Và tướng Âu Bích
anh hùng (Epistrophos)
Anh Phi Tô công
tử vốn dòng Nam Bô, (Iphitos, Naubolos)
Chi Ba Sĩ Tố cơ
đồ, (Cyparissos)
Phi Thông núi đá
bên bờ Kim Sa, (Python, Crisa),
Đô Ly, Ba Lộ sơn
hà, (Daulis, Panopée)
Đạt Ninh, Hy Phạm
cùng ra chiến trường. (Arnémorie, Hyampolis)
Chân Phi bờ biển
cát vàng (Céphise),
Ly Lê hùng cứ
suối nguồn ấm no.(Lilée) (1150)
Bốn mươi thuyền
chiến binh cơ,
Giáp binh, chiến
tướng bên bờ tả quân.
Bồ Liên gươm
giáo trùng trùng,(Boétiens)
Nhịp quân vang
bước oai hùng trang nghiêm.
Đến đoàn binh
quân Lỗ Liên,(Lociens)
An Bắc thống lĩnh
binh đoàn gọn nhanh (Ajax)
Ô Lê tôn tử bé
con (Oilée)
Trùng tên An Bắc
vai hùm lớn cao,
Thế La tôn tử
khác nhau (Télamon)
Giáp mềm nhưng
vác ngọn sào trường thương. (1160)
Vượt xa tướng
sĩ An Kinh,
Quân dân cư ngụ
nơi vùng Sĩ Nô (Cynos).
Ô Bông, Can Lý
A Rô (Oponte, Calliaros)
Bắc Sa , Cát Phổ
và hồ Âu Lê.(Besse, Scarphé, Augée)
Tà Phê, Thổ Nốt,
Bồ Khê (Tarphé, Thronios, Boagre),
Bốn mươi thuyền
chiến cùng về hội quân.
Dưới quyền An
Bắc anh hùng,
Quân Lô Liên hội
quân thuyền tiến công. (Lociens).
Vùng Âu Bể, dân
An Băng (Eubée, Abantes)
Lên đường hồ
hỡi, công thành quân Troa. (1170)
Thanh Chi, Âu, Ích
đồng nho,(Chalcis, Érétrie, Istia)
Di Ông (Dion) cao
ngất thành đô kiên cường,
Kê Thanh bờ biển
cát vàng, (Cérinthe)
Ca Thi (Carystos)
hùng cứ, dân vùng Ty Ra (Styra,
Âu Công (Éléphénor)
cai trị sơn hà,
Cháu dòng Thần
Chiến (Arès) con nhà San Đông (Chalcosdon).
Thủ lĩnh hào hiệp
An Băng,(Abantes)
Tóc dài phủ gáy,
nhanh chân chiến trường.
Ngọn thương sắc
bén kiên cường.
Đâm lồng ngực
giặc, giáp đồng thủng xuyên. (1180)
Hội quân bốn
mươi thuyền đen.
Đoàn quân thiện
chiến khắp miền lừng danh.
Đến đoàn quân
Quán Trí Thành (Athènes),
Kinh thành vững
chải, trấn vùng Rạch Thê (Erechthée).
Trái tim rộng đón
nữ khuê,
Ái nữ Thần Dớt
sinh về nơi đây.
Đền cao hùng tráng
dựng xây,
Bò cừu tế lễ,
năm ngày hội vui.
Phi Tô, Mai Thiết
tướng tài (Pétéos, Ménesthée) tướng tài,
Khắp trong thiên
hạ, sánh binh hùng. (1190)
Kỵ binh, khiên
giáp, thương đồng,
Ninh Tô Vương lão(Nestor)
sánh đồng sức ngang.
Tuổi cao từng
trải chiến trường,
Binh năm mươi chiếc
thuyền đen về cùng .
Đóng cùng Trí
Thành binh đoàn (Athènes).
Sa La Minh tôn tử
anh hùng lừng danh.(Ajax Salamine)
Dẫn theo mười
hai chiến thuyền,
Về đây chung sức
góp quân công thành.
Đạt Quốc vùng
đất đồng bằng (Argos).
