Ngồi tựa cái bên song đào.
Hỏi người người tri kỷ ra vào vấn vương.
Gió lạnh cái đêm đông trường,
Nửa chăn nửa chiếu nửa giường để đó
chờ ai,
Ca khúc Ngồi tựa song đào
Ai về thăm Việt Nam đi viếng đất Bắc mà không
ghé lại dự Hội Lim đầu xuân là một thiếu sót. Từ ngày
12 đến ngày 14 tháng giêng âm lịch, Hội Lim được tổ chức
trên đồi Lim thuộc xã Lũng Giang, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh, cách Hà Nội khoảng 20 km. Tương truyền lúc xưa có một
ngưòi đàn bà đến tu đắc đạo trên đồi nầy, khi hạn
hán biết phép làm mưa thật linh ứng nên được tôn làm thành
hoàng. Hội Lim chính là để nhớ ơn bà. Hội Lim là một hình
thái sinh hoạt dân gian, tổng hợp âm nhạc, thơ ca, ngôn ngữ,
trang phục,...gồm có hai phần lễ và hội. Ngày lễ, các làng
Duệ Khánh, Đinh Cả, Lộ Bao, Lũng Giang hội tụ thành một
đoàn từ từ tiến vào trung tâm hội để dự tế lễ, có
cúng bái với các bà áo quần màu sắc sực sỡ. Ngày 13 mới
là chính hội, có ẩm thực với đủ thứ xôi chè cổ bánh
vùng Kinh Bắc, giải trí như bình thơ, hát xướng cùng những
trò vui như bịt mắt bắt heo, kéo co, đánh đu, đánh cờ,
đô vật, đập niêu, bơi lội, dệt cửi...Ngày nay cũng còn
tuy giới hạn hơn. Trong một chuyến quanh Kinh Bắc, tôi được
đưa viếng Hội Lim, quá lanh chóng để có thì giờ thưởng
thức đúng mức. Khoảng gần trưa, khách đã lại đông. Trong
nhà thờ các bà lộng lẫy trong các chiếc áo hồng, đỏ,
vàng, đang ngồi đợi làm lễ. Không có thì giờ chờ xem lễ,
tôi được kéo ra ngoài xem các trò vui. Lần đầu tiên tôi
được xem đánh đu trên mấy cây tre giản dị trên cột nhúm
lại với nhau, dưới toạt rộng ra làm chân đứng, trai trẻ
từng đôi nhún đưa qua lại trông rất đẹp mắt. Bất chợt
tôi nghĩ đến những câu thơ của Hồ Xuân Hương " ...Trai
đu gối hạc khom khom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng...
" . Tôi đang mãi tìm bốn mảnh quần hồng và hai hàng chân
ngọc thì trong máy vi âm vọng lên những câu hát trữ tình
từ dưới hồ bên cạnh. Thế là tôi lại được kéo ra hồ.
Hội Lim có một đặc điểm là hát quan họ
gọi là để " cầu vui ". Làn điệu dân gian phong phú nầy
phát sinh từ lâu, nghe đâu từ đời nhà Lý. Họ hát cả ban
ngày, trong nhà hay trên đồi, lẫn ban đêm, dưới thuyền.
Theo nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm, quan họ mộc mạc, chân tình
nhưng càng nghe càng ngấm càng say và càng về khuya mới càng
ngấm. Người ta kể đến ngày hẹn, nhóm chủ nhà đã lo sẵn
cơm nước gọi là " cơm quan họ " rồi ra chùa hay cổng làng
đợi nhóm bạn. Nhóm bạn mới đến là đã bắt đầu hát
chúc, hát mừng, nhất là vào dịp đám cưới, tân gia, nhóm
chủ nhà hát đáp lễ rồi mời nhóm bạn vào nhà, cất nón,
dẹp dù. Có khi trái lại, nhóm chủ nhà hát chào trước rồi
nhóm khách mới hát cám ơn sau. Sau đó cả hai nhóm cùng ngồi
đối diện, mời trầu, mời nước và cùng hát cho đến
trưa. Ăn trưa xong, họ cùng nhau di xem hội, tối về
cơm nước xong lại tiếp tục hát trên thuyền. Đó là chuyện
xưa tôi chỉ đuợc nghe kể. Hôm chúng tôi lại Hội Lim, chưa
đến trưa mà đã thấy hát ngoài hồ. Các ca sĩ không ngồi
trên thuyền nhỏ mà đứng trên hai chiếc đò lớn, một bên
nam, một bên nữ. Dân làng đến xem chen lấn nhau vui vẻ trên
bờ hồ, bàn cải thoải mái, phê bình giọng hát, lối hát,
khen chàng nầy đẹp trai, cô kia hát hay. Ngày nay, văn minh có
khác : ca sĩ không cần hét to vi có máy vi âm. Thật vậy, nói
chuyện tình, vì quan họ chỉ đề cập yêu thương chứ không
bàn bạc đồng án, mà la hét thì còn gì là tình tứ. Họ
hát đối đáp, hết bên nầy đến bên kia. Mỗi lần chỉ
có một người hát, mấy người kia yên lặng ngồi đợi phiên
mình. Tôi mải miết nghe hát, mê man ngắm mấy cô duyên dáng
miền Bắc, nhớ lại đôi mắt liến thoắng của cô đóng
vai Thị Mầu trong đoàn Chèo qua Paris mấy năm trước, thì
những câu hát ví von đưa tôi về lại Hội Lim : " Người
ơi ! Người ở đừng về ! Người về em vẫn (í i có mấy)
trông theo. Trông (ư, ứ) nước tình chung là như nước chảy
(mà nầy cũng có trông a bèo). Trong bèo (là) bèo trôi ".