Ty Thanh kiên cố
lũy thành ngất cao.(Tirynthe) (1200)
Hạc Môn, An Sĩ
kề nhau (Hermione, Asiné),
Chế ngự biển
cả, vịnh sâu thương thuyền.
Tri Đô, Phi Đỗ,
Âu Ôn (Trézène Épidaure, Eiones)
Âu Linh, Mã Sách
với đồng nho xanh. (Egine,Masès)
Những chàng trai
trẻ An Kinh,
Đỗ Minh (Diomède)
thống lĩnh lừng danh trận tiền.
Tiếng hô sang sảng
vang rền,
Thế Lộc phó tướng,
anh hùng Kha Ba.(Sthénélos, Capanée).
Âu Dương là tướng
thứ ba (Euryale)
Mai Chi tôn tử
là vua hùng cường. (Mécisthée) (1210)
Tả Lộc con cháu
giống dòng, (Talaeos)
Lừng danh sức
mạnh như thần hiên ngang.
Dưới trướng
Đỗ Minh anh hùng (Diomède)
Tám mươi thuyền
chiến đen đồng giáp binh.
Đến My Liên giàu
bạc vàng, (Mycènes)
Cô Thanh, Kê Ốc
kinh thành nguy nga. (Corinthe, Cléones)
Cùng dân cư Ốc
Nê A, (Orneia)
Ái Thy đáng mến
cùng là Sĩ Côn, (Araithyrè, Sicyone)
An Đắc cát cứ
một vùng (Adraste)
Hy Bê Kê Sĩ và
đồng Cô Khê (Hypérésie, Gonoesse) (1220)
Băng Lê, An Lộc
cùng về (Pellénè, Aegialos)
Đồng bằng Hy
Lý thuyền bè hùng binh,
Đông quân nhất
trăm chiến thuyền,
Chỉ huy An Trích
Đại Vương anh hùng (Atride Agamemnon),
Uy nghi giáp phục,
trượng thần,
Chỉ huy toàn thể
anh hùng An Kinh,
Anh vua Mai Ninh hùng
anh (Ménélas),
Vì em đốc xuất
tinh binh chiến thuyền.
Dến quân La Thế
Đệ Môn, (Lacédémone)
Pha Ly, Xích Bạc
đầy đồng bồ câu (Phraris, Sparte) (1230)
Bi Lê, Âu Khê ngụ
cư, (Brysée, Augéia)
An My, Ân Lộc trấn
từ La Nga (Amyclas, Eloa, Laas)
Quang vùng Ốc Ty
quê nhà (Oetylos),
Vua Mai Ninh Lộc
xông pha chiến trường, (Ménélas)
Em ruột An Gia Đại
Vương,
Sáu mươi thuyền
chiến hùng cường giáp binh.
Anh hùng nung nấu
nỗi tình,
Mất Hạ Lan nỗi
hận lòng không quên.(Hélène)
Đến Phi Lô xứ
hùng cường,(Pylos)
An Liên, Thy Ốc
và vùng An Khuê (Arènè, Thryon, Alphée) (1240)
An Phi thành vững
gần kề, (Aepy)
Chi Ba, Am Phí cùng
về Phi Long (Cyparissè, Amphigénia, Ptéléon)
Âu Lộc và thành
Đô Long (Elos, Dorion)
Nơi Thi thần cất
tiếng lòng ca thanh,
Vua Ninh Tô, Chiến
Xa Công, (Nestor),
Chín mươi thuyền
chiến hùng cường vạn quân.
Đền Đạt Ca Ly
hùng binh (Arcadie),
Dưới Chi Liên,
mộ anh hùng Phi Tô (Cyllène, Aepytos),
Nổi danh cận chiến
hạ cờ,
Ốc Cô, Phê Ốc
cừu bò đồng xanh,(Ochomènê, Phénéos). (1250)
Chi Bê, Sa, Tế
đồng bằng (Shipé, Stratì, Epipè),
Tê Gê, Mân Tị
trấn vùng Phú Lô, (Tégée, Mantinée, Stymphélos)
Dân cư Phan Cát
ấm no,(Parrhasiè)
Tôn tử An Ca lộc,
An Gia Phê Nô anh hùng (Ankannéos, Agapénor)
Sáu mươi thuyền
chiến chở quân,
An Gia Vương tặng
chiến thuyền quân trang.(Agamemnon)
Hùng binh đông
đảo mỗi thuyền,
Quân vương An Trích
lo phần chở chuyên (Atride),
Đưa qua biển sóng
rượu
vang,
Vì quân miền núi,
biển ngàn không quen. (1260)
Đến đoàn quân
Bồ Phá Sơn (Bouprason)
Vùng Âu Lịch đến
kinh thành Nguyệt Sơn (Elide, Myrsine)
Hy Minh thành phố
biên cương, (Hyrmine)
Ô Lê núi đá An
Sơn địa đầu (Olénie, Alésion).
Mỗi binh đoàn
mười chiến thuyền,
Bốn binh đoàn
chỡ qua miền Âu Biên. (Épéens)
Âm Phi, Thái Bắc
tướng quân, (Amphimachos, Thapios)
Tôn tử Tề Lộc
anh hùng lừng danh (Ctéatos).
Hạc Tô con cháu
giống dòng (Actor),
Tôn Tử An Mã tiếng
danh lưu truyền (Amarynkée). (1270)
Tướng quân Đô
Thiết anh hùng,(Diorès )
Bồ Sâm thống
lĩnh binh đoàn thứ tư (Polyxène)
Âu Giác dòng dõi
anh thư, (Augias)
Con vua Gia Thế
đẹp như thiên thần. (Agathénès)
Đến quân Âu Tần,
Đông Chân, (Échines-Doulichion),
Đối mặt Âu Lịch
hai hòn đảo thiêng, (Elide)
Mai Giác thống
lĩnh chiến thuyền, (Mégès)
Phi Lê tôn tử
sức thần ngợi ca. (Phylée)
Dòng Thần Vương
giỏi chiến xa,
Bốn mươi thuyền
chiến xông pha chiến trường. (1280)
Uy Lĩnh tướng Chế
Phan Niên, (Ulysse,Céphalléniens)
Vua quân An Thạch
núi miền đảo xanh. (Ithaque)
Núi Nễ Sơn vẫy
lá cành, (Nériton)
Tiễn quân Cổ,
Lý hùng anh lên đường (Crocylée, Aegilip).
Dã Thanh, Sa Mô
đảo cồn,
Và vùng lục địa
đồng xanh kề gần.
Đội quân mười
hai chiến thuyền,
Uy Lĩnh thống lĩnh
oai nghiêm như thần.
Thọ Kha chủ quân
Tố Liên (Thoas, Etoliens),
An Đại tôn tử
dân vùng Lệ Sơn (Andraimon, Pleuron). (1290)
Phi Liên, Thanh Lý,
Lệ Môn (Pykène, Chalis, Olénon),
Vùng dọc bờ biển
và hòn Ly Đông,(Calydon)
Ô Vương Mai Lạc
từ trần,(Oenée, Méléagre),
Không con trai để
nối dòng lên ngôi.
Thọ Kha dũng tướng
anh tài, (Thoas),
Triều đình đề
cử lên thay trị vì.
Âu Liên vương
quốc quyền uy,
Bốn mươi thuyền
chiến quân đi biển ngàn.
Đến Kiết Toa,
Anh Đô Mai Vương, (Crétoie, Idoménée)
Trường thương
danh tiếng, chiến trường dọc ngang. (1300)
Cổ Sơn, Quốc
Tinh hùng cường (Cnossos, Gortyne),
Thành cao hào lũy,
phố phường phồn vinh,
Lý Tô, Mỹ Lệ
kinh thành, (Lyctos, Milet),
Ly Ca, Pha, Ry dân
lành thảnh thơi. ( 5Lycastos, Phaestos, Rytion)
Xứ Kiết trăm
phố thành vui, (Crète)
Mê Long phó tướng
sánh vai anh hùng.(Mérion)
Như Ân Lộc tiếng
lẫy lừng, (Enyalos),
Tám mươi thuyền
chiến ra quân vây thành.