Và đã quá trưa, chuyện trò chưa kịp có lời hẹn ước thì
mấy người bạn tháp tùng thúc hối tôi ra về, lòng mang một
mối u hoài man mác, tim nặng một nỗi nhớ thương mông lung.
Quan họ là một làn điệu dân ca vùng đồng
bằng Bắc bộ rất đặc sắc nên năm 2009 đã được Unesco
công nhận là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại,
đồng thời với ca trù Di sản phi vật thể cần được bảo
vệ, sau nhã nhạc cung đình Huế và không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên. Dân ca nầy thường được chỉ định là
quan họ Bắc Ninh hay quan họ Kinh Bắc (tức Bắc Ninh và Bắc
Giang), phát triển rộng rãi ven con sông làm biên giới hai tỉnh
nầy là sông Cầu. Dòng sông nầy cùng với những dòng sông
Đuống, sông Thương, sông Lục Nam quen thuộc trong dân gian,
làm nền tảng cho chất thơ, tính lãng mạn trong làn điệu
dân ca. Vì vậy nhiều người tin lối hát nầy bắt nguồn
từ nhân dân, trải qua một thời gian nghi lễ trong triều đình
rồi trở về lại dân gian chứ không phải vì có chữ quan
mà hiểu quan họ phát xuất từ triều đình. Về mặt thể
thức, quan họ là một cách hát đối tức là hát giao duyên
giữa hai nhóm trai gọi là " bọn nam " hay " liền anh " và gái
gọi là " bọn nữ " hay " liền chị ". Khi mới gặp nhau trai
gái mời nhau ăn trầu, nhận lời ăn trầu là nhận lời hát
với nhau. Nhưng những nhóm nam và nữ không chỉ hát qua hát
lại mà thôi. Nếu ăn ý với nhau về lối hát cũng như về
cách cư xử, không có quan hệ buông thả, thái độ lả lơi,
thì dần dần nảy nở một mối tình cảm nối liền với
nhau những " liền anh " và " liền chị ". Sau nhiều năm cùng
nhau " ngủ bọn " ở nhà ông (hay bà) Trùm để học câu, luyện
giọng, sau nhiều lần trao đổi những câu hát thắm đậm
tình ái, ca ngợi thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình, nhưng không
bao giờ có ý tưởng tình dục, họ có thế đi đến " kết
chạ ", một tập quán xã hội có ý nghĩa tập thể " kết
nghĩa quan họ ". Tuy nhiên, dù trìu mến nhau, trước kia họ
không đi đến chỗ kết duyên vợ chồng, có lẽ vì sợ lo
toan mưu sinh, chăm lo con cái sẽ làm cản trở ít nhiều tình
cảm mơ mộng, cảm hứng ca hát. Ngày nay hình như tục lệ
có phần thay đổi, quan hệ giữa " liền anh " và " liền chị
" không còn nghiêm khắc như xưa. Những bài hát có thể theo
một kịch bản soạn truớc tuy cũng có khi được ứng tác
tùy khả năng của các ca sĩ.