Thế Bồ, Hùng Kiệt
giống dòng (Tlépolème, Héraclès),
Lớn cao gan dạ
chiến trường xuất chinh. (1310)
Đảo Rốt đem
chín chiến thuyền,
Chia ba phó tướng
quân cùng chỉ huy.
Linh Đô, Du Lộc,
Ca My (Lindos, Iésulos, Camire),
Sức thần Hùng
Kiệt uy nghi anh hùng (Héraclès).
Lớn trong cung điện
vững bền,
Đóng thuyền hùng
cứ một vùng biển khơi.
Rồi chiêu binh
mã tranh ngôi.
Giết ông cậu
nắm cơ ngơi triều đình.
Lý Xiêm già yếu
bại vong,(Lycymmios).
Các con cháu chẳng
đảm đương binh quyền. (1320)
Trị ba bộ tộc
hùng cường,
Nước giàu hùng
mạnh Thần Vương trị vì.
Ni Vương Sĩ Mê
chỉ huy,(Nirée de Symè)
Ba chiếc thuyền
chiến đi ra chiến trường.
An Lạc, Sa Lộc
Quốc vương,(Aglaé Chrops)
Đẹp trai sánh
các anh hùng Đa Niên,
Ni Vương cao đẹp
phi thường
Thân trai diện
mạo chỉ nhường An Sinh .(Achille).
Nhưng tài lực
chẳng sao bằng,
Không đông quân
sĩ đủ trong ba thuyền. (1330)
Ni Sơn hùng cứ
một phương,(Nisyros)
Ca Bát, Cô Ốc
và thành Âu Binh (Crapathos, Casos, Côs, Eurypyle).
Hải đảo Ca Linh
về cùng (Calynes)
Phi Đinh, An Phổ
hào hùng chỉ huy.(Phìdippos, Antiphos).
Con vua Thiết Sa
anh tài,(Thessalos),
Dòng Hùng Anh Kiệt,
ba mươi chiến thuyền. (Héraclès).
Đến đoàn quân
Nguyệt My Đông, (Myrmidons)
Đạt Quốc Phê
Lạc, một vùng đông dân.(Argos des Pélasges)
An Lộ, Thạc Chi
góp quân,(Alos,Trachis)
Phy Thi, Huệ Lạp
giai nhân danh truyền.(Phthie, Hellede) (1340)
Nguyệt My Đông,
Hy Lạp, An Kinh,(Myrmidons,Hellènes, Achéens)
Về năm mươi chiếc
thuyền đen lẫy lừng.
An Sinh dũng tướng
như thần (Achille)
Nhưng nay vắng
mặt công thành tiến công.
Chẳng ai ra lệnh
đoàn quân,
An Sinh Phi Túc bất
bình chẳng đi.
Vì nàng Băng Tuyết
tóc mây. (Briséis)
An Sinh mõi mệt
sau ngày chiến công.
Lý Bách,Thiết
Bệ hạ thành.(Lyrbessos, Thèbes).
Giết vua Mai Nễ
các trang anh hùng (Mynès) (1350)
Con vua Âu Vệ vốn
dòng (Evénos).
Sơn Lê Bi Ất chết
trong trận này.(Sélépios)
Nàng Băng Tuyết
bị cướp đi,
An Sinh hờn giận
từ rày gác gươm.
Án binh bất động
chẳng màng,
Rồi đây trở
lại chiến trường xông pha.
Đến Phy La Khuê
đồng hoa (Phylakès)
Đê Mê Thần nữ
bốn mùa ấm no. (Déméter).
Ý Tôn thần mẹ
cừu bò, (Itone),
Tề Lộc cỏ rậm
bên bờ An Thông. (Ptelos, Antron) (1360)
Nơi vua Phổ Lạc
anh hùng (Protésilas),
Người đầu tiên
chết chiến trường thành Troa.
Đoạn trường
thay để lại nhà,
Vợ hiền má đẩm
lệ nhòa đau thương.
Hợp hôn, hạnh
phúc chưa tròn,
Lầu trang xây dỡ
vẫn còn ngỗn ngang.
Người An Kinh chết
đầu tiên,
Bước chân nhảy
trước khỏi thuyên viễn chinh.
Tiếc thương chủ
tướng kiên cường,
Phổ Đạt phó
tướng nối quyền chỉ huy. (Podărkès) (1370)
Anh Phi tôn tử
oai nghi, (Iphilès)
Dòng dõi Phi Lạc,
bò đầy đồng xanh (Phylascos).
Là em Phổ Lạc
thay anh (Protésilas),
Ch huy bốn chục
thuyền đen anh hùng.
Đến dân Phê Thác
ra quân (Phéras),
Vùng hồ Bô Bể
lũy thành dựng xây. (Boébé)
Gia Phi, Anh Các
lâu đài. (Glaphyras, Iaokos),
Đội quân thiện
chiến mười hai chiến thuyền.
Âu Mê Lộc thống
lĩnh quân, (Eumèlos),
Con cưng Anh Mạc,
mối tình cưỡng hôn. (Admède) (1380)
Cùng nàng Anh Tuyết
đẹp xinh,(Alceste)
Con vua Phê Lạc,
giai nhân sắc tài. (Pélias).
Đến quân Mê Thông,
Thâu Ky, (Méthone, Thaumakie)
Ô Đông, Mê Lý
ngất trời núi cao. (Olizon, Mélibée)
Phi Lộc cung nỏ
lược thao, (Philoctète)
Bảy chiến thuyền
chiến, nhanh mau trận tiền,
Năm mươi chèo
lái mỗi thuyền,
Đội quân thiện
chiến sở trường nỏ cung.
Chẳng may số phận
đã dành,
Lâm Môn rắn cắn
chẳng lành nọc sưng (Lemnos). (1390
Vết thương nhức
nhối hôi tanh,
Đảo hoang bỏ
lại, một mình oán than,
Nhưng rồi sẽ
chẳng bao năm,
An Kinh cần đến
nỏ cung sở trường,
Lại sai thuyền
đến đảo hoang,
Rước Phi Lộc
để xuất quân công thành.
Người người
thương tiếc phận dành
Mê Đông phó tướng
quyền hành điều quân. (Médon)
Con vua Ôn Lộc
tiếng dâm,(Oilée)
Thể Nương ngang
trái cưu mang anh hùng (Rhénè). (1400)
Đến quân Tri Khê,
Thổ Minh,(Trikkè, Ithomen)
Âu Chi, Ốc Trạch
kinh thành nguy nga. (Eurytos, Oechalié)
Hai con Ất Thước
tài ba, (Asclépios),
Danh y, thuốc thánh
xông pha cứu đời.
Bồ Đà, Mã Thước
anh tài, (Podalire, Machaon)
Chỉ huy ba chục
thuyền dài buồm đen.
Đến quân Ốc Mê
Ni Công.(Orménion)
Nguồn sông Hỷ
thủy, trấn thành Ất Cô.
Quanh vùng núi tuyết
Tinh Nô (Titanos)
Âu Chi dũng tướng,
cơ đồ vinh quang.(Eurypile) (1410)
Con vua Âu Mông
anh hùng,(Evaimon)
Chỉ huy bốn chục
thuyền buồm tinh binh.
Đến quân Đạt
Sa, Triết Tôn, (Argissa, Gyrtone)
Ốc Thê An Lộc
đô thành Ô Long. (Orthé, Elonè, Olơsson)
Phổ Ly thống lĩnh
binh đoàn,(Polypoetès)
Bạch Thước công
tử sức thần vô biên. (Peirith os),
Mẹ, nàng Hải
Mi giai nhân, (Hippodamie)
Nổi danh đánh
thắng, diệt đoàn nhân ngưu.
Quét Phê Long bóng
giặc thù, (Pélon)
Quê hương Án Thạch,
thiên thu thái bình. (Aethice). (1420)
Lê Thư phó tướng
lừng danh, (Léonteus)
Cô Long công tử
giống dòng Ca Nê. (Coronos, Caenée)
Bốn mươi thuyền
chiến hội về,
Cháu con thần chiến
giỏi nghề binh cơ.