Nói đến quan họ, không thể không đề cập
đến trang phục của các ca sĩ. Các " liền chị " thường
mặc ba áo dài lồng vào nhau gọi là mớ ba, có khi bảy áo
dài thì gọi là mớ bảy. Trong cùng, các bà trung niên mặc
một cái yếm bằng lụa gọi là " yếm cổ xẻ ", màu sắc
rực rỡ, phần lớn màu đỏ (yếm thắm), vàng thư (hoa hiên),
xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh
biển) còn các cô thanh nữ thì mặc " yếm cổ viền ". Giải
yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo
rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Trên
yếm là một áo cánh trắng hay vàng bằng vải phin. Ngoài cùng
họ mặc áo dài năm thân bằng the, lụa, cài khuy, khác với
áo tứ thân thắt hai vạc trước. Màu sắc áo trong thay đổi
từ đen qua nâu già, nâu non hay cánh kiến. Áo ngoài được
nhuộm nhiều màu hơn : hoa hiên, thiên thanh, cánh sen, hồ thuỷ,...
Thắt lưng dùng để thắt chặt cạp váy vào eo làm bằng lụa
cũng nhuộm những màu tươi sáng như màu các hoa đào, lựu,
hiên tươi, hồ thủy. " Liền chị " mặc váy sồi, váy lụa
màu đen, có khi " váy kép " trong bằng lụa, lương, the, đoạn,
ngoài bằng the, lụa. Trên đầu, họ chít " khăn mỏ quạ ",
đội " nón quai thao ". Dép " liền chị " làm bằng da trâu,
trên có vòng tròn để xỏ ngón chân cho dép khỏi rơi khi đi
lại, mủi cứng uống cong vừa bảo vệ vừa che dấu các ngón
chân. Áo dài năm thân " liền anh " dài tới quá đầu gối,
trên một hoặc hai áo cánh bên trong. Thường bằng lương,
the, hay bằng đoạn nếu khá giả, màu đen, áo có thể may
hai lớp, gọi là " áo kép ", ngoài bằng lương, the, trong bằng
lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ, vàng chanh, Quần trắng
dài " liền anh " ống rộng may bằng phin, trúc bầu, lụa truội,
màu mỡ gà, có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần.
Thời trước, đầu có búi tó thì phải vấn tóc bằng khăn
nhiễu, bây giờ mang " khăn xếp " bán sẵn. Họ đội nón chóp
lá hay nón chóp dứa, quai lụa màu mỡ gà, có khi mang ô (dù)
đen.
Bửa " cơm quan họ " cũng góp phần hào hứng
với " mâm đan, bát đàn" nghĩa là mâm cổ tròn ba tầng bằng
gỗ, sơn đỏ, vừa trang trọng vừa thể hiện tình cảm thắm
thiết của chủ nhà đối với khách, bát thì tiện bằng gỗ
cây bạch đàn. Thường những món ăn riêng của làng chủ
được bày trên tầng trên cùng vì mỗi làng có những món
ăn đặc trưng, trừ những món dọn trong bát lớn khó chồng
mới phải đặt xuống dưới. Dù sao, các món ăn buộc phải
có giò lụa, thịt gà, thịt lợn (heo) nạc, trong số những
thức ăn khác ít mỡ để tránh hỏng giọng. Cũng như không
có dọn rượu nếu có hát sau khi ăn. Theo thông lệ, tôi được
nghe kể là khách được mời ngồi ăn trước, chủ hát cho
khách nghe rồi mới ăn. Những lời hát bắt đầu nầy thật
ra là những lời mời xơi cơm, theo thứ tự chị Hai, chị
Ba, chị Tư, chị Năm, chị Sáu, anh Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm,
anh Sáu là tên đặt trong " bọn ", chứ không gọi bằng tên
thật. Ăn nói nhã nhặn, bao giờ cũng nhận mình là em để
tôn trọng khách. Lời mời cũng phải lịch thiệp, khiêm nhượng,
tao nhã thể hiện trong câu nói dân dã, thức thà nhưng thắm
đậm thi ca : "... Năm mới, tháng xuân, đương quan họ liền
anh ( hoặc liền chị ) không chê làng nước chúng em nghèo
mà sang chơi. Chúng em sắm bữa cơm quê, gọi là mâm đan, bát
đàn, đầu mâm đĩa muối, cuối mâm đĩa dưa, xin mời đương
quan họ nâng bát, dựng đũa xơi thật nhiệt tình cho chúng
em mừng ạ ! " Thường cả chủ lẫn khách đều ăn rất
ít có thể để giữ hơi và giọng để hát cho hay. Nếu thấy
khách rụt rè ăn ít thì " liền anh " mời khéo " Cơm hẩm
ăn với rau dưa, Quan họ làm khách em chưa bằng lòng, đấy
ạ ". " Liền chị " cũng tỏ ra mình không kém lịch sự
" Liền anh nói vậy chứ Cơm trắng ăn với thịt gà, Tuy
rằng ăn ít nhưng mà no lâu đấy ạ ". Tiếng nói quan họ
văn hoa, thấm đậm tình người như con người quan họ thanh
nhã, lịch thiệp.