Đến quân Nhược
Thủy Kỳ Phô (Gouneus de Kyphos),
Hai mươi thuyền
chiến hải hồ hợp quân.
Ân Phượng can
đảm anh hùng (Eniènes)
Phi Bích dũng tướng
trấn vùng Đô Đông. ((Péraebes, Dodone)
Bốn mùa khí hậu
khô cằn,
Tỳ Ta thung lũng
cây trồng tốt tươi. (Titarésios)
Phê thủy sông
tựa dầu trôi, (Pénée)
Khởi nguồn sông
Tích, sục sôi thác ngàn. (Styx). (1430)
Man Nhất, Bồ Thiết
tướng quân, (Magnètes, Prothoos)
Thế Đông tôn
tử trấn vùng Phê Nê. (Pénée)
Bê Long rừng lá
sơn khê,(Pélion)
Bốn mươi thuyền
chiến cùng về hợp binh.
Bao nhiêu dũng tướng
Đa Niên,
Thi Thần hãy kể:
anh hùng là ai ?
Chiến trường
qui tụ anh tài,
Chiến trường
chật đất, vang trời tiếng hô,
Anh em An Trích dưới
cờ, (Atrides)
Ai người tráng
sĩ, binh cơ lẫy lừng ? (1440)
Anh em Phê Thiết
tài danh, (Phérès)
Âu Mai phù hộ
sức nhanh đại bàng. (Eumélos)
Lưng dài đồng
tuổi, đồng cân,
Thần cây cung bạc
An Long dạy truyền. (Apollon)
Bế Chi tập đôi
song sinh,(Piérie)
Học nghề chinh
chiến, nỏ cung lẫy lừng.
An Bắc, tôn tử
Thế La Môn,(Ajax, Télamon).
Nổi danh từ buổi
An Sinh giận hờn (Achille)
So Bê Lê tôn tử
kém hơn,(Pélée)
Chiến công vang
dậy, công đồn cướp lương. (1450)
An Sinh về hậu
cứ thuyền,
Giận An Gia chẳng
đánh thành điều binh.
Bên bờ cát biển
xa thành,
Quân binh giải
trí: bắn tên, ném sào.
Ngựa buồn gậm
cỏ bên hào,
Chiến xa bất động
ra vào quạnh hiu.
Nỗi buồn Thần
Chiến chẳng reo,
Án binh bất động
dõi theo chiến trường.
Đa Niên vây hãm
quanh thành,
Tiến quân như
ngọn lửa hồng bừng mau. (1460)
Khắp vùng đất
nổi binh đao,
Xóm làng rên siết,
thương đau ngập tràn
Sấm Thần Vương
sáng ầm vang
Quanh Ty Phê tựa
như miền An Liêm (Typhée, Arimes)
Sứ Thần Y Bích
truyền tin, (Iris)
Cho Troa Liên những
lệnh truyền Thần Vương.
Những tin khốn
khó khôn lường,
Dân Troa Liên hợp
quân trung Hội Đồng.
Trẻ già tụ hội
sảnh đường,
Vua Bam ngự trị
ngai vàng trầm ngâm. (Priam) (1470)
Sứ Thần Y Bích
dừng chân,
Cất lên gịong
nói như chàng Bồ Thê (Politès)
Hiếu hoà hoàng
tử chẳng về,
Từ trên đỉnh
mộ Ất Khê vọng vời; (Aesyétès).
Y Bích cất tiếng
truyền lời:
"Lão Vương,
Ngài chẳng nghe người quyết tâm,
Nói lời ngay
thẳng hòa bình,
Cho nên chiến
cuộc vẫn còn tang thương.
Ta từng dự
các chiến trường,
Ta chưa từng
thấy đông hơn trận này. (1480)
Người đông
như lá rừng cây,
Kín bờ cát
trắng, tràn đầy đồng xanh.
Giáp binh đang
tiến về thành,
Hắc Tô dũng
tướng nghe chăng lời truyền.
Kinh thành rộng
lớn vua Bam,
Hãy cùng bao
đội hùng binh kết đoàn.
Bao nhiêu tiếng
nói khác miền,
Bao nhiêu dân
tộc chiến trường hợp binh.
Tướng tài thống
lĩnh các quân,
Sẵn sàng đội
ngũ giao tranh chiến trường. (1490)
Hắc Tô nhận biết
Nữ thần,
Đứng lên ra khỏi
Hội Đồng đốc quân,
Ngựa phi qua các
cổng thành,
Cửa thành rộng
mở trùng trùng quân ra.
Kỵ binh, quân giáp,
chiến xa,
Đoàn binh ồ ạt,
chói loà gươm lao.
Từ trên đỉnh
tháp thành cao,
Quân đi như sóng
lao xao trùng trùng.
Ba Tiên gửi đến
viện binh, (Batìée)
Từ My Na đến
kinh thành vua Troa (Myrina). (1500)
Quân binh đội
ngũ chỉnh tề,
Quân cơ, quân viện
cùng về đồng minh.
Hắc Tô, Nguyên
Soái chiến trường,
Con Vua Bam đội
mũ đồng sáng choang.
Quân Troa đông
đảo nhất vùng,
Đoàn quân thiện
chiến sở trường phóng thương.
An Lê thống lĩnh
Đạt Đa Niên (Énée, Dardaniens)
An Chi công tử
giáp binh can trường. (Anchise)
An Chi hội ngộ
Nữ Thần,
Đồi Y Đa, Vệ
Nữ sinh ra chàng(Ida, Aphrodite). (1510)
Chỉ huy cùng hai
tướng quân,
An Mạc, Đạt Chí
con dòng An Nô.(Acamas, Archélochos, Anténor)
Giỏi nghề cung
kiếm trận đồ,
Điều binh khiển
tướng phất cờ binh xa.
Đến đoàn quân
Dương Lê A (Zéleia)
Dân giàu cách núi
Y Đa ngang tầm.
Hắc giang Bái Thủy
uống cùng ,(Apaisos)
Chỉ huy Băng Đa
Thiết anh hùng lừng danh. (Pandaros)
Ly Ca Ông công tử
xảo tinh, (Lycaon)
Giỏi nghề cung
nỏ An Long dạy truyền (Apollon). (1520)
Đến Anh Đài quân
anh hùng, (Adrestée)
Tổng Sông Bái
Thủy trấn vùng Phi A (Apaisos, Pityeia).
Núi Thế Lĩnh dựng
mây xa (Téreiè)
Anh Đài, Am Phí
tài ba lẫy lừng; (Adrestos, Amphios)
Con Mê Công Phù
Cơ tiên sinh (Mérops de Percotè),
Giỏi nghề s-ám
độn, điềm lành tiên tri.
Lòng đà chẳng
muốn con đi,
Chiến trường
xương máu, sầu bi phận người.
Nhưng không thể
được phụ lời,
Mệnh thần xua
đẩy kiếp người tang thương. (1530)
Đến Bạt Cô Thế
quân đoàn, (Perkitè)
Sông Phát, Sắc
Tố và miền Bi Đô. (Practios, Sestos, Abydos)
Nàng An Chi Bích
thần cô,(Arisbès)
Cùng An Lộc lãnh
binh cơ chiến trường. (Asios)
Công tử Hiệt
Tá lừng danh, (Hyrtacos)
An Phi mang đến
ngựa hoang luyện thuần,(Arisbès)
Ngựa to lớn chạy
dậm trường,
Bờ Xuyên Lai rộng
cỏ đồng hoang vu.(Selleis)
Hải Bồ dẫn quân
Phê Lâu, (Hippothoos, Pélasges)
Lao dài danh tiếng,
đất màu La Sa. (Larissa) (1540)
Phi La phó tướng
cùng cha, (Pylaeos)
Phê La Lê Thọ
dòng nhà Tiểu My. (Pélasges Lethos, Teutamis)
Anh hùng Phi Lộc
trị vì, (Piroos)
Thạch Các, Ca Mạc
quanh đây hợp đoàn.(Thraces Acamas)
Quân Hoan Lạc Cầu
anh hùng,(Hellespont)
Bên thành Troa đứng
kiên cường trời đông.