Để ý về cách
xưng hô, nhún nhường, quan họ thường tự xưng là em, dù
là nam hay nữ, bất chấp già hay trẻ, nhưng tôn trọng, họ
cũng gọi nhau là người " Người về em dặn người rằng
Đâu
hơn người ấy, đâu bằng đợi em " nếu không là chàng
" Chăn chiếu ai trải giường này, Đêm qua chàng ngủ đêm
nay chàng nằm ". Có khi họ dùng chữ mình rất thân mật"
Đêm
qua ghé nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy
nhiêu ". Ngôn ngữ, xưng hô ý tứ, tập quán, lề lối cũng
phải chu đáo. Khi họ muốn mời bạn về nhà không phải nói
năng thế nào cũng được mà phải lựa lời " Mời quan
họ liền anh sang chơi bên nhà chúng em, trước là thăm thầy
mẹ chúng em, sau là cho chúng em học đòi quan họ vài đôi
lối..." Đằng kia họ phải
tỏ ra mình không nhận lời dễ dàng " Em đỡ lời chị
Hai, chúng em chỉ sợ nắng mưa thì tốt lúa đồng, chúng em
năng đi lại thì thầy mẹ lại coi thường chúng em ". Khi
đi hát về khuya " liền anh " muốn mời quan họ về nhà giải
lao, dù là cần thiết, cũng phải khiêm tốn " Hôm nay bên
liền chị sang bên đất nhà em, anh em nhà em có mâm cơm, thì
đầu mâm đĩa muối, cuối mâm đĩa gừng, mâm đan bát đàn,
để xin mời đương quan họ dựng đũa, lên chén, để anh
em chúng mình được thừa tiếp đấy ạ ". " Liền chị
" có khi nói ghẹo " Anh Hai, anh Ba nói mà như sấm bên Đông,
chớp động bên Tây, mưa tỉnh Hà Nội mà đây ướt đường
đấy ạ ", có khi nói kháy " Dạ thưa anh Hai, biết thì
đi chợ xa, còn chị em chúng em không biết thì đi bảy mươi
ba cái chợ gần đấy ạ ". " Liền anh " tỏ ra dè dặt
" Dạ thưa chị Hai, đã có lòng sang đất nhà chúng em, thì
cho anh em chúng em được thừa tiếp dăm ba lối nữa ".
Trong khi hát, nếu thấy bạn hát sai thì " liền chị " không
ngần ngại " Dạ thưa liền anh, ca bất hợp rồi đấy ạ".
Nếu
khi bạn đối đúng trong lối hát đối đáp thì " liền chị
" cũng lên tiếng ngay " Dạ, thưa liền anh, tương hằng rồi
đấy ạ ".
Ở 49 làng quan họ cổ được xác định ở
Kinh Bắc, theo truyền thống, quan họ là một lối hình thức
sinh hoạt văn hóa dân gian gồm có những cách hát khác nhau.
Lúc trước không có " hát quan họ " mà là " chơi quan họ "
trong những lễ hội ở làng, không có đàn đệm, còn gọi
là " quan họ làng " hay " quan họ chay ", không có khán giả
mà chỉ có người biết thưởng thức những làn điệu tình
tứ. Có bốn yếu tố rất đặc trưng trong cách hát quan họ
là thể hiện trong tiếng thường được cho là đệm kết
dính những âm điệu : " vang, rền, nền, nẩy ". " Vang " là
âm thanh truyền mạnh, truyền xa. " Rền" là luyến láy, nhấn
nhá. " Nền " là giọng rung liên tục. " Nẩy " là âm thanh bị
tắt ở họng được bật ra ngoài. Khi một đôi nam hát đối
đáp, đối cả lời lẫn ý, với một đôi nữ thì gọi là
" hát hội, hát canh ", một người "dẫn giọng ", người kia
" luồng giọng ", cả hai giọng vừa phải ăn ý vừa có sự
tương đồng về âm sắc. Khi cả hai nhóm cùng hát đối đáp
thì gọi là " hát chúc, hát thờ ". Vì là truyền khẩu nên
các giai điệu quan họ rất phong phú, lại có rất nhiều dị
bản. Ở Kinh Bắc trong số 400 trăm bài ca, với những giai
điệu khác nhau, một số lớn đã được nhiều nghệ nhân
hát, ghi âm và lưu giữ ở sở Văn hóa ở hai tỉnh, tính ra
có khoảng 300 bài được ký âm và in thành sách. Ngày nay,
quan họ mới thay đổi ít nhiều so với quan họ truyền thống
và, theo một vài người, còn có phần phong phú hơn. Quan họ
không còn cần phải nhất thiết hát ở lễ hội Kinh Bắc,
mà bất cứ ở một cuộc gặp mặt nào, nhân dịp Tết nguyên
đán chẳng hạn, gọi là " hát hội " trước mặt đông người.