Âu Phê dẫn quân
Si Công,(Euphémos, Cicones)
Thương dài, sắt
nhọn tiếng danh binh đoàn.
Công tử Toa Đê
lưu truyền,(Troïzénos),
Cháu con Thần Dớt
giống dòng Kê An. (Kéas) (1550)
Phi Lai dẫn quân
Ô Niên, (Pyraichmès, Péoniens)
Nỏ cong thiện
chiến từ miền xa xôi.
An My, An Xốt sông
dài, (Amydon, Axios)
Một dòng sông
đẹp xanh tươi đất lành.
Phi Lạc dẫn quân
Ban Niên. (Pylaiménès, Paphlagoniens)
Ngực trần lông
rậm từ miền Âu La,(Enètes)
Thảo nguyên gốc
tích bầy la,
Dân Ky Tô Rốt
đồng nhà Sê Dam.
Sông Bạt Thê Nốt
xanh xanh,
Những ngôi nhà
đẹp nhất vùng bình nguyên. (1560)
Chôm Na, Ai Lộc
đồng bằng, (Cromna,Aigialos)
Âu Chi Thinh chốn
cao nguyên núi rừng. (Erythines)
Ô Đốc, Âu Bích
dẫn quân, (Odios, Epistrophos)
Hải Lý Đông đến
từ vùng xa xôi.(Halizones)
Ly Bê mỏ bạc
khẩn khai,(Alybè)
Xứ giàu quặng
mỏ, tiền tài giao thương.
Cồ My, An Mộc,
My Liên, (Chromis, Ennomos, Mysiens)
Điềm chim báo
trước mệnh đen tiêu tàn.
Đường lao An Ất
giống dòng,
Chết trên sông
bạc, trôi cùng Troa Liên. (1570)
Phù Nghi dẫn quân
Phi Liên, (Phorcys, Phrygiens)
Án Ca phó tướng
uy nghiêm như thần. (Ascagne)
Từ Án Ca Ni xa
xăm, (Ascanie)
Lửa hồng thiêu
đốt, chiến tranh lan tràn.
Minh Lộc , An Phố
quân Mê Niên, (Mesthlès, Antiphos, Méoniens)
Hai trai Tà Lạc
sinh vùng Diên Lê.(Talaiménès, Gygée)
Đem đoàn quân
Mê Niên về,
Chân núi Tô Lộc
chốn quê sinh thành. (Tmolos)
Na Thế dẫn quân
Ca Niên, (Nastès, Cariens)
Giọng hồ man rợ
trấn miền My Lê. (Milet) (1580)
Phi Đông núi rậm
sơn khê, (Phthririon)
My Ca dốc thẳm,
chảy về Mai An. (Mycale, Méandre)
Âm Phi, Na Lộc
dẫn quân, (Amphimachos, Nastès)
Ngô My sinh trưởng
hai con anh hùng. (Nomio)
Âm Phi diêm dúa
vòng vàng,
Như điên rồ những
phục trang đàn bà,
Sẽ không thoát
kiếp tiêu ma,
Ngọn lao Âu Ất
máu hòa dòng sông, (Eaque)
An Sinh cướp lấy
phục trang,
Vòng vàng quý báu,
chiến công anh hùng. (1590)
Thạc Đông dẫn
quân Ly Siên,(Sarpédon, Lyciens)
Cao Cốt phó tướng
từ miền Ly Si. (Glaucos, Lycie)
Vẹn toàn tài đức
ra đi,
Sông Xuyên Thủy
nước cuộn sôi bạt ngàn. (Xanthe)
Kỳ tới Thi Ca
Khúc III
Hội Thề. Từ
trên thành Troie nhìn xuống trận địa. Pâris, Ménélas đấu
nhau.
Chú thích :
Béotiens (Bảo Liên)
ở phía Bắc Corinthe, giữa vịnh Corinthe và eo biển Eubée.
Chín chữ Thi Thần
: Chín nàng Muses, chốn Olympe.. |