Các bọn nam nữ đúng thành hai nhóm riêng, xung quanh chùa, trong
sân đình, dưới bóng cây hay trên thuyền. Như vậy, những
" liền anh ", " liền chị " không chỉ trao đổi tâm tình với
nhau mà còn chia sẻ với khán thính giả dù chỉ một chiều
vì khán thính giả trông và nghe mà không được mời vào dự
cuộc hát. Đằng khác, thể thức biểu diễn có phần thay
đổi : có thề hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có đàn đệm,
hát có múa phụ họa, hát trên sân khấu, hát trên đài phát
thanh gọi là " quan họ đài ", phù hợp với thị khiếu khách
du lịch, nhưng mất ít nhiều tính cách truyền thống, dân
dã. Bài hát cũng được cải biên lời hoặc cả nhạc lẫn
lời, có khi có bài mới hoàn toàn khéo soạn đến nổi khán
giả chẳng biết là bài xưa hay bài mới. Người ta bảo dân
ca quan họ có khi đã " quan họ hóa " những tác phẩm, những
yếu tố âm nhạc, văn hóa các nơi
khác. Đằng khác tập quán xã hội cũng thay đổi rất
nhiều : những tục " ngủ bọn " , " kết chạ " , " kết bọn
" hầu như không còn nữa. Cũng hết còn " hát thi " lấy gíải
làm cho ứng tác các bài ca bị mai một...
Có những việc làm quan trọng cấp bách ngày
nay cho dân ca quan họ là bảo quản cẩn thận những bản ghi
âm, kiếm cách bảo tồn nguyên vẹn truyền thống trong đà
cải cách, phong trào đổi mới, cùng lúc tiếp tục phát huy
lan tỏa làn điệu. Cần phải tôn vinh, đãi ngộ nghệ nhân,
tạo điều kiện để truyền dạy, xuất bản những ấn phẩm,
khuyến khích sưu tầm, nghiên cứu, trình diễn, giao lưu cả
trong nước lẫn ngoài nước. Báo chí đăng tin mùa xuân năm
nay (2012) Hội Lim đã đạt một kỷ lục : 3500 " liền anh"
" liển chị " chỉnh tề khăn áo quan họ cùng nhau hát ! Về
mặt nước ngoài, cũng vào dịp Tết Nhâm Thìn ở Pháp, những
người hâm mộ quan họ sung sướng được dự những buỗi
trình diễn của một đoàn từ Bắc Ninh qua. Riêng phần tôi
may mắn được nghe lại được những câu hát trữ tình quyến
luyến, thấy lại được những bộ mặt xinh tươi, hài hòa
tưởng như đã từng gặp ở Hội Lim năm nào.
Người ơi! Người ở đừng về
Người đừng tưởng gió trông mây...
Người về em dặn
người rằng
Đâu hơn người
ấy, đâu bằng đợi em
Ca khúc Người ở đừng về
Thành Xô Tết
Nhâm Thìn ảnh Hội Lim 1995
– Paris 2012
|
|
Đọc thêm
Di sản thế giới tại Việt Nam : Quan họ Bắc
Ninh, www.vietnamtourism.com
Unesco công nhận Quan họ Bắc Ninh là di sản
nhân loại, Dân Trí (Đại Dương), 01.10.2009
Dân ca Quan họ Bắc Ninh : Nón quai thao, 22.11.2010
Cơm Quan họ (Bắc Ninh): tao nhã, lịch thiệp,
06.12.2010
Trầu têm cánh phượng đặc trưng văn hóa Kinh
Bắc, 17.12.2010
Vang, rền, nền nẩy trong kỹ thuật hat Quan họ,
22. 12. 2010
Ngôn ngữ Quan họ, 02.04.2011
Quan họ Bắc Ninh : " Để
thương, để nhớ,... để say ", 22.01.2012
Nguyễn Chí Bền, Quan họ Bắc Ninh, nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội 2012
Ngược dòng quan họ : Giới thiệu quan họ Bắc
Ninh, QuanHo.org